intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo

Chia sẻ: Trần Thị Trúc Diễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

1.542
lượt xem
368
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhằm giúp cho giáo viên có những biện pháp phù hợp, chủ động, linh hoạt, giúp trẻ hứng thú khi dạy vận động cơ bản cho trẻ từ đó giúp trẻ có kỹ năng kỹ xảo vận động đồng thời phát triển các tố chất thể lực cho trẻ. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến kinh nghiệm về một số biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề Tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CHO TRẺ MẪU GIÁO 1
  2. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Giáo dục Mầm Non là một bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Chỉ thị 153/CP của Hội đồng chính phủ ngày 12/8/1966 về: “ Công tác giáo dục mẫu giáo” đã khẳng định vị trí và tầm quan trọng của bậc học mầm non. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước để hoà nhập với khu vực và thế giới buộc chúng ta phải xác định những mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục MN nói riêng để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội nhằm đảm bảo cho trẻ phát triển toàn diện đồng thời góp phần hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Để thực hiện tốt các mục tiêu của ngành, chúng ta phải tiến hành các nhiệm vụ như giáo dục thể lực( Giáo dục thể chất), trí tuệ, đạo đức, lao động, thẩm mỹ. Giáo dục thể chất bao gồm nhiều nội dung như: Đội hình đội ngũ, bài tập phát triển chung, vận động cơ bản, trò chơi vận động. Những nội dung này rất đa dạng đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong các tiết dạy. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề “ Biện pháp dạy vận động cơ bản ( VĐCB) cho trẻ 4 – 5 tuổi” nhằm giúp cho giáo viên có những biện pháp phù hợp, chủ động, linh hoạt, giúp trẻ hứng thú khi dạy VĐCB cho trẻ từ đó giúp trẻ có kỹ năng kỹ xảo vận động đồng thời phát triển các tố chất thể lực cho trẻ. Đây là mục tiêu đầu tiên khi dạy VĐCB cho trẻ. Trên thực tế những biện pháp dạy VĐCB cho trẻ 4 – 5 tuổi của GV đã được quan tâm một cách thích đáng nhưng do một số GV chưa dành thời gian hợp lí cho giờ dậy, chưa đi sâu nghiên cứu đề ra những biện pháp phù hợp mà chỉ dạy đúng phương pháp bộ môn và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của việc dạy VĐCB trẻ 4 – 5 tuổi… nên hiệu quả chưa cao. 2
  3. Là một giáo viên tôi nhận thức đầy đủ và sâu sắc tầm quan trọng của việc đề ra những biện pháp phù hợp khi dạy VĐCB cho trẻ đạt hiệu quả cao nên tôi đã tìm hiểu thực trạng vấn đề này ở một số lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong trường MN Mai Dịch. Từ thực trạng tôi đã điều tra được hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kinh nghiệm của bản thân trong việc hạn chế được những tồn tại khi dạy VĐCB cho trẻ đồng thời giúp cho giáo viên trong trường nắm được một số biện pháp dạy VĐCB cho trẻ 4 – 5 tuổi mà tôi đã áp dụng đạt hiệu quả trong quá trình điều tra. Xuất phát từ lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Điều tra thực trạng biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ từ 4 – 5 tuổi”. 3
  4. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Vài nét về thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện: a. Thuận lợi: - Trường tuy mới thành lập với bộn bề công việc nhưng Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện cho tôi được tiến hành điều tra trong suốt quá trình nghiên cứu. - Giáo viên phụ trách các lớp mẫu giáo nhỡ trong trường đều có trình độ Cao đẳng - Đại học, nắm vững phương pháp bộ môn, một số giáo viên là chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, giáo viên giỏi cấp quận, có kinh nghiệm giảng dạy đồng thời cũng rất tích cực phối hợp cùng tôi trong quá trình tôi điều tra. - Bản thân là một tổ trưởng chuyên môn, giáo viên lớp MGN, luôn không ngừng tìm tòi, học hỏi, sáng tạo trong công tác. b. Khó khăn: - CSVC cũng như dụng cụ thể dục phục vụ cho trẻ thực hiện các bài tập vận động cơ bản còn thiếu, chưa hợp lý, đồng bộ. - Giáo viên và phụ huynh chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình dạy trẻ. - Giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn, chưa dành nhiều thời gian trong việc lựa chọn đề tài cho phù hợp chủ điểm. 2. Thực trạng: 2.1. Thực trạng về biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ 4 – 5 tuổi trong các loại chương trình chăm sóc và giáo dục. a. Trong chương trình cải cách: * Ưu điểm: Trong chương trình cải cách thì các bài tập dạy vận động cơ bản cho trẻ 4 – 5 tuổi đã được sắp xếp theo một chương trình khung, theo từng bài, từng giai đoạn cụ thể. Trên các nội dung đó giáo viên chỉ việc lựa chọn các biện pháp sao cho phù hợp với nội dung từng bài, giáo viên thực hiện được rõ các bước khi dạy trẻ các kỹ năng động tác. Giáo viên vẫn là người hướng dẫn, là trung tâm của quá tình giáo dục. Nội dung chăm sóc giáo 4
  5. dục đã bám sát mục tiêu kế hoạch đào tạo theo quyết định 55/QĐ của Bộ Giáo dục và Đào tạo ký ngày 3/2/1990. - Nội dung chương trình được đưa vào từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với sự phát triển của trẻ. Nội dung giáo dục ngoài yêu cầu và nội dung chung còn có phân phối chương trình cụ thể theo từng giai đoạn, từng tháng và phần hướng dẫn thực hiện trình bày rõ ràng. Giáo viên dễ dàng lựa chọn biện pháp. Giáo viên ít phải thay đổi điều kiện, khi dạy còn mang tính hình thức nên tiết học đó đơn giản, ít tạo được sự hứng thú cho trẻ. Ví dụ: Biện pháp dạy trẻ phối hợp với âm nhạc, giáo viên chỉ cần chọn bất kỳ bài hát nào và chọn tốc độ nhanh hay chậm mà không cần theo một chủ điểm nào. Bài: Bò thấp – chui qua cổng. Giáo viên chỉ cần chọn nhạc và điều chỉnh nhanh hay chậm theo nhạc to – nhỏ rồi cho trẻ thi đua vận động theo nhạc. Khi dừng 1 đoạn nhạc bạn nào về trước không làm đổ cổng là thắng… * Khó khăn trong việc thực hiện theo chương trình cải cách: - Giáo viên vẫn thường sử dụng những biện pháp để dạy trẻ theo kiểu truyền thống với đặc trưng chủ yếu coi cô giáo là trung tâm của quá trình giáo dục, cô chủ yếu hướng dẫn sau đó lần lượt trẻ làm, trẻ làm theo mẫu, mang tính đồng loạt, chưa phát huy được tính tích cực của cá nhân từng trẻ, trẻ còn thụ động, cá nhân trẻ ít được vận động, không được rèn ở mọi lúc mọi nơi mà chủ yếu trên tiết học thể dục. Cô giáo phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn và các bài soạn có sẵn, các động tác mang tính áp đặt cho trẻ, hình thức biện pháp cô đưa ra còn đơn điệu, nghèo nàn chủ yếu nặng về tiết học, trẻ ít có điều kiện vận động. - Nội dung giáo dục chưa chú trọng đến những nội dung nhằm hình thành những cơ sở ban đầu các phẩm chất mới của nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 5
  6. - Nội dung giáo dục chưa tạo nên sự tác động sư phạm mang tính tổng hợp, các mặt giáo dục chưa được tích hợp hài hoà trong từng môn học, từng hoạt động còn rời rạc, không gắn với cuộc sống thật của trẻ. Kỹ năng động tác còn mang tính áp đặt, chưa chú ý tới vốn kinh nghiệm và nhu cầu của trẻ. b. Trong chương trình đổi mới * Ưu điểm: Nội dung chương trình đổi mới được phân ra theo các chủ điểm rõ ràng, nội dung phong phú nên giáo viên dễ dàng lựa chọn các biện pháp phù hợp với từng chủ điểm, nội dung từng bài. Ngoài ra giáo viên có thể tự sưu tầm hoặc sáng tác thêm bài hát mới lạ giúp trẻ hào hứng sao cho phù hợp với chủ điểm, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực vào vận động một cách chủ động, hứng thú để trẻ phát triển theo đúng khả năng và nhu cầu của bản thân trẻ. Nội dung chương trình được lồng ghép tích hợp, nhiều hình thức phong phú giúp cho trẻ được chủ động sáng tạo và tích cực tham gia vận động. Giáo viên linh hoạt phối hợp sử dụng các biện pháp dạy VĐCB cho trẻ, thay đổi điều hình thức học tập của trẻ, có thể chia trẻ học theo nhóm nhỏ giúp cho trẻ tập luyện kỹ năng, động tác chính xác hơn, chú ý đến nhiều cá nhân trẻ tham gia vận động, trẻ được bộc lộ khả năng cá nhân, được tự lựa chọn giải pháp, trong khi vận động trẻ trở nên năng động hơn, tự tin hơn. Ví dụ: Vẫn là bài bò thấp – chui qua cổng Chủ điểm: Thế giới thực vật Giáo viên sử dụng các biện pháp như: dạy trẻ vận động kết hợp với âm nhạc, thay đổi điều kiện học tập như giáo viên cho trẻ học dưới hình thức vào “Vườn cổ tích” hái nhiều hoa thơm trái ngọt trong vườn cổ tích, cổng cô cuộn những chiếc lá và tạo ra tình huống nếu bạn nào bò khéo, không làm đổ cổng thì không những hái được nhiều quả mà lại tìm được cô công chúa nữa, còn bạn nào chạm vào cổng làm đổ sẽ không tìm được gì mà còn bị lá che vào người nữa. Trẻ rất tò mò hào hứng bò cho khéo, thi đua. Trong lúc trẻ bò cô đánh đàn bài hát: “Vườn cổ tích”, “Quả” các bài hát có nội dung về thế giới thực vật. Trẻ vừa bò rèn kỹ năng khéo lại vừa nghe nhạc, giáo dục tích hợp cả 6
  7. “ Hái được quả gì” trẻ học một cách nhẹ nhàng, vận động thấy thoải mái, không mệt mỏi hay đối với những bài tập tổng hợp bao gồm từ 2 – 3 động tác mà yêu cầu kỹ năng đòi hỏi phối hợp nhiều, trẻ phải thực hiện liên hoàn các động tác mà không bị gián đoạn giáo viên sử dụng hình thức biện pháp tổ chức hội thi “Bé nhanh trí”, “ Bé khoẻ – Bé ngoan”, “ Hội khoẻ măng non” theo một chủ điểm Thế giới động vật chẳng hạn. Ví dụ: Bài ném xa – chạy nhanh, giáo viên cho trẻ ném – chạy nhanh lấy con vật theo yêu cầu của cô. Trong khi trẻ thực hiện các VĐCB cô kết hợp bật nhạc các bài hát về thế giới động vật, trẻ rất hứng thú và chủ động chạy nhanh để lên gắn được nhiều con vật theo yêu cầu của cô trong thời gian 1 bản nhạc. Khi giáo viên biết phối hợp nhiều biện pháp, linh hoạt, gợi mở một cách nhẹ nhàng làm trẻ hào hứng, vận động không nhàm chán. Nội dung phong phú được đan quyện chặt chẽ trong một thể thống nhất, giúp cho quá trình giáo dục phù hợp với quá trình nhận thức và phát triển toàn diện của trẻ. Trẻ cảm thấy thực sự học bằng chơi – chơi mà học. * Khó khăn trong việc thực hiện theo chương trình đổi mới : - Một số đồ dùng, dụng cụ thể dục để dạy theo chủ điểm còn thiếu do trường mới thành lập. - GV phải dành nhiều thời gian, phải luôn sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm các nội dung, hình thức, biện pháp phong phú để thu hút trẻ. GV phải lựa chọn đề tài, đưa ra yêu cầu phù hợp điều kiện riêng của lớp, phù hợp với trẻ của mình. GV phải thiết kế đồ dùng, dụng cụ giảng dạy đảm bảo kiến thức, kỹ năng vận động của trẻ. - Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh chưa được chặt chẽ làm cho một số bài tập VĐCB khi trẻ thực hiện chưa đạt như mong muốn của giáo viên. 2.2. Nhận thức của giáo viên về biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ MG nhỡ 4 – 5 tuổi. 7
  8. Để đánh giá thực trạng về biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ 4 -5 tuổi 1 cách khách quan, ngoài việc đánh giá kết quả thể hiện trên phiếu anket tôi còn kết hợp trò chuyện với giáo viên, quan sát trẻ và giáo viên thực hiện. Khi có điều kiện thăm dự các lớp trong trường, tôi cố gắng quan sát và trò chuyện với giáo viên, với trẻ. Trong quá trình điều tra tôi thu được kết quả sau. Bảng 1: Kết quả thăm dò ý kiến GV khi dạy vận động cơ bản cho trẻ để đạt được kết quả tốt. Số giáo Tỷ TT ý kiến GV viên đánh lệ giá % 1 - Giáo viên giúp trẻ được thể hiện tính chủ động và tích cực 7/8 87.5 trong vận động 2 - Giáo viên gây hứng thú cho trẻ. 6/8 75.0 3 - Giáo viên giúp trẻ thực hiện tốt kỹ năng. 5/8 62.5 *Nhận xét chung: Nhìn trên Bảng 1 ta thấy đa số GV có nhận thức đúng đắn về các biện pháp dạy VĐCB cho trẻ MG nhỡ. Chính nhờ có sự linh hoạt, lồng ghép các biện pháp dạy vận động cho trẻ mà các bài tập VĐCB đều đạt được kết quả tốt và có một số ảnh hưởng lớn đến giờ học. Qua phiếu điều tra tôi thấy việc GV giúp trẻ được thể hiện tính chủ động và tích cực trong vận động chiếm tỷ lệ cao (7/8 GV) đạt tới 87,5%. Vì sao được kết quả cao như vậy, bởi lẽ theo chương trình đổi mới hiện nay lấy trẻ làm trung tâm, trẻ được hoạt động một cách tích cực, thoải mái, không gò bó. Đồng thời GV phát huy được hết khả năng nghệ thuật sư phạm , chú ý đến cá nhân trẻ, bên cạnh đó có sử dụng tích cực các biện pháp nên trẻ tham gia vận động một cách chủ động hơn. Còn việc GV giúp trẻ thực hiện tốt kỹ năng mới chỉ đạt tỷ lệ 75% (6/8 GV) là do 8
  9. một số cháu còn quá nhút nhát, chưa tích cực vận động nên kết quả đạt được chưa cao. Với những cháu này GV phải có biện pháp riêng với trẻ như rèn cho cháu ở mọi lúc mọi nơi. Bảng 2: Kết quả thăm dò ý kiến GV về việc sử dụng các biện pháp khi dạy VĐCB để đạt kết quả vận động tốt. Mức độ Thường Thỉnh Không bao T Hiếm khi Các biện pháp xuyên thoảng giờ T SL SL SL SL % % % % GV GV GV GV 1 Nêu gương 6/8 75 2/8 25 0 0 0 0 2 Dạy trẻ thể dục phối hợp 4/8 50 2/8 25 1/8 12, 1/8 12,5 với âm nhạc 5 3 Thay đổi điều kiện 3/8 37.5 3/8 37.5 2/8 25 0 0 4 Tạo tình huống bất ngờ 1/8 12.5 3/8 37.5 4/8 50 0 0 * Các biện pháp khác 9
  10. 1. Trò chơi vận động 3/8 37.5 2. Héi thi 2/8 25 * NhËn xÐt chung: T«i vui mõng víi kÕt qu¶ thÓ hiÖn trªn phiÕu, nh×n chung GV ®Òu biÕt sö dông phèi hîp c¸c biÖn ph¸p, phï hîp víi néi dung tõng bµi. Trªn thùc tÕ GV ®· sö dông biÖn ph¸p nªu g­¬ng nhiÒu bëi v× ®Æc ®iÓm t©m lý trÎ lµ rÊt thÝch ®­îc khen. Khi trÎ tham gia vµo bµi tËp V§CB nÕu trÎ thùc hiÖn ®óng kü n¨ng ®éng t¸c GV ®éng viªn khen ngîi kÞp thêi ngay trÎ cµng hµo høng tham gia vµ cµng lµm cho nh÷ng b¹n kh¸c còng cã ý thøc thi ®ua theo. Tuy nhiªn, cßn 1/8 GV chiÕm tØ lÖ 12.5% ch­a sö dông biÖn ph¸p d¹y thÓ dôc phèi hîp víi ©m nh¹c ®Ó d¹y trÎ V§CB lµ do GV sö dông ®µn cßn h¹n chÕ hoÆc GV ®ã ch­a hiÓu ®­îc t¸c dông tÝch cùc khi d¹y trÎ V§CB cã kÕt hîp víi ©m nh¹c. Bªn c¹nh ®ã cã 1 sè GV ngoµi viÖc sö dông 4 biÖn ph¸p nªu trªn thØnh tho¶ng cßn sö dông biÖn ph¸p d¹y V§CB d­íi h×nh trß ch¬i vËn ®éng, héi thi nh­ “ BÐ nhanh trÝ”, BÐ khoÎ bÐ ngoan”, “ Héi khoÎ m¨ng non”. §©y còng lµ biÖn ph¸p tèt gióp trÎ häc b»ng ch¬i - ch¬i mµ häc. B¶ng 3: KÕt qu¶ th¨m dß ý kiÕn GV về những khó khăn thường gặp khi dạy VĐCB cho trẻ. SL Những khó SL TT Những khó khăn % % GV khăn khác GV 1. Số trẻ trong lớp quá đông 5/8 62.5 1. Trẻ chưa tích 2 25 10
  11. cực vận động 2 Lớp học chật hẹp 0 0 2. Trẻ nhút nhát 4 50 3 Việc phối hợp với PH 3 37.5 Cô chưa thực sự gây hứng thú 4 cho trẻ, tạo ra các tình huống 2 25 bất ngờ. 5 Thiếu phương tiện GD trẻ 4 50 * Nhận xét chung: Qua thăm dự các lớp trong trường tôi thấy rằng hiện nay GV các lớp đều gặp khó khăn chung là số trẻ trong lớp khá đông do nhu cầu gửi con của PH cao, số lượng trẻ lứa tuổi MGN quá đông. Mặc dù GV đã có sự linh hoạt chia lớp thành 2 nhóm để dạy VĐCB cho trẻ nhưng số trẻ trên tiết học vẫn vượt quá so với quy định. - Khó khăn thiếu phương tiện giáo dục là 4/8 GV chiếm tỷ lệ 50% là do trường mới thành lập đồ dùng phục vụ cho các giờ dạy VĐCB, cho các chủ điểm còn thiếu như chủ điểm “ PTGT “khi cần các loại đèn tín hiệu giao thông thì trường chưa có, đồ dùng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng, dụng cụ dạy thể dục chưa đồng bộ, đồng phục của cô và trẻ còn chưa có khi tổ chức các giờ vận động cơ bản dưới hình thức hội thi. - Khó khăn khác khi GV gặp là do 1 số trẻ lười vận động, không thích vận động, nhút nhát, chưa tích cực hay khả năng vận động của trẻ còn hạn chế cô cần phải tìm biện pháp để động viên trẻ tập cùng cô, cùng bạn. Bảng 4: Kết quả thăm dò ý kiến GV về sự cần thiết của việc dạy VĐCB cho trẻ. 11
  12. TT Sự cần thiết của việc VĐCB SLGV Tỷ lệ % 1 Rất cần thiết 7/8 87.5 2 Cần thiết 1/8 12.5 3 Bình thường 0 0 4 Không cần thiết 0 0 * Nhận xét chung: Thực tế cho thấy có tới 7/8 GV đạt 87.5% cho rằng việc dạy các VĐCB cho trẻ MG Nhỡ là rất cần thiết. Để thoã mãn nhu cầu VĐCB cho trẻ, GV phải luôn đề cao việc rèn luyện cơ thể cho trẻ một cách hợp lý. Trẻ nào tích cực chủ động tham gia vận động thì trẻ đó sẽ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, có kỹ năng vận động tốt. Khi trẻ tham gia vận động thì tất cả các hệ cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hoá… đều phát triển tốt, phát triển một cách toàn diện. Ngược lại nếu trẻ ít tham gia vận động, chưa tích cực vận động thì sẽ chậm chạp, cơ thể sẽ yếu ớt điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ sau này. 12
  13. III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ: Thông qua kết quả thể hiện trên phiếu điều tra cũng như quan sát trò chuyện, thông qua những buổi dự giờ, tổ chức cho trẻ MG 4 – 5 tuổi bài tập VĐCB tại một số lớp trong trường nơi tôi công tác, tôi nhận thấy rằng GV đưa nội dung VĐCB rất phù hợp với nội dung chương trình đổi mới. Giáo viên đã biết phối kết hợp, lựa chọn lồng ghép các biện pháp dạy vận động cơ bản cho trẻ 4 – 5 tuổi vào từng đề tài, từng chủ điểm một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của lớp mình. Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chưa quan tâm đến hoạt động này. Khi giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng phối kết hợp các biện pháp để dạy trẻ bài tập VĐCB thì trẻ hào hứng tích cực tham gia vận động. Giáo viên đã quan tâm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, có biện pháp phù hợp dạy trẻ VĐCB sao cho đạt hiệu cao nhất và có tác động thực sự đến trẻ. GV đã khéo léo dẫn dắt, lôi cuốn trẻ tích cực tham gia vận động. Mặt khác, một số GV đã biết tạo tình huống và mở rộng kiến thức cho trẻ. Khi tổ chức dạy VĐCB cho trẻ,GV cần phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ. Mỗi GV cần phải có niềm say mê với nghề nghiệp, hết lòng vì trẻ thơ, luôn luôn tìm tòi, tiếp cận những cái mới để thu hút trẻ vận động một cách tích cực nhất. Giáo viên phải nghiêm túc thực hiện tốt những biện pháp đã đề ra. 13
  14. GV cần có kiến nghị với BGH bổ sung thêm phương tiện, đồ dùng cho các bài tập VĐCB cho đầy đủ, phong phú. Những biện pháp trên đây về tổ chức, hướng dẫn trẻ bài tập VĐCB mà tôi đã áp dụng đã đem lại kết quả tốt đối với trẻ. Qua quá trình điều tra tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau: - Cần phải có sự đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị phục vụ cho trẻ thực hiện bài tập VĐCB. - Giáo viên cần nghiên cứu để tìm ra những biện pháp dạy phong phú, đảm bảo tính sư phạm, tính vừa sức, giúp cho trẻ hứng thú học tập. - Tạo điều kiện để giáo viên tự học hỏi bồi dưỡng thông qua các buổi dự giờ, kiến tập trong trường và trường bạn. - Có nhiều hình thức khen thưởng động viên kịp thời đối với những GV có những biện pháp hay, sáng tạo trong quá trình giảng dạy. - Phụ huynh cần quan tâm hơn đến dạy VĐCB cho trẻ, kết hợp chặt chẽ với nhà trường để cùng nhau đề ra biện pháp dạy VĐCB tích cực hơn nữa nhất là với những cháu lười, chưa tích cực vận động, hay nhõng nhẽo, được bố mẹ quá chiều chuộng. Phụ huynh phải coi trọng việc dạy VĐCB cho trẻ. Trong quá trình nghiên cứu, điều tra thực trạng về biện pháp dạy VĐCB cho trẻ 4 – 5 tuổi chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong được được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các cô, các bác và các chị em đồng nghiệp để cho tôi cũng như các GV lớp MGN có những biện pháp hay giúp cho việc dạy VĐCB của trẻ đạt kết quả ngày càng cao và để sáng kiến kinh nghiệm của tôi đạt kết quả tốt hơn. Ngày 31 tháng 3 năm 2008. Người viết 14
  15. Nguyễn Thị Lê Huyền 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2