intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Krông ANa

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

41
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên một số kiến thức, kỹ năng để tổ chức hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý và thống nhất, đồng thời phải chính xác, thiết thực và mang tính ứng dụng cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Krông ANa

  1. MỤC LỤC Trang I.Phần   mở   đầu...................……………………...………………………..... …...3 1.   Lý   do   chọn   đề   tài........... ……………………………………………………....3 2. Mục tiêu và nhiệm vụ...............………………………………………….....… 5 3. Đối tượng nghiên cứu...........……………………………………………….… 5 4.   Giới   hạn   phạm   vi   nghiên   cứu....………………………………………….. …..5 5.Phương   pháp   nghiên   cứu...................………………………………….. ……...5 II.   Phần   nội   dung.............. ……………………………………………………...6 1.   Cơ   sở   lí   luận.......…………………………………………………….... ……....6 2.   Thực   trạng…...............……………………………………………....…... …...6 2.1.Thuận lợi, khó khăn.............................................…………………………… 6 2.2.   Thành   công,   hạn   chế.......................……. …………………………………...7 1
  2. 2.3.   Mặt   mạnh,   mặt   yếu.......................……………………………………. …….7 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố  tác động ...……………………………….. ….8 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề  về thực trạng mà đề  tài đã đặt ra…...….. …..8 3.Giải   pháp,   biện   pháp…...................…………………………………...... ……..8 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp…..............……………………..…...... …8 3.2.   Nội   dung   và   cách   thức   thực   hiện   giải   pháp,   biện   pháp…................ …….......9 3.3. Điều kiều để thực hiện các giải pháp……................………………..…..… 20 3.4.   Mối   quan   hệ   giữa   các   biện   pháp,   giải   pháp………....……………. ……….21 3.5.   Kết   quả   khảo   nghiệm,   giá   trị   khoa   học   của   vấn   đề   nghiên   cứu……............21 4.   Kết   quả   thu   được   qua   khảo   nghiệm   ……………...…….................. ………...21 III.   Phần   kết   luận,   kiến   nghị………………...................................... ………...23 1.   Kết   luận……………………….....................……………………..... ……….23 2. Kiến nghị……………………………….................……….....……………...24 2
  3. Tài   liệu   tham   khảo………………………………............. ……………………..26   3
  4. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN  NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5­6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động  và giao lưu. Trong học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư duy, lĩnh hội kiến  thức, vừa nói lên khả  năng trí tuệ của con người. Ngôn ngữ  được hình thành   và phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân. Ngôn ngữ nói, giao tiếp và đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối  với sự phát triển nhân cách của trẻ Mầm non nói riêng, của con người và xã  hội nói chung. Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ  phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có  nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ  nói và các kỷ  năng   đọc viết ban đầu của trẻ.  Ở  giai đoạn này trẻ  đạt được những thành tích vĩ  đại mà ở các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của   từ, cách sử  dụng từ  ngữ  để  chuyển tải  suy nghĩ và cảm xúc của bản thân,  hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và phát triển các năng  lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin và tiếp nhận,  đáp lại ý tưởng, thông tin với người khác. Ngôn ngữ  giúp trẻ  bày tỏ  ý kiến,   đặt câu hỏi, phân loại và phát triển cách tư  duy và tạo nên cầu nối giữa quá  khứ, hiện tại và tương lai. Vygotsky đã nhấn mạnh rằng ngôn ngữ  nói rất  quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ  khó, tạo mối quan hệ  xã hội và  kiểm soát hành vi của những trẻ khác cũng như hành vi của bản thân.  4
  5. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực  phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý   nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề  và chức  năng tư duy ký hiệu tượng trưng ở trẻ. Sự  lĩnh hội ngôn ngữ  là rất cần thiết cho việc phát triển tình cảm, xã   hội và nhận thức của trẻ. Sự phát ngôn ngữ của trẻ ảnh hưởng đến khả năng   học tập trong trường Tiểu học, Trung học và cả trong tương lai. Ngôn ngữ và  khả năng đọc viết là rất quan trọng cho những thành công trong tương lai của   con người.  Nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ  và chuẩn bị  tiếng  Việt cho trẻ  theo nguyên tắc cơ  bản của Giáo dục có chất lượng.  Trẻ  em  được học trong một môi trường học tập thân thiện, phương pháp giảng dạy  tích cực, cởi mở và thân quen gần gũi. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em phụ  thuộc rất lớn vào sự  giao tiếp của trẻ  em và người lớn và trẻ  em với nhau.  Trong công tác giáo dục trẻ mầm non, giáo viên cần phải có ý thức rèn luyện  và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi  nơi, mọi hoạt động với nhiều biện pháp khác nhau. Biện pháp phát triển hoạt  động ngôn ngữ cho trẻ 5­ 6 tuổi là cách thức thực hiện các nội dung phát triển  các kỷ năng ngôn ngữ nhằm giúp trẻ có khả năng diễn đạt rõ ràng mạch lạc,  có văn hóa và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Phát triển khả  năng phát âm, rèn ngữ  điệu lời nói, hình thành và phát  triển vốn từ, phát triển ngôn ngữ  mạch lạc, nghệ  thuật cho trẻ  5 ­ 6 tuổi  ở  trường mầm non là một trong những hoạt động giáo dục hữu hiệu nhất để  phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trên thực tế có những giáo viên còn cứng nhắc,  rập khuôn, máy móc, chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt   động, hạn chế cho trẻ thực hành trãi nghiệm. Dựa trên cơ sở lý luận và thực  tiễn của vấn đề  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mẫu giáo 5 ­ 6 tuổi. Giúp giáo  viên  hiểu  biết   thêm   về  những  hình  thức   tổ  chức  thực  hiện,  tích  cực   đổi  5
  6. phương pháp dạy học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn   ngữ  cho trẻ. Bản thân tôi chọn đề  tài “Một số  biện pháp chỉ  đạo nâng cao  chất lượng phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  5­ 6 tuổi  ở  trường Mầm non Krông  ANa ” để  nghiên cứu và áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cho  đội ngũ giáo viên ở trường. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên  một số  kiến thức, kỹ  năng để  tổ  chức hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ  cho trẻ có hiệu quả hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý  và thống nhất, đồng thời phải chính xác, thiết thực và mang tính  ứng dụng  cao.  ̣ ̣ ̉ ̀ ̀ ́ ́ ́ ́ ̉ ức xây dựng môi   Nhiêm vu cua đê tai là giup giao viên biêt cach tô ch trương tô ch ̀ ̉ ưc cac hoat đông giáo d ́ ́ ̣ ̣ ục trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giúp   trẻ lĩnh hội cả ba thành phần của ngôn ngữ  đó là phát âm, phát triển vốn từ,   nói đúng ngữ pháp. Nhiệm vụ quan trọng nhất phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 –  6 tuổi là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, lời nói nghệ thuật. Trẻ là chủ thể của   phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ  của trẻ  được phát triển thông qua quá trình  giao tiếp của trẻ với những người xung quanh, với môi trường tự nhiên và xã  hội. Để  phát triển ngôn ngữ, trẻ  phải được nghe, được băt ch ́ ươc l ́ ời nói,  được chủ động noi nh ́ ững lời nói diễn cảm, mạch lạc, rõ ràng, nghệ thuật. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp chỉ đạo nâng  cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông  Ana. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề  tài là một số  biện pháp chỉ  đạo nâng cao  chất lượng phát triển ngôn ngữ 6
  7. Phạm vi đối tượng: Học sinh 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana Phạm vi thời gian: Năm học 2015 ­ 2016 5. Phương pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài này đã sử dụng: + Phương pháp điều tra + Phương pháp nghiên cứu tài liệu + Phương pháp trao đổi đàm thoại + Phương pháp trải nghiệm thực tiễn. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận Sự  phát triển toàn diện của trẻ  bao gồm cả  phát triển về  đạo đức,  chuẩn mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải  ứng xử, giao  tiếp cho phù hợp… không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển  sẽ giúp trẻ mở rộng giao tiếp.  Ngôn ngữ phát triển  giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mỹ trong   thơ ca, chuyện kể,trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày sự  tác động của những lời nói nghệ thật nhẹ nhàng của cô giáo khi truyền cảm   xúc của tác phẩm văn học, như một phương tiện hữu hiệu nhất để phát triển   ngôn ngữ  cho trẻ. Lứa tuổi Mầm non là giai đoạn phát triển ngôn ngữ  siêu   tốc.  Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng có mục đích, nhiệm vụ,  nội dung, phương pháp cụ  thể  như  các phương pháp hoạt động khác. Phát  triển ngôn ngữ  cho trẻ  được tích hợp trong tất cả  hoạt động giáo dục trẻ.   Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng  là rất quan trọng đối với giáo viên mầm non. Đội ngũ giáo viên cần có những   kiến thức, kỷ  năng, biện pháp, thủ  thuật, biết tận dụng các cơ  hội có được  7
  8. mới có thể nâng cao chất lượng tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách  tốt nhất. 2.Thực trạng 2.1. Thuận lợi, khó khăn Trường mầm non Krông Ana là một trường trọng điểm của ngành học   mầm non. Có cơ  sở  vật chất, trang thiết bị đồ  dùng, đồ  chơi tương đối đầy  đủ. Đội ngũ giáo viên đa số  đã có bề  dày kinh nghiệm trong công tác giảng  dạy. Có nhiều giáo viên trẻ, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng truyền thụ kiến  thức cho trẻ một cách hiệu quả. Bên cạnh đó vẫn còn một số  giáo viên (nhất là giáo viên lớn tuổi, giáo  viên mới ra trường). Khi tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non (mới),   việc tổ  chức hướng dẫn cho trẻ  hoạt động còn cứng nhắc, rập khuôn, máy  móc (nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 ­ 6 tuổi) giáo viên chưa có  kỹ  năng, thủ  thuật, đọc thơ, kể  chuyện chưa diễn cảm, chưa truyền được  cảm xúc cho trẻ, chưa gây được hứng thú cho trẻ khi hoạt động. 2.2. Thành công và hạn chế Khi vận dụng đề  tài này, giáo viên sẽ  có những kiến thức cơ  bản,   những biện pháp, những kỹ năng, thủ thuật đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, để  truyền thụ  kiến thức, đưa đến cho trẻ  những cảm xúc, những hình tượng  tuyệt diệu của ngôn ngữ  một cách có hệ  thống. Từ   đó hướng chú ý của trẻ  vào  phát âm chuẩn xác, vốn từ phát triển,lời nói mạch lạc, nghệ thuật Trẻ  biết tự  kể  lại chuyện, biết sử  dụng trong lời nói của mình bằng  các từ  mà trẻ  đã lĩnh hội được. Điều này chứng tỏ  đã chuẩn bị  cho sự  phát   triển ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ. Tuy nhiên với những nội dung của đề  tài   này, nếu giáo viên không chịu khó suy nghĩ, rèn luyện kỹ  năng để  vận dụng  vào thực tế  thì nhiều hoạt động giáo dục để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  không đạt được hiệu quả cao. 8
  9. 2.3. Mặt mạnh, mặt yếu Với nội dung của đề tài này giáo viên đã biết vận dụng trong quá trình   hướng dẫn trong các hoạt động. Tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi trong các hoạt động giáo dục với nhiều hình   thức khác nhau như hình thức trong tiết học, hay hoạt động ngoài trời, đi dạo,  đi tham quan đều vận dụng các biện pháp đưa ra để  dạy trẻ, nhằm giúp trẻ  hoạt động tích cực… Trẻ  biết phân tích, tổng hợp và khái quát hóa tri thức,   đồng thời trẻ biết cảm nhận, rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm  của đời sống xã hội.  Từ  đó trẻ  không những thích đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, thích kể  chuyện mà còn biết cách đọc thơ, kể  chuyện diễn cảm, lời nói của trẻ  rõ  ràng, mạch lạc, nghệ  thuật, trẻ  tự  tin trong giao tiếp. Song nếu giáo viên  không chịu khó suy nghĩ, đầu tư  xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ,  không có sự  linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các nội dung biện pháp của đề  tài thì việc tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  ở trường mầm non vẫn chưa đạt hiệu quả. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động  Với nội dung đề  tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ  thực   hiện. Đã có sự  lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức   phù hợp cho trẻ  thực hành trải nghiệm để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Tiến   hành phân tích tổng hợp tìm ra được những  ưu điểm, hạn chế  của giáo viên  hay của trẻ, để tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho   trẻ có hiệu quả hơn. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  ra 9
  10. Từ  những khó khăn bất cập về  việc cho phát triển ngôn ngữ  trẻ  5 ­ 6   tuổi các hoạt động giáo dục. Muốn thành công và hạn chế những vấn đề yếu  kém, và tìm ra được nguyên nhân  Để   khắc   phục,   cần   phải   thường   xuyên   phân   tích   và   tổng   kết   kinh   nghiệm giảng dạy. Cần có sự  lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và  các hình thức cho trẻ  tiếp cận với hoạt động giáo dục. Tiến hành phân tích  tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập thể  sư  phạm trong quá khứ, để  tổ  chức phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  5 ­ 6 tuổi   trong các hoạt động học tập và vui chơi ở trường mầm non được tốt hơn. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ  giúp cho giáo viên có thêm kỹ  năng   thủ thuật để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả. Giáo viên biết   phân tích nội dung và nghệ  thuật của tác phẩm và hướng dẫn trẻ  thực hành  trãi nghiệm.  Giáo viên nắm được kỷ  thuật truyền đạt cho trẻ. Giúp trẻ  phát âm rõ  ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu ( tốc độ, nhịp điệu, ngừng  nghỉ, điều chỉnh độ  nhanh chậm, cường độ  giọng).  Làm cho việc tiếp thu  kiến thức của trẻ  trở  nên dễ  dàng và sự  ghi nhớ  giàu cảm xúc để  phát triển  ngôn ngữ của trẻ trở nên bền vững và chính xác hơn. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp * Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên rèn luyện khả năng nghe   lời nói, khả năng phát âm, rèn luyện ngữ điệu của lời nói cho trẻ. Phản  ứng nghe các âm thanh tự nhiên xuất hiện  ở trẻ rất sớm. Nhất là  trẻ 5 – 6 tuổi có thể phản ứng được với các mức độ  khác nhau của âm thanh   lời nói. 10
  11. Rèn luyện khả năng nghe cho trẻ bao gồm các thành tố: rèn luyện khả  năng chú ý nghe, nghe cao độ, nghe từng âm vị, tri giác tốc độ, nhịp độ lời nói.   Khả năng nghe tốt sẽ tạo điều kiện cho khả năng nói phát triển. Đối với trẻ  năm tuổi, vốn từ  tăng nhanh, trẻ  hiểu được nghĩa và dùng   từ  đã chính xác hơn, đã sử  dụng được nhiều mẫu câu đơn giản, đúng ngữ  pháp, có thể  kể  một số  chuyện ngắn một cách tuần tự, lôgic, có thể  kể  chuyện theo tranh… Như  vậy,  điều kiện và khả  năng giao tiếp được mở  rộng. Mặt âm thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển: Trẻ  lĩnh hội  được và phát âm đúng nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ  bắt đầu  biết điều chỉnh tốc độ, cường độ của giọng nói. Nhiệm vụ của giáo viên là dạy trẻ phát triển khả năng nghe các âm tiết,   phát âm đúng tất cả  các âm vị  tiếng Việt trong các từ, câu một cách rành   mạch, rõ ràng. Tiếp tục rèn luyện kỹ  năng điều chỉnh giọng nói với cường   độ, tốc độ phù hợp với tình huống giao tiếp. Nếu  ở  giai đoạn trước sử  dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì giai   đoạn này giáo viên cần sử  dụng biện pháp cho trẻ tập phát âm (sử  dụng các   bài tập – trò chơi) Tuần tự  tập cho trẻ  phát âm tất cả  các âm vị  trong tiếng   Việt. Các âm vị khó phát âm như: r, s, x, l, m, n phải chú ý tập cho trẻ thường   xuyên liên tục ở mọi lúc mọi nơi. Phần lớn trẻ  tuổi mẫu giáo lớn đã nắm được và phát âm đúng tất cả  các âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các thanh điệu, biết phát âm   đúng và rõ các từ, biến đổi cường độ, ngữ điệu phù hợp, sử dụng các phương   tiện biểu cảm phát âm phù hợp… Có một số trường hợp trẻ yếu không phát âm được hoàn toàn các âm vị,   thanh điệu, và phát âm sai một số  từ  khó, bỏ  sót một số  nguyên âm. Một số  11
  12. không phân biệt được các âm gần giống nhau: s – x, l – m ­ n, r – d; ch ưa làm   chủ được cường độ, ngữ điệu. Giáo viên cần tiếp tục hoàn thiện khả  năng nghe lời nói cho trẻ, giáo  viên cần phát âm chuẩn xác, rõ ràng cho trẻ bắt chước phát âm theo, củng cố  các kĩ năng nói rõ đúng các từ, câu, sử dụng đúng ngữ điệu biểu cảm cho trẻ. Giáo viên cần sử  dụng các bài tập, trò chơi ngôn ngữ, các câu chuyện   kể, những bức tranh có chủ  đề, những bài tập nói nhanh, câu đố… có chứa  các câu khác nhau để trẻ luyện nghe nói đồng thời rèn luyện ở trẻ tốc độ nói,  phát âm, kĩ năng điều chỉnh giọng nói… Trẻ hát và nói cùng sử dụng một bộ máy phát âm. Vì thế luyện hát cho  trẻ đồng thời cũng là luyện âm thanh ngôn ngữ. Dạy trẻ hát tức là rèn luyện  cho trẻ khả năng điều khiển bộ máy phát âm của mình. Các giờ  nghe hát luyện tai nghe  cho trẻ. Tai nghe âm nhạc khiến  cho khả  năng nghe tinh tế hơn, nhạy cảm hơn rất nhiều . Chính bởi bản chất của âm  thanh âm nhạc. Nghe nhạc là nghe một cách toàn diện cả  cao độ, cường độ,  nhịp điệu, âm sắc… Các bài hát đòi hỏi trẻ phải làm chủ việc điều khiển phát âm một cách  hết sức tinh tế sao cho âm thanh ngôn ngữ vừa đúng, vừa biểu cảm. Mọi lúc, mọi nơi cô đều có thể luyện phát âm cho trẻ: khi tập thể dục,   đi dạo, giờ  chơi, trong thời gian đón và trả  trẻ… Giáo viên phải nắm vững  khả năng phát âm của từng cháu để lựa chọn thời điểm thích hợp luyện phát  âm cho trẻ. Để làm được điều này, giáo viên cần tiến hành khảo sát khả năng  phát âm của trẻ ngay từ đầu năm học để tìm hiểu từng cá nhân trẻ. Từ đó có  kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp   được diễn ra  ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong   12
  13. giao tiếp hằng ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè. Trong cuộc sống hằng   ngày, cô cần thường xuyên giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ. Khi giao tiếp với   trẻ, cô phải phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước, uốn nắn, tập cho   trẻ phát âm đúng các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, nhất là những âm khó, những  âm khó phân biệt, dẫn đến sự nói ngọng: l – m – n , p – q… Trong giao tiếp hàng ngày, cô không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm đúng,  mà cần tập luyện cho trẻ biết sử dụng ngữ điệu đúng, thích hợp với những   hoàn cảnh, tâm trạng cụ thể. Dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để  biểu thị tình cảm yêu thương của trẻ Việc dạy trẻ phát âm đúng, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng còn được  thực hiện trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập, đặc biệt   là trong khi kể  chuyện cho trẻ  nghe và khi trẻ  kể  chuyện cho người khác  nghe. Khi kể  chuyện, giọng nói và ngữ  điệu là phương tiện rất quan trọng.   Có thể nói rằng câu chuyện trở nên hấp dẫn nhờ  giọng kể hấp dẫn, biết sử  dụng ngữ  điệu thích hợp để  diễn tả  tính cách nhân vật. Trẻ  tập trung chú ý   cao độ vào ngôn ngữ kể chuyện của cô, lắng nghe cách phát âm, ngữ điệu của  cô, trên cơ  sở đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ  điệu thích hợp, và kể  lại chuyện theo sự sáng tạo của mình. Khi trẻ kể lại chuyện, cô cần uốn nắn   cho trẻ cách phát âm đúng các âm khó, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng với   tính cách nhân vật, trong những tình huống cụ thể. Ví dụ: Một số bài thơ, đồng dao có thể dùng để  luyện phát âm các âm  vị khó  cho trẻ như Con kiến mà leo cành đa Hoặc:  Lúa nếp là lúa nếp làng Leo   phải   cành   cụt   leo   ra   leo   Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng vào 13
  14. Con kiến mà leo cành đào,  Hay câu đố: Rì rì rà rà Leo phải cành cụt leo vào leo   Cõng nhà đi chơi ra Là con gì? Con Rùa * Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn giáo viên hình thành và phát triển vốn   từ cho trẻ. Có thể nói rằng đến 5 tuổi trẻ đã tích lũy vốn từ khá phong phú, không  những danh từ, mà cả  động từ, tính từ, liên từ  đủ  để  giao tiếp với những   người xung quanh. Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ  là việc cung cấp   từ mới cho trẻ, mà cần giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết. Vì vậy   giáo viên cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau: Hướng dẫn trẻ quan sát Giáo viên dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để  tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ  của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát, các giác quan  được huy động (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó…) Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch,  thứ  tự  đi từ  sự  phân tích mặt này đến sự  phân tích mặt khác, vừa đưa ra từ  mới, vừa củng cố từ cũ. Ví dụ: Quan sát cái xe ô tô tải: Nhìn tổng thể có các bộ phận: Buồn lái,  thùng xe, các bánh xe. Đi vào quan sát buồng lái trước (ngoài vào trong) –   thùng xe – gầm bao gồm các bánh xe. Chuẩn bị cho quan sát: + Chọn đối tượng phù hợp: Đối tượng cho trẻ  quan sát cần phải đẹp,  hấp dẫn, lối cuốn chú ý. 14
  15. + Chọn những kiến thức cần thiết: Xe tải to, nặng (có cả  xe tải nhỏ  ­   taxi tải); để chở đồ đạc, hành lí, hàng hóa... + Chọn các từ ngữ phù hợp (những từ mới cần cung cấp, những từ khó  cần phải giải nghĩa...). + Chọn những bài hát, trò chơi... để tăng sự hấp dẫn của hoạt động. ­ Tổ chức quan sát: + Bắt đầu chọn một bài thơ, câu đố, một bài hát phù hợp để khởi động. + Bắt đầu quan sát, cô cho các cháu tự do trao đổi những nhận xét đầu   tiên và lắng nghe, chú ý đến vốn từ của các cháu được sử dụng như thế nào. + Cô tiến hành hướng sự quan sát của các cháu vào mục đích đã đặt ra. Ví dụ: Khi cho trẻ đi tham quan công viên hoặc trường tiểu học.Cô dự  kiến mục đích quan sát có thể là khung cảnh: (Cổng, đường đi, cũng có thể là   các loại cây cối, các loài hoa). + Tri giác của trẻ cần được gắn liền với những từ ngữ (cô đã chuẩn bị  trước). Tuy nhiên, cô cũng không hạn chế các từ ngữ do các cháu tự sử dụng. + Cô chú ý các cháu quan sát kĩ và được nói nhiều, các từ ngữ mới nêu  được nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác các sự vật hiện tượng. + Cần lưu ý cung cấp cả những từ thể hiện tính chất của sự  vật như:   Màu hoa đỏ rực rỡ, cánh hoa dày, lá cây nhỏ, con đường kéo dài... ­ Cũng cố kiến thức: bằng các bài thơ, câu đố, bài hát, cần củng cố  các   kiến thức học được ở tiết học sau hoặc ở các hoạt động khác. Cho trẻ xem tranh Trẻ  nhỏ  rất thích xem tranh; những tranh đẹp có nội dung vừa phát  triển vốn từ, vừa giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh,   trẻ tiếp thu thêm những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa. 15
  16. Khi xem tranh, trẻ  thường chú ý một cách tản mạn; trẻ  tập trung vào  những gì mà trẻ thích thú nhất. Nhiệm vụ của cô giáo hướng dẫn sự quan sát  của trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn bộ bức tranh để hiểu tranh vẽ ai, cái  gì, sau đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, cô lại miêu tả  ngắn gọn về  toàn bộ  bức tranh. Để  làm được như  vậy cô giáo cần hiểu rõ nội dung bức tranh  trước khi hướng dẫn trẻ. Các biện pháp dùng lời Trò chuyện với trẻ theo câu hỏi: Đây là biện pháp chính hướng dẫn trẻ  làm quen với thiên nhiên. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới   đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể  cũng như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật,   hiện tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ  nói,  gọi tên hoặc mô tả các đối tượng đang quan sát. Qua đó, vốn từ của trẻ ngày  càng được mở rộng hơn. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời  bằng các từ  loại khác nhau: Hỏi về  tên gọi, đặc điểm tính chất, công dụng,   hoạt động... Ví dụ: Câu hỏi về  tên gọi các loại hoa quả, cây cối, con vật: Cây gì  đây? Đây là con gì? Quả gì? Câu hỏi về công dụng của các đồ vật:...để làm gì? Câu hỏi về  tính chất, đặc điểm của các sự  vật, hiện tượng: Như  thế  nào? Màu gì?... Khi trò  chuyện, cô giáo có thể sử dụng phối hợp một số thủ thuật: nói   mẫu, nhắc lại, giảng giải, khen ngợi, cho trẻ  sử  dụng các thao tác sờ  mó,  cầm nắm... ­ Sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho   trẻ khi quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ  16
  17. giữa các sự vật hiện tượng; điều này làm cho trẻ dần dần hiểu đầy đủ hơn ý  nghĩa của từ.  Lời kể của cô giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ cho các cháu noi theo  (giọng nói, ngữ  điệu, điệu bộ...). Yêu cầu lời kể  của cô phải rõ ràng, đơn  giản, dể hiểu đối với trẻ, chủ yếu là mô tả các đặc điểm, tính chất các hành  động của đối tượng. Lời kể còn cần ngắn gọn, có lôgic đầy đủ các phần: Mở  đầu, mô tả, kết thúc. Mở  đầu của lời kể là giới thiệu  về  đối tượng cho trẻ  làm quen và sau đó mô tả các chi tiết, các đặc điểm, tính chất của đối tượng.  Kết thúc lời kể là những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. Có thể  tiến hành   kể  trước hoặc sau trò chuyện, nó tùy thuộc vào khả  năng nhận thức của trẻ  và mức độ phức tạp của chủ đề cho trẻ làm quen. Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, giáo viên cần chú ý vận   dụng các biện pháp phù hợp để giúp trẻ hiểu nghĩa từ, nhất là những từ ngữ  nghệ thuật. Để  giải thích cho trẻ  hiểu từ  trong tác phẩm văn học bằng biện pháp  này thì trước hết cần phải chọn từ có nghĩa cụ  thể. Có như  vậy thì việc sử  dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả. Ví dụ: Cô định giải thích cả câu từ “phe phẩy” trong câu thơ “phe phẩy   quạt nan”  của bài thơ “Giữa vòng gió thơm” thì cô phải đọc cho trẻ nghe cả  câu một đến hai lần hoặc cả một đoạn thì từ mới không bị tách rời khỏi ngữ  cảnh, và như vậy trẻ sẽ cảm nhận tốt hơn.  Tiếp theo cô dùng biện pháp sử  dụng đồ  dùng trực quan kết hợp với lời giải thích để  giúp trẻ  hiểu được   nghĩa của từ mà tác giả dùng trong câu, trong bài thơ hay câu chuyện ấy. Sử dụng các trò chơi học tập Có thể sử dụng một số trò chơi học tập để phát triển vốn từ: Trò chơi: Cái gì đã thay đổi 17
  18. Trước mặt các cháu, cô bày một số  đồ  chơi. Yêu cầu các cháu nhắm  mắt lại, cô thay đổi vị  trí của đồ  chơi hoặc cất đi và bổ  sung đồ  chơi khác  vào vị trí đó. Yêu cầu trẻ mở mắt, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi. (ví  dụ: Trong vườn bách thú có thỏ, khỉ, hươu cùng chơi với nhau – Có một số  cây cối, đu quay, cầu trượt... Cô thay đổi vị trí của chúng phải, trái, trước, sau,  bên cạnh... Yêu cầu trẻ nhận xét). * Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ mạch   lạc cho trẻ Ngôn ngữ  mạch lạc là hình thức giao tiếp cơ  bản của trẻ. Hình thức   giao tiếp này đã được hình thành  ở  cuối tuổi mẫu giáo. Trong quá trình giao  tiếp, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ giải thích, đặc biệt  là ngôn ngữ  mạch lạc để  diễn đạt, nhấn mạnh ý muốn, sự  hiểu biết của   mình để người khác có thể hiểu được trẻ muốn gì, nói cái gì? Trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động và giao tiếp cô cần tạo điều  kiện để trẻ  nói rõ ràng, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí, nêu bật các ý  cần nhấn mạnh để người khác hiểu một cách dễ dàng. Ví dụ: Cần tập cho trẻ  mô tả  một công viên (mà trẻ  đã có dịp tham  quan hoặc quan sát tranh, mô hình) Đến 5 tuổi trẻ có khả  năng đánh giá khả  năng ngôn ngữ  của bạn, của  mình, do vậy, bên cạnh việc rèn cho trẻ phát âm đúng, nói năng rõ ràng, mạch   lạc, cô cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về nhau.  Ví dụ:  Một trẻ đóng vai gấu được các bạn nhận xét: “ Gấu gì mà nói   năng dịu dàng, yếu đuối thế”, “Bác sĩ, cô giáo gì mà ăn nói cộc lốc như vậy”,  khi trẻ nhận xét các bạn đóng vai bác sĩ, cô giáo…. Sự kiên trì của giáo viên là rất cần thiết. Để tập cho trẻ nói năng mạch  lạc, theo một trình tự loogic, dễ hiểu, cô giáo phải biết lắng nghe, tập cho trẻ  18
  19. sắp xếp lại (nói lại) những điều cần nói theo một mạch lôgic. Thực ra qua  những câu nói lộn xộn của trẻ, cô có thể  giải được ý muốn của trẻ, song  không vì thế mà bỏ qua việc yêu cầu trẻ sắp xếp các câu nói cho hợp lí. Ngôn ngữ mạch lạc còn được thể hiện ở  chỗ: trẻ nói năng có văn hóa   (nói thoải mái, vừa đủ nghe, không hét, không quát, không nói tục…)  Xã hội càng văn minh thì vấn đề  giáo dục hành vi văn hóa trong giao  tiếp càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, nhất là   trẻ 5 tuổi. Cô cần rèn luyện cho trẻ thói quen nói năng có văn hóa, tập cho trẻ  sự tự tin trong giao tiếp, không rụt rè, e sợ, tôn trọng, lễ phép với người lớn Bên cạnh đó cô cần sửa các tật ngôn ngữ mà trẻ thường gặp nhất đó là  tật nói ngọng. Nói ngọng do nhiều nguyên nhân. Có thể nói ngọng do nguyên  nhân sinh học: bộ máy phát âm của trẻ kém phát triển, có thể do tác động của   những yếu tố khách quan, tập quán địa phương. (Trong một môi trường mà từ  già đến trẻ đều nói ngọng thì tất yếu trẻ sẽ nói ngọng) Những tật nói ngọng này có thể  sửa được khi người lớn (bố  mẹ, ông   bà, cô giáo…) phát âm chuẩn và có ý thức uốn nắn cho trẻ. Nếu người lớn   luôn phát âm chuẩn, thì đến một lúc nào đó bộ máy phát âm của trẻ phát triển  thì trẻ sẽ khắc phục được tật nói giọng của mình. Tật thứ hai thường gặp trong sự phát triển ngôn ngữ  của trẻ là tật nói  lắp (nói lắp bẩm sinh và nói lắp do tác động của những điều kiện bên ngoài).  Trong quá trình giao tiếp ta thường gặp một số trẻ do rụt rè, e ngại, do dự mà  nói mãi mới ra lời, hoặc quá vội vàng, lắp bắp khi nói năng… tất cả  những   hiện tượng này sẽ dẫn đến tật nói lắp của trẻ.  Vấn đề  đặt ra là giáo viên cần tập cho trẻ  tự  tin, bình tĩnh trong giao   tiếp, uốn nắn khi trẻ  nói lắp, giúp trẻ  hiểu được nói lắp là xấu. Đồng thời  19
  20. bản thân giáo viên cũng không được nói lắp (giả  tập theo trẻ) khi giao tiếp  với trẻ. * Biện pháp thứ  tư: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ  (lời   nói) nghệ thuật cho trẻ qua thơ và truyện. Văn học là một phương tiện có hiệu quả  mạnh mẽ, đối với việc giáo  dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ và điều quan trọng là nó có ảnh hưởng  to lớn tới sự  phát phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ. Giáo viên là  người đem đến cho trẻ tác phẩm văn học như một tác phẩm nghệ  thuật, mở  ra ý nghĩa của nó, truyền cho trẻ những thái độ, cảm xúc. Đối với các nhân vật của tác phẩm, đối với những xúc cảm trữ tình của  tác giả  có nghĩa là truyền đạt bằng ngữ  điệu, thái độ  của mình đối với các   nhân vật. Để  làm được điều đó, trước khi cho trẻ  làm quen , hiểu và rung  động với tác phẩm.  Giáo viên cần phải biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,  và tất nhiên, giáo viên phải nắm được kỹ thuật đọc và kể, phát âm rõ ràng, sử  dụng các phương tiện biểu cảm ngữ  điệu (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ,   điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng...). Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi có khả năng suy nghĩ sâu hơn về nội dung các   tác phẩm văn học và hiểu một số đặc trưng của hình thúc thể hiện nội dung,  có nghĩa là trẻ  có thể  phân biệt được các thể  loại văn học và đặc trưng của  từng thể  loại. Trẻ dễ dàng phân biệt văn xuôi với thơ, chỉ  ra rằng thơ  có sự  nhịp nhàng, có thể  phân biệt dựa vào tính nhịp điệu và cấu tạo vần, sự  ngân  vang của các câu thơ.  Giáo viên cần phải hướng sự chú ý của trẻ vào các đặc trưng thể loại,   khi đó trẻ sẽ nhận thức sâu sắc hơn những giá trị của các tác phẩm văn học. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0