intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở Trường Tiểu học số I xã Mường Than

Chia sẻ: Cochat Cochat | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

122
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở Trường Tiểu học số I xã Mường Than với mục đích tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh, mang đến sự hứng thú, chủ động, tích cực trong học tập cho các em;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở Trường Tiểu học số I xã Mường Than

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THAN UYÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 XÃ MƯỜNG THAN TỔ KHỐI 5 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO PHONG TRÀO THI ĐUA “XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC THÂN THIỆN, HỌC SINH TÍCH CỰC” Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ I XÃ MƯỜNG THAN Họ và tên người thực hiện: Đỗ Thị Hà Chức vụ: Hiệu trưởng Năm thực hiện: 2012 - 2013
  2. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ trong xã hội, trong nhà trường, trong gia đình. Như chúng ta đã biết, trường học là cái nôi đầu tiên cho mỗi học sinh bắt đầu cuộc sống học tập, rèn luyện. Đến trường, học sinh được học hành, được tiếp thu những kiến thức, tri thức khoa học một cách có hệ thống, được rèn luyện hành vi đạo đức, có kỹ năng cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người mới. Để xây dựng môi trường giáo dục thân thiện trong trường học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, năm học 2008-2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị Số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. Kế hoạch 307/KH-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông năm học 2008-2009 và giai đoạn 2008-2013. Công văn số 71/KH- SGD&ĐT Lai Châu - Kế hoạch triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông năm học 2008-2009. Đến nay, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được triển khai thực hiện rộng khắp trong các trường phổ thông trên mọi miền của đất nước ta. Việc tổ chức phong trào sao cho hiệu quả, phù hợp với đặc thù của mỗi nhà trường là sự sáng tạo riêng của “Người quản lý” trong các đơn vị trường học. Trong gần 5 năm triển khai và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, sau mỗi năm học với vai trò là người quản lý lãnh đạo điều hành nhà trường bản thân đã nghiêm túc đánh giá, rút kinh nghiệm về những ưu điểm, hạn chế của các giải pháp, từ đó tìm ra nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế để có các biện pháp chỉ đạo phù hợp sát với thực tế nhằm khắc phục cho các năm học tiếp theo. Trong quá trình triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhà trường đã có những bước chuyển biến tích cực: Chất lượng giáo dục được đánh giá cao, môi trường giáo dục lành mạnh an toàn. Năm học 2012-2013 nhà trường phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia mức độ I và là đơn vị tiêu biểu về phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” giai đoạn 2008-2013. Để đạt được mực tiêu đó năm học này tôi quan tâm chỉ đạo các hoạt động như: Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học; hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường; xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp; sự sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động ngoại khóa mang tính chất giáo dục cao. Trên cơ sở một số kinh nghiệm đã được đúc rút trong quá trình triển khai thực phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” những năm qua, căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường, thực hiện nhiệm vụ 1
  3. năm học, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu chuyên đề: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở Trường Tiểu học số 1 xã Mường Than. II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu. 1. Phạm vi nghiên cứu: Trường Tiểu học số 1 xã Mường Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Thời gian nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề 3 năm học, năm học 2010-2011, năm học 2011-2012 và năm học 2012-2013. Đối tượng khảo sát thực nghiệm: 40 cán bộ giáo viên, nhân viên; 438 học sinh. 2. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở trường Tiểu học số 1 xã Mường Than. III. Mục đích nghiên cứu. “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong trường học để tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh, mang đến sự hứng thú, chủ động, tích cực trong học tập cho các em. Phát triển những kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, giúp học sinh mạnh dạn chủ động tiếp thu kiến thức, tự tin trong mọi hoạt động học tập cũng như vui chơi, xây dựng trường lớp sạch đẹp, an toàn. Trong đó đặc biệt là phát huy khả năng tự tìm hiểu, khám phá, tư duy sáng tạo cần có cho các em học sinh, để các em cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu. Biện pháp “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là sự tích lũy những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phong trào. Đối với nhà trường: Cảnh quan nhà trường xanh, sạch và đẹp, chất lượng và hiệu quả đáp ứng đủ các tiêu chí của trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Đối với giáo viên: Sáng tạo hơn trong việc tổ chức hoạt động dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức kỹ năng, phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh, học sinh dễ tiếp thu kiến thức. Đối với học sinh: Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập, tu dưỡng và trong các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội. Môi trường giáo dục thân thiện, an toàn, học sinh có tinh thần thoải mái, vui vẻ trong học tập. Học sinh được rèn luyện kỹ năng học tập, kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục, các trò chơi lành mạnh và bổ ích, các em tự tin hơn trong giao tiếp, biết trân trọng giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 2
  4. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận. Trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế hội nhập, đang tiến đến nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI, chính vì vậy đòi hỏi cần có những con người có kỹ năng tư duy cao, tự tin phát triển năng lực của mình. Phương pháp quản lý, phương pháp giáo dục cũ không thể xây dựng và phát triển cho học sinh những kỹ năng đó. Chính vì thế mỗi người quản lý, mỗi giáo viên cần đổi mới phương pháp làm việc, quản lý và dạy học theo phương pháp mới, từng bước sử dụng hiệu quả công nghệ dạy học tiên tiến, để yêu cầu trên đạt hiệu quả cần phải có những biện pháp tích cực trong việc xây dựng mô hình: “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động nhằm xây dựng trường học có chất lượng giáo dục toàn diện, hiệu quả. Các thầy giáo, cô giáo thân thiện trong giảng dạy, thân thiện trong đánh giá xếp loại kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, thể hiện sự công bằng, khách quan trong giảng dạy và giáo dục học sinh, thể hiện lương tâm, trách nhiệm của người làm công tác giáo dục đối với thế hệ học sinh, sinh viên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong môi trường giáo dục toàn diện đó, học sinh hứng thú học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, thực hiện tốt học đi đôi với hành, biết rèn luyện kỹ năng và phương pháp học tập, đặc biệt là phát huy khả năng tự tìm hiểu, khả năng khám phá, tư duy sáng tạo. Trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục, đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, các biện pháp đưa ra để thực hiện xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực là cơ sở để hình thành mô hình trường thân thiện, lớp thân thiện. - Xây dựng môi trường trường học thân thiện: bảo đảm các lớp học an toàn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp hơn. Học sinh tích cực tham gia tạo cảnh quan lớp học, giữ gìn vệ sinh lớp học và vệ sinh cá nhân. - Giảng dạy tích cực: Các thầy giáo, cô giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tính tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên của học sinh, rèn luyện khả năng tự học của các em. Hiệu quả dạy và học đạt chất lượng ngày càng cao. - Rèn luyện kỹ năng học, sinh hoạt theo nhóm và kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống bằng các trò chơi học tập tích cực. - Hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh qua các tiết sinh hoạt tập thể, đoàn kết, thân thiện. - Giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc ở địa phương qua các câu chuyện kể, qua việc tham gia giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng ở địa phương, qua các trò chơi dân gian, qua điệu múa, câu hát. 3
  5. Để đạt được kết quả tốt trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, cần phải thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực, cụ thể hóa nội dung các công việc phù hợp với tình hình thực tế của trường, của địa phương, để xây dựng và hoàn thành được các mục tiêu mà nhiệm vụ năm học đã đề ra. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực chính là sự cụ thể hóa của yêu cầu “Dạy tốt, học tốt” mà chúng ta đã tiến hành thực hiện trước đây, nhưng hiện nay dạy tốt không chỉ là hoạt động của cá nhân giáo viên, mà là hoạt động của tập thể các thầy giáo, cô giáo, là sự tham gia của gia đình, xã hội vào quá trình sư phạm, tạo môi trường thân thiện cho học sinh. Dạy tốt không chỉ có các thầy giáo, cô giáo là người dạy, truyền đạt những kiến thức văn hóa, những hành vi đạo đức tốt, cách ứng xử, tình đoàn kết thân ái cho học sinh, mà chính các em được trưởng thành thông qua các hoạt động tích cực trong học tập, trong hoạt động tập thể, vui chơi, múa hát, hoạt động xã hội. Các em không chỉ là đối tượng cần được giáo dục, mà các em chính là những người nuôi dưỡng và duy trì bản sắc văn hóa dân tộc. Các em được tham gia vào các hoạt động trồng và chăm sóc cây, hoa, tạo cảnh quan cho trường, lớp học, được rèn kỹ năng sống qua các hoạt động vui chơi, học tập và lao động, qua việc chăm sóc, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng, ý thức giữ gìn và bảo vệ các di tích lịch sử của địa phương, của đất nước. Những biện pháp giáo dục, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trước đây còn có những mặt hạn chế như chưa phát huy được tính tích cực và chưa tạo được sự hứng thú trong học tập cho học sinh. Qua các năm 2008-2009, 2009-2010, 2010-2011, 2011-2012, 2012-2013 triển khai và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, với những kinh nghiệm được tích lũy qua phong trào “Dạy tốt - Học tốt”, hưởng ứng phong trào thi đua này, tôi cố gắng làm tốt công tác chỉ đạo, thực hiện đổi mới trong công tác quản lý, chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng các biện pháp tích cực nhằm tạo ra môi trường thân thiện trong giáo dục ở trường, phát huy cao nhất khả năng tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập cũng như kỹ năng sống cho học sinh. Từ lý do trên tôi mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. II. Thực trạng của vấn đề. Trường Tiểu học số 1 xã Mường Than được tách ra từ trường Tiểu học xã Mường Than tháng 8 năm 2010, năm học 2010-2011 trường có 18 lớp/400 học sinh; năm học 2011-2012 trường có 20 lớp/435 học sinh; năm học 2012-2013 trường có 20 lớp/438 học sinh. Chất lượng giảng dạy và các hoạt động giáo dục của trường được Phòng Giáo dục và Đào tạo đánh giá tốt. Mấy năm gần đây trường luôn đạt Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc được Ủy Ban nhân dân huyện, Ủy Ban nhân dân tỉnh khen. Trường có nhiều chuyển biến về tất cả các hoạt động, chuyển biến về chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng đội ngũ. Tháng 1 năm 2013 trường vinh dự được đón Bằng công nhận Trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Có được kết quả đó là nhờ có sự đổi mới trong công tác quản lý của người Hiệu trưởng, việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên. Trường thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua do ngành phát động, xây dựng được 4
  6. môi trường giáo dục thân thiện, thu hút đông đảo các lực lượng trong trường và ngoài xã hội cùng tham gia vào công tác giáo dục, thúc đẩy phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Trường phấn đấu xây dựng thành công các tiêu chuẩn trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Cảnh quan nhà trường gọn gàng, sạch sẽ; Chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến từ khi thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở trường Tiểu học số 1 xã Mường Than có nhiều thuận lợi để giúp tôi thực hiện tốt, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. 1. Thuận lợi: Trường Tiểu học số 1 xã Mường Than là một trường thuộc xã vùng hai, cách trung tâm huyện 4 km, giao thông đi lại thuận tiện, học sinh học tập chung tại một điểm trường. Đội ngũ giáo viên đảm bảo tỷ lệ 1,5 giáo viên/lớp, giáo viên nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương và nhân dân. 2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi đó, nhà trường vẫn còn có đối mặt với những khó khăn nhất định như: - Chất lượng đội ngũ: Trình độ chuyên môn chưa đồng đều, việc đổi mới phương pháp dạy học của số ít cán bộ giáo viên thực hiện chưa được hiệu quả, giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện còn thấp; - Học sinh: Gần 80% học sinh là người dân tộc, nên việc nhận thức của các em cũng có những hạn chế nhất định. Đa số học sinh Tiểu học chưa xác định được rõ ràng mục đích của việc học tập là gì, nhất là học sinh ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tỷ lệ học sinh giỏi, học sinh khá chưa cao, số lượng học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện chưa nhiều; - Cơ sở vật chất: Chưa đảm bảo về phòng học, chủ yếu là phòng học tạm, bàn ghế học sinh chưa đúng quy cách; mặt bằng sân chơi bãi tập chưa đảm bảo an toàn cho học sinh tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; trường lớp chưa đảm bảo tiêu chí xanh, sạch, đẹp, . * Nguyên nhân: Công tác quản lý chỉ đạo của ban giám hiệu chưa được khoa học, nhiều giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh họat, hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, chưa sáng tạo, chưa phong phú. Công tác tham mưu, phối kết hợp giữa các đoàn thể trong và ngoài nhà trường chưa được thường xuyên, chưa kịp thời. Thiếu cơ sở vật chất nên trường lớp chưa khang trang, chưa sạch, chưa đẹp, chưa gọn gàng; chưa tranh thủ được sự quan tâm của các bậc phụ huynh và các tổ chức xã hội trong việc hỗ trợ vật chất cho nhà trường. Giáo viên chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động tập thể và hoạt động ngoài giờ lên lớp do đó chưa thu hút được học sinh. Việc tổ chức các 5
  7. trò chơi dân gian, thi hát dân ca, các bài hát, các điệu múa dân tộc cho học sinh chưa thường xuyên, còn mang tính hình thức chưa phát huy được khả năng tự tìm tòi, khám phá của học sinh. Các em ít được giao lưu, khi tham gia các hoạt động học tập, vui chơi còn rụt rè, thiếu tự tin, ngại giao tiếp vì vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Những năm học trước chất lượng giáo dục, chất lượng đội ngũ của trường còn nhiều hạn chế, các phong trào thi đua đạt chất lượng không cao. Cụ thể như tỷ lệ giáo viên dạy giỏi các cấp thấp, mỗi năm số lượng giáo viên tham gia hội giảng cấp huyện ít, số giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện chỉ đạt 06 đồng chí. Chất lượng học tập của học sinh chưa đảm bảo, chất lượng mũi nhọn chưa cao. Chất lượng đội ngũ và chất lượng giáo dục hai năm học, từ khi bắt đầu phát động và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” như sau: 3. Kết quả điểu tra thực tế: * Cán bộ giáo viên, nhân viên: Năm học TSCBG Xếp loại CM Giáo viên dạy giỏi VNV Tốt Khá TB Trường Huyện Tỉnh 14/40 18/40 8/40 14/38 6/38 2008-2009 40 0 (35%) (45%) (20%) (36,8%) 15,8% 28/44 10/44 6/44 18/40 6/40 2009-2010 44 0 (63,6%) (22,7%) (13,7%) (45%) (5%) * Học sinh: Hạnh kiểm Học lực Học sinh giỏi các cấp Năm TS THĐĐ THCĐĐ học HS (Đ) (CĐ) Giỏi Khá TB Yếu Trường Huyện Tỉnh 2008- 633 623/623 74/623 105/623 437/623 7/623 42/179 4/42 0 0 2009 (10KT) (100%) (11,9%) (16,9%) (70,1%) (1,1%) (23,7%) (9,5%) 2009- 680 669/669 140/669 241/669 284/669 4/669 79/381 10/79 3/6 0 2010 (11KT) (100%) (20,9%) (36,0% (42,5%) (0,6%) (20,7%) (12,7%) (50%) Nhìn vào bảng số liệu thấy được chất lượng đội ngũ, chất lượng học sinh đã có sự chuyển biến năm sau cao hơn năm trước, có được kết quả đó là nhờ vào sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh toàn trường trong công tác giảng dạy, học tập và rèn luyện. Từ khi thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” chất lượng đó đã dần có sự chuyển biến. Những năm học gần đây, nhất là từ khi phát động và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tich cực”. Chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng có nhiều chuyển biến. Trường luôn phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá; thân thiện trong đánh giá kết quả rèn luyện, học tập của học sinh, đánh giá công bằng, khách quan, không chạy 6
  8. theo thành tích, dạy học sát đối tượng, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đoàn kết, thân thiện. Áp lực công việc rất lớn, kỳ vọng của phụ huynh học sinh khi gửi con em họ vào trường rất nhiều. Giữ vững uy tín của trường, góp phần vào phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Với trách nhiệm của một giáo viên, một người quản lý, tôi nghĩ mỗi chúng ta cần phải chủ động, sáng tạo, tìm các biện pháp tích cực để giảng dạy, giúp đỡ học sinh trong học tập và rèn luyện để các em có được sự tự tin về bản thân mình. Từ đó các em chủ động, hứng thú trong học tập, các em tự khẳng định mình, từng bước hoàn thiện để phát triển những kỹ năng cần thiết mà cuộc sống, xã hội yêu cầu. Trước thực trạng trên tôi đưa ra một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tại trường Tiểu học số 1 xã Mường Than. III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. 1. Huy động các nguồn lực cho việc xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn. Nội dung thứ nhất trong 5 nội dung của Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, đã nêu “Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn, là: bảo đảm trường an toàn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp hơn, lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế hợp với lứa tuổi học sinh. Tổ chức để học sinh trồng cây vào dịp đầu xuân và chăm sóc cây thường xuyên. Trường có đủ nhà vệ sinh được đặt ở vị trí phù hợp với cảnh quan trường học, được giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. Học sinh tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân. Muốn thực hiện được nội dung này, việc quy hoạch để trồng cây ở trường cần hợp lý về vị trí, chọn loại cây để vừa tạo bóng mát, vẻ đẹp cho trường vừa dễ chăm sóc, cần phân công học sinh chăm sóc để tạo sự thi đua giữa các lớp. Tham mưu để thiết kế xây dựng phòng học đủ ánh sáng cho học sinh và giáo viên. Bố trí bàn ghế và sắp xếp học sinh vào các phòng học phù hợp lứa tuổi học sinh của từng lớp. Ngoài ra trường còn phải làm tốt công tác tuyên truyền để cán bộ giáo viên, nhân viên, học sinh và phụ huynh hiểu thế nào là xanh, sạch, đẹp, an toàn, mọi người hiểu được thì sẽ làm được. Đảm bảo trường, lớp học an toàn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông và ngày càng đẹp hơn, lớp học có đủ ánh sáng, bàn ghế đúng kích cỡ, phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Phát động phong trào thi đua ngay từ đầu năm học, mỗi cá nhân học sinh, cán bộ giáo viên, nhân viên, mỗi tập thể lớp, tổ khối thi đua trang trí lớp học, trồng hoa, trồng cây. Tuyên truyền để mọi người hiểu được ý nghĩa của phong trào, cùng chung tay xây dựng trường lớp. Công việc này do chính giáo viên và học sinh cùng đảm nhiệm, không chỉ có trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, mà tất cả các lớp học cũng cần phải làm được điều đó. Huy động cán bộ giáo viên, nhân viên tìm chọn và trồng các cây xanh lấy bóng mát, trồng các loại cây hoa tô thêm cảnh đẹp cho trường. Tranh thủ những giờ nghỉ, thời gian rảnh, giáo viên và học sinh cùng nhau chăm sóc. Qua các việc làm tưởng chừng như rất giản đơn đó nhưng đã giáo dục học sinh tính tự giác, thói 7
  9. quen hoạt động tập thể, yêu lao động, gần gũi với môi trường thiên nhiên. Từ đó các em biết trân trọng những thành quả lao động mà các em đã làm nên, các em yêu trường, yêu lớp hơn. Mỗi lớp học có những chậu hoa nhỏ, có một chậu cây cảnh, tràn ngập sắc màu thiên nhiên. Có không gian thân thiện ấy để mỗi ngày đến lớp các em cảm thấy mình đang đươc sống và học tập trong môi trường thiên nhiên xanh tươi, rực rỡ sắc màu. Học sinh đến trường có tâm trạng thoải mái, tinh thần phấn khởi, các em tiếp thu kiến thức tốt hơn, thích đến trường để được học, được tự mình trang trí làm đẹp cho lớp học của mình. Quang cảnh trường, lớp nhà trường luôn sạch sẽ, gọn gàng, trường có cây xanh cho bóng mát, có bồn hoa cây cảnh, khu vui chơi, sân thể dục và hoạt động ngoài giờ luôn sạch sẽ, an toàn giúp cho học sinh thoải mái tham gia các hoạt động học tập và vui chơi. Mỗi lớp học đều có các bình hoa để trang trí trên bàn thầy cô giáo, trên các ô cửa sổ, trước cửa lớp có các cây cảnh luôn xanh tươi nhờ có sự chăm sóc hàng ngày của học sinh. Mỗi lớp có từ một đến hai cây cảnh, toàn trường có trên 40 cây bóng mát và cây ăn quả, có 10 bồn hoa trồng các loại hoa khác nhau, phân công cho các khối lớp để hàng ngày các em chăm sóc. Các lớp học thường xuyên được quét dọn, lau rửa nên lúc nào cũng sạch sẽ. Trong lớp các bảng, biểu, khẩu hiệu được trình bày khoa học, mang tính thẩm mỹ phù hợp với lứa tuổi các em. Mỗi buổi sáng đến lớp, sau các giờ học buổi chiều, học sinh và các thầy cô giáo cùng nhau chăm sóc cây, hoa, vệ sinh trường lớp, được tham gia vào các hoạt động này học sinh rất phấn khởi, các em làm việc hăng say, tự giác và thi đua nhau làm rất tích cực, các em biết giữ gìn và bảo quản các thành quả mà mình làm nên. Qua đó giáo dục học sinh tính tự giác, sáng tạo, ý thức trách nhiệm trong học tập cũng như trong lao động. Trong các lớp đều có bảng chống lóa, có đủ bàn ghế chắc chắn, phù hợp lứa tuổi của học sinh Tiểu học. Cụ thể, trường có 20 lớp/20 lớp được trang trí đẹp, các chậu hoa cây cảnh được sắp xếp khoa học, hợp lý với từng vị trí của từng lớp. Huy động sự tham gia đóng góp của các bậc phụ huynh làm đường nước sạch để có nước sạch cho học sinh sử dụng. Việc khám và chăm sóc sức khỏe cho học sinh cũng rất được quan tâm, cụ thể: Hàng năm các em được phòng Y tế huyện, trạm Y tế xã phối kết hợp khám sức khỏe định kỳ 2 lần cho toàn thể học sinh của trường, nhân viên Y tế của trường thường xuyên kiểm tra công tác vệ sinh của học sinh, tổ chức cho học sinh súc miệng hàng tuần để ngừa bệnh sâu răng. Hoạt động chính trong lớp học là dạy và học. Hai hoạt động này diễn ra chủ yếu trong lớp học, chính vì vậy việc trang trí lớp học cho phù hợp với lứa tuổi của các em cũng rất cần thiết. Muốn có một lớp học thân thiện, thoáng mát và đẹp thì việc trang trí cho lớp học của các em là một công việc mang lại cho các em không ít thích thú. Khuyến khích học sinh tự tạo ra môi trường học tập trong lớp theo sở thích, các em được trang trí lớp học bằng tranh ảnh các em tự sưu tầm, một vài vật dụng trang trí khác như bảng ghi những điều em muốn nói, xây dựng góc thư viện, bảng hoa điểm mười, bảng trưng bày những bài văn hay, những bài toán đạt điểm tốt, những bài vẽ đẹp, những sản phẩm mỹ thuật, thủ công đẹp, bảng dự báo thời tiết, bảng sinh nhật lớp mình... để lớp học thật sự gần gũi, thân thiện với các em. Trong quá trình các em thực hiện việc trang trí lớp học, giáo viên vừa hướng dẫn, giúp đỡ, vừa làm cùng các em, động viên các em để các em phấn khởi, hào hứng với 8
  10. công việc được giao. Ví dụ: Trang trí mảng tường cuối lớp học, giáo viên gợi ý cách làm, phân công nhiệm vụ cho từng tổ học sinh, yêu cầu phụ huynh hỗ trợ thêm như tìm kiếm giúp học sinh những đồ vật mà các em yêu thích để các em mang đến trang trí lớp. Đối với các em, chủ động tìm kiếm các đồ vật theo chủ đề, phối hợp với nhau để trang trí theo sở thích, phù hợp, khoa học, có sự chỉ đạo, hướng dẫn của giáo viên. Hoạt động này không chỉ có học sinh, giáo viên tham gia mà có cả sự tham gia của các bậc phụ huynh, ngoài việc làm đẹp cho lớp học, học sinh còn thấy được sự chung tay của thầy giáo, cô giáo, của cha mẹ, đó là sự quan tâm của mọi người đối với các em, giáo dục các em lòng biết ơn, kính trọng, ý thức bảo vệ giữ gìn, nâng niu thành quả lao động của mình. Hoặc bảng trưng bày sản phẩm: Các bài văn hay, các bài chữ đẹp, các sản phẩm thủ công, mỹ thuật của các em được treo ngay ngắn trên tường để các bạn trong lớp cùng xem, học tập lẫn nhau, kích thích học sinh phấn đấu, vươn lên trong học tập, mong muốn làm được những điều mà bạn mình đã làm được, từ đó nhân rộng những điển hình tiên tiến trong học tập. Tổ chức các hoạt động trồng cây đầu năm, chăm sóc cây và hoa, việc làm trực nhật lớp hàng ngày, các em được tham gia cùng thầy cô giáo làm đất trồng cây, trồng hoa, được sách nước, tự tay múc những gàu nước tưới cho cây, quét lớp, lau cửa lớp học, lau bàn ghế, lau bảng mỗi buổi học. Thông qua những việc làm đó, giúp các em làm quen với công việc lao động, giáo dục các em ý thức giữ gìn vệ sinh chung, biết thực hiên vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp, tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường, biết bảo vệ và giữ gìn môi trường thân thiện ở trường, ở lớp. Một trường học thân thiện thì kiến trúc của toàn bộ trường học cũng cần được thiết kế phù hợp với lứa tuổi và tâm sinh lý học sinh. Cảnh quan và môi trường trong trường cũng cần được quan tâm khi thiết kế để tạo một môi trường thân thiện và an toàn cho học sinh khi ra chơi và tham gia các hoạt động ngoài trời. Không chỉ chú trọng phát triển mảng xanh trong khuôn viên trường, xây dựng môi trường học tập hiệu quả còn được đặt ra ở từng lớp học. Nhiệm vụ này do chính giáo viên, học sinh đảm nhận. Tìm cây xanh, hoa lá trang trí trong lớp đối với giáo viên và học sinh không khó, cây cỏ quanh nhà, ngay trong sân, vườn trường. Quan trọng là tạo lập, rèn luyện cho học sinh thói quen quan tâm đến tập thể, môi trường thiên nhiên, quang cảnh trường lớp. Để các em có thể cảm nhận được có thêm chậu cây, có thêm bình hoa lớp học như thêm bạn. Đến trường học sinh phải ngồi trong lớp học cả ngày thì tránh sao khỏi nhàm chán. Để bớt đi sự nhàm chán, có thể khuyến khích học sinh tự tạo ra môi trường học tập trong lớp theo sở thích của các em. Hãy để các em trang trí lớp học bằng tranh ảnh hay các vật trang trí khác, để lớp học thật gần gũi và ấm cúng như là góc học tập ở nhà của các em, tạo thêm hứng thú trong học tập cho các em. Hãy để các em tự nêu ra khẩu hiệu học tập và rèn luyện cho chính các em. Trong lớp, môi trường học tập thân thiện đã được đặc biệt quan tâm, ngoài bàn ghế và diện tích lớp học đạt chuẩn quy định, các biện pháp tích cực khác để tạo được cảnh quan lớp học thân thiện, gần gũi đó là thầy giáo, cô giáo, học sinh và phụ huynh cùng 9
  11. kết hợp thực hiện, như làm rèm cửa tránh nắng, trang trí, sắp xếp các bình hoa, cây cảnh trên bàn, trên các khung cửa sổ, ở góc lớp để khung cảnh lớp học sinh động, đẹp mắt và mát mẻ, đôi khi cũng dùng để làm đồ dùng trực quan phục vụ cho bài giảng của thầy. Thực hiện được nội dung này đã thực sự đem lại một môi trường thân thiện ở lớp học, ở trường, đã phát huy được tính tích cực trong học tập cho học sinh. Ví dụ: 1. Trang trí các bảng biểu, khẩu hiệu, nội quy lớp học trong lớp. Giáo viên gợi ý, phân công cho các nhóm học sinh, các tổ phụ huynh hỗ trợ tìm kiếm đồ vật yêu thích giúp các em. Học sinh suy nghĩ, chủ động lựa chọn các chất liệu, màu sắc, kiểu dáng, phối hợp trong nhóm cùng trang trí, thi đua giữa các nhóm. 2. Bảng theo dõi hoa điểm mười của học sinh, bảng dự báo thời tiết hàng ngày, bảng sinh nhật lớp mình. Không gian lớp học thân thiện như ở nhà. Khuyến khích học sinh thi đua học tập và rèn luyện. Cuối mỗi tháng có sơ kết đánh giá, động viên kịp thời để khuyến khích học sinh phát huy những ưu điểm và khắc phục những tồn tại. Giáo viên thực hiện biểu dương khen thưởng học sinh kịp thời, sơ kết theo tuần, tháng, và khuyến khích học sinh thi đua giữa cá nhân với cá nhân, giữa các tổ với nhau. Phụ huynh thường xuyên theo dõi được sự tiến bộ của con em mình. 3. Góc thư viện lớp em. Học sinh tự đóng góp sách, báo, truyện, thực hiện ý thức tự quản lý. Phát huy khả năng đọc sách, tự tìm hiểu kiến thức qua sách báo. Giáo viên hướng dẫn và phát huy khả năng tự tham gia quản lý sách, giúp học sinh thể hiện những điều hay qua sách. Phu huynh yên tâm về nội dung và khuyến khích con em tự tìm hiểu kiến thức qua sách, báo và truyện. Ngoài ra, nhà trường cũng như giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm chú ý dành những góc riêng ở tất cả các lớp để trưng bày các sản phẩm, tác phẩm các em tự sáng tác trong các lĩnh vực thủ công, mỹ thuật, tập viết,...để thực sự kích thích các em thi đua sáng tạo, thi đua học tập tốt, khuyến khích để tất cả các em học sinh phấn đấu làm sao có được sản phẩm đẹp, tác phẩm hay và tự các em được dán, được trưng bày để các bạn trong lớp, trong trường cùng xem và học tập. Từ đó đã tạo được một môi trường lớp học thân thiện, thân quen, gần gũi với các em, các em được khám phá, được thể hiện năng khiếu, sở thích của mình và được tự khẳng định mình với các bạn trong lớp. Nhờ đọc sách đã giúp các em hiểu biết thêm về vốn từ, giúp các em hiểu Tiếng Việt, nói và viết đúng Tiếng Việt, hiểu và sử dụng thành thạo Tiếng Việt các em sẽ tự tin trong học tập, mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, vốn kiến thức của các em được mở rộng thêm. Từ đọc sách các em đã chủ động chọn lựa những 10
  12. câu chuyện hay, các em ham đọc sách hơn, thích tìm tòi khám phá những câu chuyện vui, hài hước, ngộ nghĩnh phù hợp lứa tuổi của mình. Thông qua các câu chuyện các em hiểu thêm về thiên nhiên, những cảnh đẹp của quê hương đất nước, giáo dục các em tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước. Các em hiểu được các em cần làm gì để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thông qua các câu chuyện lịch sử, các câu chuyện đạo đức. Các bài dự thi kể chuyện đạt giải của lớp trong các đợt thi đều nằm trong các nội dung các câu chuyện mà các em đã yêu thích chọn lựa từ tủ sách. Đối với các môn Đạo đức, tự nhiên và xã hội, các em tích cực chủ động phát biểu ý kiến xây dựng bài, biết ứng xử phù hợp với các tình huống trong giao tiếp, đối với môn Tiếng Việt những mảng kiến thức được các em tiếp thu một cách chủ động hơn, tích cực hơn, và các em mạnh dạn, tự tin hơn trong các giờ hoạt động tập thể. 2. Chỉ đạo việc tổ chức dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của mỗi học sinh, giúp các em tự tin trong học tập. Đổi mới phương pháp dạy học, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động sáng tạo cho học sinh trong học tập và rèn luyện. Đó là “Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh, giúp các em tự tin trong học tập. Thầy, cô giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh. Học sinh được khuyến khích đề xuất sáng kiến và cùng các thầy, cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu quả ngày càng cao”. Phương pháp dạy học theo hướng “Lấy học sinh làm trung tâm” thực sự là phương pháp dạy học tích cực, thân thiện với học sinh. Thực hiện phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người tổ chức và trợ giúp hoạt động tiếp thu kiến thức của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức bài học thông qua những câu hỏi, những giải đáp, những câu trả lời của thầy, của bạn, học sinh là nhân vật trung tâm trên lớp học. Giáo viên là người nêu vấn đề và cùng học sinh tranh luận cho tới khi học sinh hiểu vấn đề, học sinh có thể được giáo viên giao cho các bài tập làm chung theo nhóm, để các em có cơ hội cùng nhau chia sẻ và phát biểu ý kiến của mình cho bài giải của nhóm. Giáo viên cũng có thể nêu trước vấn đề và cho học sinh về nhà tự nghiên cứu, tìm tòi để đến buổi học trên lớp ngày hôm sau học sinh thảo luận và tranh luận với nhau trong cặp và trong nhóm. Việc tranh luận đó sẽ giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ nhanh hơn kiến thức của bài, vì các em được tiếp thu kiến thức một cách chủ động, thoải mái. Vận dụng phương pháp này tạo cho học sinh ý thức tự giác trong học tập, học sinh tự nghiên cứu, rèn cho mình thói quen tìm tòi, suy nghĩ, tự giải quyết vấn đề, giúp học sinh hình thành thói quen chủ động, độc lập, sáng tạo, biết chia sẻ những suy nghĩ của mình với người khác. Thầy, cô giáo cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ khuyến khích học sinh đi học chuyên cần, thích học, từ đó các em sẽ tích cực, chủ động, sáng tạo và luôn có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập cũng như trong rèn luyện. Để giúp giáo viên vận dụng tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp đối tượng học sinh, trong công tác xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học, kế hoạch chỉ đạo chuyên môn, người quản lý cần nghiên cứu đưa ra nội dung, biện pháp cho giáo viên học tập, trao đổi chuyên môn qua các buổi sinh hoạt 11
  13. chuyên môn, qua công tác kiểm tra, qua hội giảng. Thông qua các hoạt động này giáo viên được trao đổi học tập ở đồng nghiệp rất nhiều. Trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh ngoài mối quan hệ thầy-trò thì mối quan hệ giữa các học trò với nhau cũng rất cần thiết và quan trọng. Phương pháp dạy học theo hướng “Lấy người học làm trung tâm” nhấn mạnh vào việc tự học, tự nghiên cứu của cá nhân các em học sinh với các hoạt động học tập theo nhóm trong và ngoài giờ học. Trong các hoạt động này, mối quan hệ giữa các học trò không chỉ là sự kết bạn cùng sở thích riêng, mà còn là mối quan hệ chia sẻ kiến thức trong nhóm khi thảo luận trên lớp và các hoạt động theo nhóm ngoài lớp học, khi cùng làm một bài tập sưu tầm hay nghiên cứu nhỏ ngoài lớp học. Mối quan hệ giữa trò với trò sẽ thân thiện hơn, gắn bó hơn do các em tham gia các hoạt động, không chỉ vui chơi giải trí mà còn học tập với nhau, chia sẻ công việc và tri thức cùng với nhau. Ví dụ: Trong bài giảng giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để tìm hiểu bài, hoặc cùng nhau tìm cách giải một bài tập Toán hay một bài tập Tiếng Việt. Chẳng hạn dạy bài: Không khí cần cho sự cháy (Khoa học lớp 5), giáo viên cùng học sinh làm thí nghiệm, học sinh quan sát thí nghiệm, sau đó thảo luận trong nhóm, trao đổi với nhau, thống nhất ghi vào phiếu học tập, trình bày ý kiến của nhóm trước lớp. Ngoài các mối quan hệ nêu trên giáo viên cần chú ý chỉ đạo xây dựng các mối quan hệ khác như: Quan hệ tốt giữa học sinh trong lớp với các học sinh trong khối, giữa học sinh các khối với nhau, giữa cha mẹ và học sinh, giữa phụ huynh và giáo viên. Ví dụ: Tổ chức cho học sinh giao lưu Tiếng Việt, thi văn nghệ, thể thao. Thành lập các đội có đủ học sinh từ khối lớp 1 đến khối lớp 5. Để thu hút được các em đến trường, giáo viên cần phải đổi mới cách thức giảng dạy, có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với lứa tuổi của học sinh, cần xây dựng được môi trường thân thiện ngay trong lớp học, làm sao để tạo cho học sinh sự phấn khởi, tự tin, thoải mái khi đến lớp. Ngay từ đầu năm học cần phân loại đối tượng học sinh, xây dựng kế hoạch giảng dạy đảm bảo phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp, trong trường. Trong các giờ học chú ý đến các đối tượng học sinh, quan tâm đến các em, hỗ trợ và giúp đỡ các em kịp thời để các em nắm bắt được kiến thức ngay trên lớp, dạy cho các em những nội dung kiến thức nào mà các em còn thiếu, còn yếu. Giáo viên cần đổi mới tư duy, tự hoàn thiện các kĩ năng chuyên môn như: Kỹ năng phát triển tư duy, kỹ năng lập kế hoạch giảng dạy, kỹ năng hành động, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin. Làm được những điều này giúp cho người giáo viên tự tin hơn trong mọi công việc, dễ dàng xử lý được các tình huống xẩy ra trong tiết học, trong công tác giáo dục học sinh, tạo cho giáo viên tâm thế thoải mái, thân thiện, gần gũi với học sinh, từ đó sẽ đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy và trong mọi công việc. Kĩ năng tư duy tốt giúp người giáo viên hoàn thiện, tự tin hơn trong mọi công việc, xử lý mọi công việc hoàn hảo hơn. Thực hiện mọi nhiệm vụ của trường, của lớp khoa học hơn, áp dụng vào thực tế giảng dạy với mong muốn luôn kích thích sự phát triển tư duy của học sinh. Vận dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, xử lý các tình huống sư phạm trong giờ dạy sẽ 12
  14. hoàn hảo hơn. Để thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, việc xây dựng và lập kế hoạch hoạt động của trường, tôi luôn chủ động về việc thực hiện mục tiêu, liệt kê rõ từng bước mình đã thực hiện thế nào, dự đoán những thử thách có thể xảy ra, xác định rõ các mục tiêu phấn đấu, nội dung hoạt động chuyên môn, các hoạt động đoàn thể cần cụ thể việc gì, làm thế nào, ai chỉ đạo, ai thực hiện, thời gian hoàn thành. Phối hợp với các đoàn thể cùng xây dựng, tìm các biện pháp thực hiện phù hợp với tình hình thực tế của trường, vận dụng linh hoạt những biện pháp để nhằm thực hiện và đạt được các mục tiêu đã đề ra. Với việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong công tác quản lý, giảng dạy, kết hợp với đổi mới phương pháp dạy học, đã giúp giáo viên tổ chức được các hoạt động dạy và học đa dạng, phong phú tạo được hiệu quả cao trong hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Tạo điều kiện cho giáo viên tiếp xúc với công nghệ thông tin trong soạn, giảng, quản lý học sinh, thường xuyên cập nhật được các thông tin mới nhất, những tư liệu trực quan sinh động, đẹp mắt có tính thực tế để áp dụng vào các bài học cho các lớp, từ đó giúp các em hiểu sâu hơn nội dung kiến thức của bài học, kiến thức học sinh tiếp thu được không xa rời thực tiễn, các tiết học theo cách soạn giảng PowerPoint với những hình ảnh sinh động thu hút học sinh tích cực, chủ động tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài. Chính vì vậy, người giáo viên phải luôn nhận thức một cách đúng đắn: phải tự rèn luyện, hoàn thiện những kĩ năng về công nghệ thông tin, kĩ năng tư duy, từ đó vận dụng các phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, nhẹ nhàng, thoải mái để kích thích sự hứng thú, say mê học tập và khả năng sáng tạo của tất cả học sinh. Nắm vững các phương pháp dạy học tích cực, vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học vào giảng dạy để vừa đạt mục tiêu giáo dục, vừa phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế của trường. Tổ chức dạy và học 2 buổi/ngày để bồi dưỡng và phụ đạo học sinh, học sinh có thời gian học kiến thức mới, ôn luyện kiến thức cũ, và có thời gian tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Phân loại đối tượng học sinh để có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp, dạy cho học sinh những gì học sinh còn yếu, còn thiếu. Rèn kỹ năng học tập cho học sinh trong các bài học, tiết học như kỹ năng đọc, viết, tính toán… Chính việc vận dụng những phương pháp dạy học tích cực đã giúp tôi, giúp giáo viên từng bước hoàn thiện những kĩ năng sư phạm, để từ đó vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong công tác quản lý, chỉ đạo, giảng dạy và giáo dục học sinh. Quá trình vận dụng những phương pháp dạy học tích cực này, sự say mê học tập và những tiến bộ rõ rệt của học sinh chính là nguồn động lực thúc đẩy tôi , thúc đẩy giáo viên luôn nỗ lực và phấn đấu không ngừng. Việc áp dụng giảng dạy theo hướng chuyên môn hóa đã tạo ra rất nhiều thuận lợi, giúp cho người giáo viên nắm bắt được khả năng nhận thức của các đối tượng học sinh. Từ đó sẽ vận dụng những phương pháp dạy học tích cực sao cho phù hợp, từng bước uốn nắn và tạo điều kiện để các em khắc phục những mặt còn tồn tại, đồng thời giúp các em phát huy tối đa khả năng của bản thân. 13
  15. 3. Công tác chỉ đạo rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Rèn kỹ năng sống cho học sinh cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với nhà trường. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, trong học tập, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm. Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội”. Qua hoạt động học tập, vui chơi, các buổi hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh được giao tiếp với bạn bè, thầy cô, biết nói và ứng xử đúng mực, biết nói lời cảm ơn khi được sự giúp đỡ, biết nói lời xin lỗi khi làm người khác không vui. Ngoài ra người giáo viên cũng cần sử dụng, vận dụng linh hoạt việc đưa nội dung tích hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua các bài dạy trong môn Tự nhiên và xã hội, môn Đạo đức, môn Tiếng Việt…Bằng hệ thống các câu hỏi giúp các em tìm hiểu kiến thức, các tình huống, các kỹ năng giao tiếp, ứng xử chuẩn mực, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng học tập… Với phương pháp tổ chức hoạt động nhóm trong học tập cũng như trong các hoạt động tập thể giúp các em phát huy hết khả năng học tập theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo, các em tự bộc lộ khả năng của mình, tự tìm tòi, tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Thông qua cách làm việc theo nhóm giúp các em có điều kiện hợp tác, trao đổi, tự học lẫn nhau và có trách nhiệm với các thành viên trong nhóm. Khi làm việc theo nhóm, tự các nhóm có quyền lựa chọn cách thực hiện nào tùy thích, sao cho khi nhóm trình bày phải đạt được yêu cầu giáo viên giao cho. Học sinh được trải nghiệm các kỹ năng sống thông qua các hoạt động học tập, hoạt động tập thể và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh được rèn luyện kỹ năng sống thông qua việc biết tự chăm sóc sức khỏe như: các em biết giữ gìn vệ sinh, biết sống khỏe mạnh và an toàn, chẳng hạn qua việc các em thực hiện xếp hàng để kiểm tra vệ sinh cá nhân trước khi vào lớp như kiểm tra tay, chân có sạch không, quần áo, đầu tóc có gọn gàng sạch sẽ hay không, nếu bạn nào chân tay chưa sạch yều cầu đi rửa ngay…, Học sinh biết chấp hành tốt luật giao thông, rèn luyện cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác qua các trò chơi, các tiểu phẩm, được tìm hiểu các biển báo giao thông vẽ trên tường ở hai bên cổng trường. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống thông qua rèn luyện và thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, biết giúp đỡ nhau trong học tập. Qua bài giảng, qua các buổi hoạt động như thi văn nghệ, thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chương trình giao lưu Tiếng Việt. Qua các trò chơi các em được giao tiếp, được nói với nhau những lời nói hay, những từ ngữ đúng, những lời nói gần gũi, thân thiện. Từ đó giúp các em biết cách giao tiếp với người lớn, với thầy cô, bạn bè như thế nào. Các em hiểu và làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, các em biết nói lời hay, làm việc tốt. Trong những năm thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trường không có hiện tượng học sinh vi phạm luật giao thông, không mắc phải các tai nạn thương tích như đuối nước, ngộ độc thức ăn, cũng như các tai nạn thương tích khác. 14
  16. Thông qua hoạt động nhóm, học sinh được trao đổi, được bàn bạc, được giao tiếp với nhau. Đây cũng là dịp để các em thể hiện được cách ứng xử có văn hóa trong một số tình huống trong học tập, trong lao động, trong các hoạt động tập thể, trong cuộc sống. Việc hình thành các nhóm học tập như thế nào cho phù hợp, nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn, nhóm theo số thứ tự, nhóm ngẫu nhiên... là do nội dung kiến thức của từng bài để giáo viên lựa chọn hình thức và giao việc cho học sinh, mục đích là khi hoạt động nhóm tất cả các em học sinh đều được tham gia vào hoạt động, đều được nêu lên ý kiến của mình, được trao đổi, bàn bạc, thống nhất với nhau về một nội dung kiến thức. Khi làm việc theo nhóm, tự các nhóm có quyền lựa chọn cách thực hiện nào tuỳ thích, sao cho khi nhóm trình bày phải đạt được yêu cầu mong muốn. Bên cạnh các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh, nên áp dụng một số trò chơi học tập nhằm giảm bớt sự nhàm chán trong tiết học và làm cho giờ học thêm phần lý thú. Giáo viên cần biết lựa chọn các trò chơi học tập như thế nào cho phù hợp với học sinh của lớp, tổ chức các trò chơi trong giờ học không chỉ nhằm giúp các em giải trí, thay đổi không khí trong giờ học, mà còn giúp học sinh tiếp thu kiến thức của bài thông qua các trò chơi hoặc củng cố những gì đã học, học sinh dễ nhớ và nhớ kiến thức nhanh hơn. Các tiết học có trò chơi sẽ thu hút sự tập trung cao của học sinh. Những kiến thức khô khan, trừu tượng sẽ trở nên sinh động và hấp dẫn nếu được tổ chức dưới hình thức trò chơi, và nhờ đó kết quả học tập của học sinh sẽ đạt hiệu quả hơn. Các em yêu thích môn học hơn, dành tình cảm của mình đối với môn học và thích học môn học đó. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua các tiết học có trò chơi làm tăng tình cảm của các em đối với môn học và tình cảm đối với thầy cô giáo của mình. Ví dụ: Tổ chức cho học sinh điền kết quả nhanh và đúng của một bài tập bằng trò chơi “Rung chuông vàng”. Trò chơi “Xì điện”, trò chơi “Tiếp sức”,... Qua việc vận dụng các trò chơi học tập, kết hợp nhịp nhàng với các phương pháp giảng dạy, cho thấy học sinh ngày càng sáng tạo hơn trong học tập, trí tưởng tượng của các em ngày càng phát triển phong phú. Để việc chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu qủa tốt, trước hết nhà trường cần xây dựng được môi trường thân thiện, tập thể đoàn kết, thống nhất. Bản thân mỗi thành viên trong trường đều phải có ý thức phấn đấu, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, có ý thức xây dựng tập thể đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, thương yêu học sinh, xây dựng lối sống giản dị, trung thực, mẫu mực. 4. Phát huy tính sáng tạo của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh, hiệu quả. “Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh” là nội dung thứ tư của Chỉ thị Số: 40/2008/CT-BGDĐT, đã nêu: Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh”. Như chúng ta đã biết hoạt động văn nghệ, thể thao là hoạt động không thể 15
  17. thiếu được trong các nhà trường phổ thông. Tham gia các hoạt động này, các em học sinh không chỉ là đối tượng được giáo dục để tự nâng cao thể chất, biết múa, hát, vẽ, khi học sinh khi tham gia chơi các trò chơi dân gian, hát dân ca, múa các điệu múa truyền thống của địa phương, chính các em là những người nuôi dưỡng và phổ biến văn hóa dân tộc, ở lứa tuổi quan trọng nhất hình thành ý thức dân tộc. Vì vậy đưa âm nhạc dân tộc và các trò chơi dân gian vào nhà trường một cách phù hợp với lứa tuổi các em, vừa là hoạt động làm cho các em vui khi đến trường, tăng cường sức khỏe, phát triển giao tiếp, bình đẳng giới, mà còn là hoạt động rất cần thiết để hình thành nhân cách con người Việt Nam ở các em và trong toàn xã hội. Nhà trường thực hiện tốt việc tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian, các trò chơi giải trí phù hợp với học sinh. Có kế hoạch luyện tập, tổ chức thi, giao lưu giữa các lớp trong trường vào các ngày lễ như: Ngày khai giảng năm học mới; Ngày 20 tháng 11, ngày 26 tháng 3, lễ sơ kết, tổng kết năm học...Phối kết hợp các đoàn thể trong trường để xây dựng kế hoạch hoạt động trong năm học, cụ thể hàng tháng thực hiện những nội dung gì, ai là người chịu trách nhiệm chính. Chẳng hạn trong tháng 8 và tháng 9 chuẩn bị cho công tác khai giảng Tổng phụ trách Đội, đoàn thanh niên có kế hoạch cho học sinh, cán bộ giáo viên luyện tập văn nghệ; tháng 10, tháng 11 chuẩn bị chương trình thể thao, thi văn nghệ chào mừng ngày 20 tháng 10. ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11… Bên cạnh đó giờ hoạt động tập thể là giờ thầy và trò cùng nhau trò chuyện, chia sẻ những vướng mắc, khó khăn mà các em gặp phải trong học tập, từ đó cả thầy và trò cùng nhau đưa ra cách khắc phục. Giờ hoạt động tập thể còn giúp học sinh ý thức rèn luyện thân thể, tính nhanh nhẹn, còn là giờ học mà giáo viên và học sinh có cơ hội tạo nên sự gần gũi, vui vẻ, thân thiện, thông qua các trò chơi dân gian như ném còn, kéo co, nhảy dây, chơi chuyền, chơi ô ăn quan, nhảy lò cò...; Các hoạt động thể thao như: Đá cầu, đá bóng, cầu lông, bóng ném, điền kinh.... Tổ chức cho học sinh được giao lưu Tiếng Việt qua chương trình “Giao lưu Tiếng Việt của chúng em”. Qua hoạt động này học sinh được trao đổi, học hỏi lẫn nhau về Tiếng Việt, các em được thể hiện năng khiếu hát, múa, đọc thơ, đọc diễn cảm bài văn, thể hiện tiểu phẩm..., các em hiểu thêm về Tiếng Việt qua các bài thơ, bài văn, điệu múa, lời ca, các em càng thêm yêu quê hương đất nước. Trong giờ hoạt động tập thể giáo viên cần dành thời gian trò chuyện, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của học sinh trong lớp. Vì vậy trong giờ hoạt động tập thể cần tạo tâm thế thoải mái, không gây sức ép nặng nề đối với học sinh. Để cho học sinh tự nhận xét ưu, khuyết điểm bằng nhiều hình thức khác nhau như: Cán bộ lớp nhận xét, cá nhân tự nhận xét, thảo luận tổ, trình bày theo nhóm,.... Bên cạnh đó, cũng tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ những suy nghĩ của mình trong giờ sinh hoạt, chẳng hạn như: Những điều em thích, những điều em chưa thích, mong muốn của em, khuyến khích bày tỏ qua hộp thư “ Điều em muốn nói”. Qua đó, giáo viên sẽ nắm được tâm tư, nguyện vọng của từng học sinh để có những biện pháp giảng dạy và giáo dục phù hợp. Trong tiết sinh hoạt, giáo viên cũng cần đưa ra những yêu cầu, nội dung về việc rèn luyện đạo đức, kết quả học tập của học sinh, rồi tổ chức cho học sinh thảo luận, trao đổi với nhau để cùng nhận biết được những ưu điểm, khuyết điểm mà bản thân mỗi học sinh, mỗi tập thể tổ, nhóm có được trong tuần học. Các em nhận 16
  18. xét và chọn những hành động thiết thực, tích cực để các em thực hiện. Sau mỗi tuần, hoặc mỗi tháng, mỗi học kỳ, cần cho học sinh tự nhận định, đánh giá lại những việc đã làm được và chưa làm được so với kế hoạch, từ đó các em rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn. Bên cạnh đó, trong giảng dạy, trong các tiết sinh hoạt, khi tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh, giáo viên cần lồng ghép một số hoạt động giáo dục về quyền và bổn phận của trẻ em, luật an toàn giao thông, giáo dục môi trường, tìm hiểu về lịch sử, chọn lọc và nêu những tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Việc kiểm tra đánh giá xếp loại học sinh cũng cần phải thân thiện. Để có phương pháp kiểm tra thân thiện hơn mà vẫn đánh giá đúng học lực của học sinh, giáo viên cần biết phân biệt hai loại hình kiểm tra: Kiểm tra đánh giá sự tiến bộ và kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Kết quả cần được thông báo riêng cho học sinh và ghi vào học bạ của học sinh, chỉ nên công khai khi học sinh kết thúc từng học kỳ. Ví dụ: Học sinh có thể tự nhận xét bản thân, nhận xét cho bạn về viêc thực hiện các hoạt đông theo các nội dung như sau: - Việc đi học đúng giờ. - Ý thức truy bài đầu giờ. - Ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường, lớp. - Ý thức học tập ở nhà, ở lớp. - Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ bạn bè. - Ý thức giữ kỷ luật, trật tự trong học tập. - Ý thức bảo quản đồ dùng học tập, sách vở. - Việc chăm sóc và bảo vệ cây, hoa. - Việc tham gia các hoạt động tập thể. 5. Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, cách mạng ở địa phương. Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Nhận chăm sóc di tích lịch sử, di tích cách mạng, chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng ở địa phương, góp phần làm cho di tích ngày một sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn; Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc, truyền thống cách mạng cho các em học sinh qua các câu chuyện kể về các gương anh hùng dân tộc, các địa danh lịch sử, qua các câu truyện trong sách, báo, trong truyện đọc. Thông qua hoạt động tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương giúp cho việc dạy các môn Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức trở nên sinh động và hiệu quả hơn, học gắn với thực tiễn chứ không chỉ qua sách vở. Đối với các em chưa có ý niệm về lịch sử, truyền thống của dân tộc, thông qua bài học, qua các hoạt động tập thể, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo viên hình thành dần cho các em hình ảnh gần gũi của các nhân vật anh hùng nhỏ tuổi như: Lê Văn Tám, Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Vừ A Dính,...chọn lựa các đầu sách, truyện tranh lịch sử, truyện cổ tích hợp với lứa tuổi các em để các em đọc, hoặc giáo viên đọc cho học sinh nghe. Hướng dẫn học 17
  19. sinh tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc của địa phương qua các lễ hội, các trò chơi, các bài hát dân ca, điệu múa xòe của dân tộc Thái, múa khèn của dân tộc Mông. Thông qua sách báo, qua phương tiện thông tin, qua thực tế thăm quan nhà Văn hóa Bản Lướt, học sinh hiểu được về truyền thống cách mạng của địa phương. Qua đó ngầm giáo dục và hình thành trong các em ý thức tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc, biết trân trọng và giữ gìn di tích lịch sử. Qua các việc làm cụ thể như tổ chức cho học sinh đến thăm các gia đình thương binh liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng trên địa bàn xã vào các ngày lễ tết. Các em học sinh cùng nhau làm một số công việc như làm cỏ trong vườn, quét dọn nhà cửa, làm vệ sinh quanh nhà, quét đường làng, ngõ xóm,.... Chỉ với những công việc tưởng chừng rất đơn giản ấy nhưng học sinh rất tự hào vì bản thân các em đã làm được những việc thật sự có ích, các em hiểu được mình đang làm việc để giúp đỡ những người đã hy sinh xương máu của mình để các em có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay. Các em học sinh và các thầy cô giáo của trường làm tốt việc chăm sóc, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng, để lại rất nhiều ấn tượng tốt trong nhân dân ở địa phương. Trường đã tham gia 4 buổi lao động để giúp đỡ 4 gia đình chính sách trong địa bàn xã. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở trường Tiểu học số 1 xã Mường Than, đã được áp dụng tại trường Tiểu học số 1 xã Mường Than, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể: Kết quả học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh chuyển biến rõ rệt, 100% học sinh được đánh giá xếp loại hạnh kiểm thực hiện đầy đủ. Chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến. Kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện năm học: 2010-2011 đạt 12 giải, trong đó đạt 01 giải nhì; đạt 02 giải ba; giải khuyến khích đạt 9 giải. Thi học sinh giỏi cấp tỉnh (Lớp 5) đạt 03 giải. Kết quả thi viết chữ đẹp cấp huyện cũng đạt được những kết quả đáng kể, có 25 học sinh tham gia, đạt giải 25 em. Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” đạt giải nhì trong cụm xã. Kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện năm học 2011-2012 đạt 13 giải, trong đó đạt 02 giải nhì, 07 giải ba; 04 giải khuyến khích. Thi học sinh giỏi cấp tỉnh (Lớp 5) đạt 02 giải. Kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện (lớp 4 và lớp 5) năm học 2012-2013 có 33 học sinh tham gia, đạt 30 giải, trong đó đạt 04 giải nhất, 02 giải nhì, 08 giải ba, 16 giải khuyến khích. Thi Olympic toán tuổi thơ cấp huyện đạt 05 giải, cấp tỉnh đạt 01 giải. Dự thi kể chuyện Bác Hồ do Hội đồng Đội tổ chức đạt 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích, 01 giải năng khiếu đặc sắc nhất. Thi “Giai điệu tuổi hồng” đạt giải nhì toàn đoàn, 01 giải tiết mục “Múa hay nhất”. Học sinh dự thi vẽ tranh với chủ đề “Em vẽ quê hương” đạt 3 giải, trong đó đạt 02 giải nhì, 01 giải khuyến khích. Kết quả thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện năm học 2010-2011 đạt 14 đồng chí; Năm học 2011-2012 đạt 14 đồng chí (Kết quả bảo lưu của năm học 2010-2011) dự thi viết chữ đẹp cấp huyện 11 đồng chí, đạt giải 11 đồng chí. Thi Tiếng hát giáo viên do huyện tổ chức đạt giải ba toàn đoàn; Dự thi đồ dùng dạy học tự làm tham gia ba đồ dùng đạt giải ba đồ dùng, đạt 01 giải A; 02 giải C. 18
  20. Kết quả thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện năm học 2012-2013 đạt 20 đồng chí. Kết quả đánh giá xếp loại cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh năm học 2010-2011, 2011-2012 và 2012-2013 như sau: * Cán bộ giáo viên, nhân viên: TỔNG XẾP LOẠI NĂM HỌC SỐ CHUYÊN MÔN GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CBGV TỐT KHÁ T.BÌNH TRƯỜNG HUYỆN TỈNH NV 2010-2011 35 24/35 6/35 5/35 23/32 14/23 0 (68,6%) (17,1%) (14,3%) (71,9%) (60,9%) 2011-2012 40 29/40 10/40 1/40 25/35 14/35 1(TPT Đội (72,5%) (25%) (2,5%) (71,4%) (40%) giỏi) 2012-2013 41 39/41 2/41 0 32/35 20/32 0 (95,1%) (4,9%) (91,4%) (62,5%) * Học sinh: Hạnh kiểm Học lực Học sinh giỏi các cấp Năm TS THĐĐ THC Giỏi Khá TB Yếu Trường Huyện Tỉnh học HS (Đ) ĐĐ (CĐ) 2010-2011 400 389/389 0 99/389 179/389 109/389 2/389 65/278 12/25 3/6 (11KT) (100%) (25,5%) (46%) (28%) (0,5%) (23,4%) (48,0%) (50%) 2011-2012 437 427/427 0 87/427 156/427 181/427 3/427 72/243 13/27 2/3 (8KT) (100%) (20,4%) (36,5%) (42,4%) (0,7%) (29,6%) (48,1%) (66,6%) 2012-2013 441 435/435 0 95/435 178/435 161/435 1/435 87/273 35/39 1/2 (6KT) (100%) (21,8%) (40,9%) (37%) (0,3%) (31,7%) (89,7%) (50%) Qua quá trình phấn đấu, năm học 2011-2012 Trường được công nhận đạt danh hiệu “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Năm học 2012-2013 xây dựng thành công Trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I và nhà trường vinh dự được đón Bằng công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ I vào tháng 01 năm 2013. Qua việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, học sinh luôn học tập với tâm trạng hồ hởi, thích thú, các em tỏ ra say mê và tích cực chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Dựa và bảng thống kê kết quả học tập cho thấy học sinh có sự tiến bộ rõ rệt trong học tập, số lượng học sinh giỏi và học sinh tiên tiến tăng. Không những việc học tập có tiến bộ mà các em còn phát triển các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2