intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Rối loạn tâm thần trên bệnh nhân tới khám tim mạch lần đầu tại Bệnh viện Tim Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

12
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày đánh giá tình trạng lo âu, trầm cảm và stress ở người bệnh đến khám lần đầu tại bệnh viện tim Hà Nội và; Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới rối loạn lo âu, trầm cảm và stress ở người bệnh đến khám lần đầu tại Bệnh viện Tim Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Rối loạn tâm thần trên bệnh nhân tới khám tim mạch lần đầu tại Bệnh viện Tim Hà Nội

  1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC RỐI LOẠN TÂM THẦN TRÊN BỆNH NHÂN TỚI KHÁM TIM MẠCH LẦN ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI ANXIETY, DEPRESSION AND STRESS AMONG PATIENTS WHO HAD FIRST EXAMINATION AT THE HANOI HEART HOSPITAL HOÀNG PHƯƠNG ANH1, NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG2, ĐỖ THỊ KIM THU2 TÓM TẮT Từ khóa: tâm thần, tim mạch, lo âu, trầm cảm, stress. Các rối loạn tâm thần đang chiếm tới 14% gánh nặng bệnh tật trên toàn thế giới trong cuộc ABSTRACT sống hiện đại ngày nay. Phát hiện sớm các rối loạn tâm thần cần được tăng cường trong cộng Mental health disorders account for up to 14% đồng, đặc biệt là trên các đối tượng có triệu chứng burden of diseases globally. Early detection of sớm của trầm cảm, lo âu và stress - những triệu mental health problems should be strengthened in chứng thường dễ nhầm lẫn với triệu chứng của the community, especially in people having early bệnh lý tim mạch. Nghiên cứu mô tả cắt ngang symptoms of anxiety, depression, and stress, được thực hiện trên 113 bệnh nhân tới khám tim which are easily misunderstood with symptoms of mạch lần đầu tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện Tim cardiovascular diseases. A cross-sectional study Hà Nội với hai mục tiêu: (1) Đánh giá tình trạng lo was conducted in 113 patients who first-time visited âu, trầm cảm và stress ở người bệnh đến khám Hanoi Heart Hospital in order to (1): Describe rate lần đầu tại bệnh viện tim Hà Nội và (2) Tìm hiểu of risk of depression, stress and anxiety among một số yếu tố liên quan tới rối loạn lo âu, trầm patients who first time visit cardiologists at Hanoi cảm và stress ở người bệnh đến khám lần đầu tại Heart Hospital, and (2) Examine factors related to depression, stress and anxiety. Bệnh viện Tim Hà Nội. Result: 35.4% patients were at risk of at Kết quả: 35,4% người bệnh tới khám lần đầu least a mental health problem. More significantly, có nguy cơ mắc ít nhất một rối loạn tâm thần. 20.35% of them were not diagnosed with any Đáng lưu ý, có tới 20,35% bệnh nhân không hề cardiac diseases after examination. Women, có chẩn đoán tim mạch xác định sau quá trình intellectual workers, patients suffering from khám bệnh. Phụ nữ, những người lao động trí óc, chronic gastrointestinal and neuropathy, people bệnh nhân đang mắc bệnh lý tiêu hóa, thần kinh having life difficulties and diet are at a higher risk mạn tính, những người gặp khó khăn trong cuộc of developing mental disorders (p < 0.05). sống và những người ăn kiêng có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần cao hơn so với các nhóm còn Conclusion: Symptoms of anxiety, depression lại (p < 0,05). and stress could be misunderstood to symptoms of cardiac diseases. Therefore, early detection Kết luận: Triệu chứng của các rối loạn tâm of mental health problems can be easily missed thần có thể nhầm lẫn với các triệu chứng của when patients visit a cardiology department. bệnh tim mạch. Các phát hiện sớm về rối loạn tâm thần vì vậy rất dễ bị bỏ qua khi người bệnh Keywords: mental health, cardiology, anxiety, đến khám ở các chuyên khoa tim mạch. depression, stress. 1 Đại học Y Hà Nội. 1. ĐẠI CƯƠNG ĐT: 0355790867 Email: phuonganh97.hmu@gmail.com. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới vào 2 Khoa Điều dưỡng - Hộ sinh, Đại học Y Hà Nội. năm 2008, có tới gần 450 triệu người bị ảnh Ngày nhận bài phản biện: 15/6/2020 hưởng bởi sức khỏe tâm thần hằng năm, trong Ngày trả bài phản biện: 26/6/2020 số đó 75% là từ các nước thu nhập trung bình- Ngày chấp thuận đăng bài: 15/8/2020 thấp [19]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu ở Mỹ 74
  2. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC năm 2014 cho thấy khoảng hai phần ba số bệnh 2.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu: Cỡ mẫu xác nhân trầm cảm không được chẩn đoán và điều định dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho việc trị, chỉ một phần năm số đó được chăm sóc đúng ước lượng một tỷ lệ trong quần thể, với α = 0,05, mực [12]. Ở Việt Nam, thống kê từ Viện Sức khỏe p = 0,142; tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017 chỉ ra rằng, khoảng 13-20% dân số có rối loạn tâm thần p.(1-p) chung như stress, lo âu hay trầm cảm [1]. Thế n = Z2(1- α/2) d2 nhưng, những rối loạn tâm thần thường chưa được phát hiện, điều trị và quan tâm chăm sóc 1- α: Mức độ tin cậy (95%). đúng mực như đã được đề cập tới trong một số p: Tỷ lệ rối loạn tâm thần trong cộng đồng theo nghiên cứu ở Mỹ của Gilbert [12], của Lynge ở báo cáo của Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1 Greenland, Đan Mạch [14]. Trong khi đó thì tim năm 2014. mạch là một trong những bệnh lý ngày càng phổ d: Sai số chấp nhận trong nghiên cứu (lấy biến và khiến bệnh nhân tới khám sức khỏe nhiều d = 0,07). hơn. Có rất nhiều triệu chứng khiến bệnh nhân nghĩ tới bệnh lý tim mạch và đi khám tim mạch n: Cỡ mẫu tối thiểu. nhưng thường gặp nhất là các triệu chứng như: Theo tính toán, cỡ mẫu tối thiểu là 96 bệnh mệt mỏi, đau ngực, hồi hộp đánh trống ngực, khó nhân. Trong thời gian thực tế lấy mẫu tại 3 khu thở và nhịp tim nhanh [10, 18]. Điều đáng nói là, khám bệnh, mỗi trợ lý nghiên cứu viên phụ trách cũng đã có một số nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ sẽ ngẫu nhiên lựa chọn 1-2 người bệnh tới khám giữa những triệu chứng đó với các rối loạn tâm trong ngày đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn vào thần [5], [15]. Điều này kết hợp với xu hướng né tham gia nghiên cứu, cho đến khi đảm bảo đủ tránh bệnh tâm thần và sợ kỳ thị ở Việt Nam có mẫu. Trên thực tế đã có 113 người bệnh tham gia thể khiến bệnh nhân nhầm lẫn giữa nghi ngờ mắc vào nghiên cứu. bệnh và tới khám tại chuyên khoa tim mạch thay 2.3.3. Công cụ thu thập số liệu vì tâm thần. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Bộ công cụ nghiên cứu gồm 3 phần: 1. Đánh giá tình trạng lo âu, trầm cảm và Phần 1. Các câu hỏi về nhân khẩu học gồm stress ở người bệnh đến khám lần đầu tại Bệnh tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nơi sinh viện Tim Hà Nội. sống, thu nhập của người bệnh. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới rối loạn Phần 2. Các câu hỏi về các yếu tố liên quan lo âu, trầm cảm và stress ở người bệnh đến khám đến trầm cảm, lo âu và stress bao gồm: Khả năng lần đầu tại Bệnh viện Tim Hà Nội. tự làm công việc cá nhân, hoạt động thể chất, hỗ trợ gia đình, hỗ trợ xã hội, chất lượng giấc ngủ, biến cố khó khăn trong cuộc sống, phương pháp 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU giải tỏa áp lực và các thói quen như hút thuốc, 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân từ uống rượu, ăn kiêng. Phần này được xây dựng 18 tuổi trở lên tới khám lần đầu tại Bệnh viện Tim dựa trên các nghiên cứu đã được công bố về yếu Hà Nội, tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu tố nguy cơ của các rối loạn tâm thần [6], [13]. và chưa từng được chẩn đoán bệnh lý tâm thần Phần 3. Thang đánh giá lo âu, trầm cảm, trước đó được mời tham gia nghiên cứu. Tiêu stress DASS 21 [2]. Thang DASS 21 đã được chuẩn loại trừ là: Các bệnh nhân không đủ năng Viện dịch và sử dụng trong sàng lọc rối loạn lo lực nhận thức. âu, trầm cảm, stress cho người bệnh. 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Thang DASS gồm có 21 câu, gồm 7 câu về Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2019 Lo âu (A), 7 câu về trầm cảm (D), 7 câu về stress đến tháng 5/2020, trong đó thời gian thu thập số (S). Mỗi câu hỏi được đo trên thang Likert Scale liệu từ 11/2019 đến tháng 12/2019 tại khoa Khám 0-3. Điểm của trầm cảm, lo âu và stress được bệnh - Bệnh viện Tim Hà Nội. tính bằng cách cộng điểm các đề mục thành phần nhân đôi trước khi kết luận. Người bệnh có 2.3. Phương pháp nghiên cứu 1 trong 3 điểm trầm cảm > 9, điểm lo âu > 7 và 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. điểm stress > 14 hoặc cả 3 sẽ được tính là có 75
  3. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC nguy cơ mắc ít nhất 1 rối loạn tâm thần. Số còn Kết quả tại Bảng 1 cho thấy phần lớn người lại thuộc nhóm không có nguy cơ. tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi từ 40- 60 tuổi, và tỷ lệ nữ nhiều hơn nam (57,5% và 2.4. Xử lý và phân tích số liệu: Số liệu được 42,5%). Trong đó, trên 50% những người tham xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS.20. Quá gia nghiên cứu có trình độ học vấn từ trung học trình phân tích dữ liệu sử dụng các phương pháp phổ thông trở lên (chiếm 66,4%). Số người đang thống kê mô tả, tính toán tỷ suất chênh OR. có vợ/chồng là 89 người, tương ứng với 78,8% cỡ mẫu, trong khi đó chỉ 10,6% số người tham gia 2.5. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được hiện đang sống một mình. Về tình trạng thu nhập thông qua bởi Hội đồng xét duyệt đề cương Cử chi tiêu, 66,3% người tham gia nghiên cứu đánh nhân Điều dưỡng tiên tiến trường Đại học Y giá họ có thể độc lập chi tiêu, trong khi số còn lại Hà Nội vào tháng 11/2019. gồm 17 người phụ thuộc một phần và 58 người phải phụ thuộc hoàn toàn chi tiêu vào người khác. 3. KẾT QUẢ 3.2. Thực trạng rối loạn tâm thần theo 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng thang đo DASS 21 nghiên cứu Dựa trên Biểu đồ 1, có 40 người (chiếm 35,4%) Bảng 1. Thông tin về nhân khẩu học của đối tham gia vào nghiên cứu này có nguy cơ mắc ít tượng nghiên cứu (N = 113) nhất 1 rối loạn tâm thần dựa theo DASS 21. Trong đó, kết quả nghiên cứu chỉ ra có 29,2% số người Tần số Tỷ lệ có nguy cơ mắc rối loạn lo âu, 8,8% nguy cơ bị Đặc điểm (n) (%) trầm cảm và 10,6% nguy cơ gặp stress bệnh lý. Tuổi >60 18 15,9 Con số đáng chú ý hơn là 20,35% tổng số người > 40 - 60 51 45,1 tham gia (23 người) có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần nhưng lại không được chẩn đoán bệnh lý tim 18 - 40 44 38,9 mạch xác định. Đây chính là nhóm bệnh nhân có Giới tính Nam 48 42,5 khả năng tới khám nhầm chuyên khoa dựa theo Nữ 65 57,5 những triệu chứng chung của cả bệnh lý tâm thần Nghề nghiệp Nội trợ/Ở nhà/Hưu 32 28,3 và tim mạch. Nông dân 21 18,6 Công nhân 20 17,7 Lao động trí óc 32 28,3 Lao động chân tay 8 7,1 Khu vực Nông thôn 55 48,7 sinh sống Thành thị 58 51,3 Tôn giáo Có 10 8,8 Không 103 91,2 Trình độ Từ PTTH trở xuống 75 66,4 học vấn CĐ, ĐH, sau Đại học 38 33,6 Biểu đồ 1. Tỷ lệ có ít nhất một loại rối loạn tâm thần (lo âu, trầm cảm, stress) theo thang Tình trạng Có vợ/chồng 89 78,8 hôn nhân điểm DASS 21 Độc thân/ góa/ly dị 24 21,2 Sống cùng Sống với vợ/chồng/ 101 89,4 3.3. Các yếu tố liên quan tới nguy cơ mắc trong gia đình người thân rối loạn tâm thần Sống một mình 12 10,6 Một số yếu tố được tính toán tỷ suất chênh Tình trạng thu Không phụ thuộc 38 33,6 odd ratio (OR) với nguy cơ mắc ít nhất 1 rối loạn nhập/chi tiêu Phụ thuộc một phần 17 15,0 tâm thần. Các yếu tố bao gồm đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, nơi Phụ thuộc hoàn toàn 58 51,3 sinh sống, tình trạng hôn nhân, thu nhập), thông 76
  4. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC tin y khoa (BMI, tần suất đi khám, thông tin sức Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng 25,7% số khỏe phụ nữ, các bệnh lý mạn tính) và các thói người tham gia là phụ nữ và có nguy cơ mắc rối quen sinh hoạt hằng ngày (các hoạt động cá loạn tâm thần trong khi con số đó chỉ là 9,7% so nhân, luyện tập thể dục thể thao, chất lượng giấc với nhóm nam giới. Về yếu tố nghề nghiệp, những người lao động trí óc có nguy cơ mắc rối loạn tâm ngủ, khó khăn cuộc sống, cách giải tỏa áp lực và thần cao hơn 2,98 lần nhóm ở nhà/về hưu (95% tần suất sử dụng rượu, thuốc lá và ăn kiêng). Có CI: 1,38 - 4,52, p = 0,009). Tiếp đến, trong số các yếu tố cho thấy mối liên quan trực tiếp với nguy bệnh lý mạn tính được nghiên cứu, bệnh tiêu hóa cơ mắc ít nhất 1 rối loạn tâm thần, nhưng cũng có và thần kinh có mối liên quan đến nguy cơ mắc rối một số yếu tố chỉ cho thấy sự khác biệt giữa các loạn tâm thần. Cụ thể là trong nhóm bệnh nhân phân nhóm, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. đang mắc bệnh lý tiêu hóa, có tới 13,3% số người Kết quả được trình bày một cách ngắn gọn các có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần và nguy cơ mắc yếu tố có liên quan một cách có ý nghĩa thống kê rối loạn tâm thần cao gấp 5,66 lần khi so sánh 2 trong Bảng 2. nhóm. Với nhóm bệnh nhân đang mắc bệnh lý thần kinh như tăng huyết áp, đột quỵ hoặc các Bảng 2. Các yếu tố liên quan tới nguy cơ mắc vấn đề về mạch máu não thì tỷ lệ này là 10,6%. rối loạn tâm thần (N = 113) Khi tính toán các yếu tố liên quan thuộc nhóm thói quen sinh hoạt hằng ngày, có sự khác biệt có ý Nguy cơ mắc ít nghĩa thống kê giữa các môn thể thao được chọn nhất 1 rối loạn OR (p = 0,033), trong đó đi bộ là một trong các yếu tố Yếu tố tâm thần p 95%CI liên quan tới nguy cơ mắc rối loạn tâm thần (OR Có Không = 4,29; 95% CI: 1,13-16,35) khi so sánh với các Nam 9,7% 32,7% 2,71 môn thể thao cần vận động mạnh như bóng đá, Giới 0,017 Nữ 25,7% 31,9% 1,18-6,23 bóng bàn, cầu lông. Bên cạnh đó, khó khăn trong Nội trợ/về cuộc sống có thể làm tăng nguy cơ mắc rối loạn 9,7% 18,6% 1 tâm thần lên gần 3 lần ở những người gặp phải hưu Nghề Lao động 2,98 (OR = 2,51; p = 0,017). 50,4% là tỷ lệ số người 10,6% 17,7% 0,009 tham gia nghiên cứu đang gặp phải vấn đề khó nghiệp trí óc 1,38 - 4,52 Lao động 1,13 khăn trong cuộc sống và có nguy cơ mắc rối loạn 15,1% 28,3% 0,097 tâm thần. Đáng chú ý, trong khi rượu và thuốc lá chân tay 0,45 - 2,85 Bệnh Không 22,1% 58,4% không chỉ ra mối liên quan có ý nghĩa thống kê tới 5,66 nguy cơ mắc ít nhất 1 rối loạn tâm thần thì chế độ tiêu hóa < 0,001 2,06-15,51 mạn tính Có 13,3% 6,2% ăn kiêng lại có (p < 0,001). Cụ thể là hơn một nửa Bệnh Không 24,7% 62,8% số người không ăn kiêng không có nguy cơ mắc 15,21 thần kinh < 0,001 rối loạn tâm thần (54,9%). 3,12-72,37 mạn tính Có 10,6% 1,8% Bóng 4. BÀN LUẬN đá, bóng 2,7% 18,6% 1 bàn, cầu Về thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở bệnh lông,... nhân tới khám lần đầu tại Bệnh viện Tim Hà Nội, Hoạt Thiền/ 7 động thể Yoga 2,7% 2,7% 0,057 kết quả nghiên cứu chỉ ra có 29,2% số người có 0,94-52,04 nguy cơ mắc rối loạn lo âu, 8,8% nguy cơ bị trầm thao 4,29 cảm và 10,6% nguy cơ gặp stress bệnh lý. Tỷ lệ Đi bộ 16,8% 27,4% 0,033 1,13-16,35 này thấp hơn kết quả nghiên cứu của nhóm tác 5,83 giả về rối loạn tâm thần trên bệnh nhân tim mạch Không 13,2% 15,9% 0,073 1,45-23,43 với 20 - 30% bệnh nhân bị trầm cảm có bệnh lý Khó Không 8,8% 14,2% mạch vành [8]. Sự khác biệt này có thể đến từ khăn 2,51 việc chọn đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 0,017 cuộc Có 50,4% 26,6% 1,26 - 2,97 những bệnh nhân tới khám lần đầu. Tuy nhiên, khi sống so sánh với một nghiên cứu khác của Ansseau và Không 19,5% 54,9% 4,61 Ăn kiêng < 0,001 cộng sự trên cỡ mẫu cộng đồng lớn hơn, tỷ lệ rối Có 15,9% 9,7% 1,89-11,28 loạn lo âu cao hơn so với kết quả của Ansseau 77
  5. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (19%) [3]. Đặc biệt, tỷ lệ những người đi khám có có thể thấy tỷ lệ có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần nguy cơ mắc rối loạn tâm thần và không có chẩn trên đối tượng nghiên cứu là 35,4%; trong đó có đoán tim mạch là 20,35%. Kết quả nghiên cứu 20,35% đã được chẩn đoán không có bệnh lý tim của chúng tôi tương đồng với kết quả của Jonna mạch. Phụ nữ, những người lao động trí óc, bệnh vào năm 2015 chỉ ra rằng trong cộng đồng có thể nhân đang mắc bệnh lý tiêu hóa, thần kinh mạn lên tới 25% bệnh nhân mắc trầm cảm, lo âu hoặc tính, những người gặp khó khăn trong cuộc sống rối loạn dạng cơ thể nhưng biểu hiện ra bằng các và những người ăn kiêng là các yếu tố liên quan triệu chứng thực thể không giải thích được [17]. tới nguy cơ rối loạn tâm thần ở bệnh nhân tới Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại chỉ ra tỷ khám tim mạch lần đầu. lệ cao hơn gấp 2-3 lần kết quả nghiên cứu của Các bệnh nhân tới khám tim mạch nói riêng chúng tôi như nghiên cứu của Lynge và cộng sự và mọi người trong cộng đồng nói chung nên với 49,3% người có ít nhất 1 chẩn đoán tâm thần được sàng lọc sớm nguy cơ mắc rối loạn tâm trong cả quần thể [14] hay như nghiên cứu của thần, trong đó bác sĩ và điều dưỡng ở những vị trí Ansseau và cộng sự chỉ ra ngưỡng rối loạn tâm khám chữa bệnh ban đầu đóng vai trò quan trọng thần là 42,5% trên tất cả bệnh nhân [3]. Trên thực trong việc phát hiện và điều trị. Bên cạnh đó, cần tế, ở Việt Nam chưa có nhiều các nghiên cứu về có một công cụ sàng lọc đặc biệt, đầy đủ và chính rối loạn tâm thần trên bệnh nhân tim mạch, đặc xác hơn nguy cơ mắc rối loạn tâm thần ở các biệt là sự nhầm lẫn có thể xảy ra giữa 2 chuyên bệnh nhân tới khám tim mạch. Ngoài ra, nghiên khoa này với những bệnh nhân đi khám lần đầu. cứu hồi cứu theo dõi cần được tiếp tục tiến hành Do vậy, những khác biệt về kết quả nghiên cứu để khảo sát tiếp xu hướng đi khám bệnh tâm thần có thể do cách chọn cỡ mẫu, bộ câu hỏi hoặc của các bệnh nhân có nguy cơ rối loạn tâm thần. mục tiêu chính của từng nghiên cứu, thậm chí là yếu tố văn hóa xã hội đặc thù của Việt Nam. Về các yếu tố liên quan, nghiên cứu của TÀI LIỆU THAM KHẢO Blumenthal [4] và Serlie [16] đều đồng ý về mối 1. Bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí Minh, liên quan của giới nữ tới nguy cơ cao hơn mắc rối Hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng loạn tâm thần, điều mà có thể được giải thích dựa tại TP. Hồ Chí Minh. 2017, Ho Chi Minh Mental trên những áp lực mà người phụ nữ phải chịu health hospital. đựng. Kết quả cho thấy những người lao động trí óc có nguy cơ rối loạn tâm thần cao hơn những 2. Viện Sức khỏe Tâm thần quốc gia. Thang người ở nhà hoặc đã về hưu, điều này tương tự đánh giá Lo âu - Trầm cảm - Stress (DASS 21). như kết luận của Chen R, Copeland và cộng sự From: http://nimh.gov.vn/vi/chuyen-de-tam-than/ rằng 55% số người bị trầm cảm trong cộng đồng trac-nghiem-tam-ly/88-cac-trc-nghim/770-thang- là người lao động trí óc [9]. Điều này là hợp lý vì anh-gia-lo-au-trm-cm-stress-dass-21.html. khi sử dụng trí óc càng nhiều, sự căng thẳng thần 3. Ansseaua M., Dierickb M., Buntinkxc kinh có thể dẫn tới giảm sút sức khỏe tâm thần và F., et al. (2004). High prevalence of mental nguy cơ cao hơn mắc các rối loạn tâm thần bệnh disorders in primary care. Journal of Affective lý. Bên cạnh đó, các bệnh lý như bệnh mạn tính Disorders, 78(1), 49-55. https://doi.org/10.1016/ tiêu hóa và thần kinh đều đã được chỉ ra trong S0165-0327(02)00219-7 các nghiên cứu trước đó rằng có mối liên hệ tới nguy cơ mắc rối loạn tâm thần [16], [11]. Ngoài 4. Blumenthal J., & Smith P. (2010). Anxiety ra, khó khăn trong cuộc sống luôn là yếu tố nguy and risk of cardiac events. Nature Reviews cơ trực tiếp tác động tới sức khỏe tâm thần. Kết Cardiology, 7, 606-608 quả nghiên cứu của Chaddha cho thấy ví dụ về 5. Carney R. M., Freedland K. E., Steinmeyer việc rất nhiều loại khó khăn trong cuộc sống đều B. et al. (2016). Cardiac risk markers and response có thể dẫn tới nguy cơ mắc rối loạn tâm thần [7]. to depression treatment in patients with coronary heart disease. Psychosomatic Medicine, 78(1), 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 49-59. Dựa vào kết quả nghiên cứu trên 113 bệnh 6. Celano C. M., Villegas A. C., Albanese A. M. nhân lần đầu tới khám tại Bệnh viện Tim Hà Nội, (2018). Depression and anxiety in heart failure: A 78
  6. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC review. Harvard Review of Psychiatry, 26(4), 175- chest pain. Psychotherapy and Psychosomatics, 184. doi:10.1097/HRP.0000000000000162 1995. 64(2), 62-73. doi: 10.1159/000288993 7. Chaddha A., Robinson E. A., Kline-Rogers 17. Van Eck van der Sluijs J., Ten Have M., E., et al. (2016). Mental health and cardiovascular Rijnders C., et al. (2015). Medically unexplained disease. The American Journal of Medicine, and explained physical symptoms in the general 129(11), 1145-1148. population: association with prevalent and incident mental disorders. PloS One, 10(4), 8. Chauvet-Gelinier J. C., & Bonin B. e0123274. doi: 10.1371/journal.pone.0123274 (2017). Stress, anxiety and depression in heart disease patients: A major challenge for 18. Weber B. E. & Kapoor W. N. (1996). cardiac rehabilitation. Annals of Physical and Evaluation and outcomes of patients with Rehabilitation Medicine, 60(1), 6-12. palpitations. The American Journal of Medicine, 100(2), 138-148. doi: 10.1016/ 9. Chen R, Wei L, Hu Z, et al. (2005). Depression s0002-9343(97)89451-x in older people in rural China. Archives of Internal 19. World Health Organization. (2008). Medicine, 165(17), 2019-2025. Integrating mental health into primary care: 10. Evangelista L.S., Moser D. K., Westlake C. A global perspective. From https://www.who. et al. (2008). Correlates of fatigue in patients with int/mental_health/resources/mentalhealth_ heart failure. Progress in Cardiovascular Nursing, PHC_2008.pdf (accessed 28/06/2020) 23(1), 12-17. 11. Fink A. M., Sullivan S. L., Zerwic J. J., et al. (2009). Fatigue with systolic heart failure. The Journal of Cardiovascular Nursing, 24(5), 410-417. https://doi.org/10.1097/JCN.0b013e3181ae1e84 12. Gilbert B. J., Patel V., Farmer P. E., et al. (2015). Assessing development assistance for mental health in developing countries: 2007- 2013. PLoS Medicine, 12(6), e1001834. https:// doi.org/10.1371/journal.pmed.1001834 13. Holt R. I., Phillips D. I., Jameson K. A., et al. (2013). The relationship between depression, anxiety and cardiovascular disease: findings from the Hertfordshire Cohort Study. Journal of Affective Disorders, 150(1), 84-90. https://doi. org/10.1016/j.jad.2013.02.026 14. Lynge I., Munk-Jørgensen P., Pedersen A. L., et al. (2004). Common mental disorders among patients in primary health care in Greenland. International Journal of Circumpolar Health, 63(sup2), 377-383. doi: 10.3402/ijch.v63i0.17940 15. Roy-Byrne P. P., Davidson K. W., Kessler R. C., et al. (2008). Anxiety disorders and comorbid medical illness. General Hospital Psychiatry, 30(3), 208-225. https://doi.org/10.1016/j. genhosppsych.2007.12.006 16. Serlie A.W., Erdman R.A., Passchier J., et al. (1995). Psychological aspects of non-cardiac 79
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0