intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

43
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài giúp học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số nắm được quy trình giải toán có lời văn, biết phân tích đề bài, biết cách giải, tìm ra đáp số đúng của bài toán có lời văn nhằm nâng cao kĩ năng giải toán cho học sinh để các em có thể nắm chắc, giải thành thạo những bài toán có lời văn ở lớp 3 góp phần dạy học mạch toán có lời văn nói riêng và dạy học toán nói chung đạt chất lượng cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu

  1. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với các môn học khác (Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, Đạo  đức,...) môn Toán được dạy trong trường   Tiểu học đã đóng góp một phần  quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.          Môn Toán được dạy ở trường Tiểu học là môn học thống nhất, không  chia thành phân môn. Nội dung của nó bao gồm các mạch kiến thức là: Số  học, Đại lượng và đo đại lương, Các yếu tố hình học, Yếu tố thống kê, Giải  toán có lời văn. Trong chương trình dạy học toán các mạch kiến thức này   được sắp xếp xen kẽ  nhau, quan hệ  gắn bó với nhau làm cho môn Toán trở  thành môn học có tính tích hợp cao, phù hợp với nhận thức của học sinh  Tiểu  học. Các bài toán có lời văn dành cho học sinh Tiểu học trong chương trình  là những vấn để trong thực tế cuộc sống  hết sức phong phú và có cấu trúc đa  dạng khác nhau của cùng một phép tính (cộng, trừ, nhân, chia) đến những  dạng toán kết hợp của hai hay nhiều phép tính. Vì vậy, giải các bài toán có lời   văn là dịp để  học sinh vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng   giải toán với kiến thức cuộc sống. Việc dạy giải toán là một trong những vấn đề  được coi trọng vì nó   được xem là hoạt động nhằm mục đích: Củng cố, vận dụng những kiến thức  tổng hợp thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển tư duy cho học sinh. Các em được  làm quen với giải toán có lời văn ngay từ lớp 1 nhưng mới  ở dạng toán đơn.  Trong chương trình giải toán ở lớp 3 các em được học giải bài toán bằng hai   phép tính bao gồm nhiều kiến thức tổng hợp. Đây là nền tảng cho các em giải   các bài toán yêu cầu cao hơn có từ  hai lời giải trở  lên. Để  làm tốt loại toán  này đòi hỏi các em khả  năng tư  duy “Phân tích – tổng hợp”. Nếu học sinh  không hiểu được đề  bài sẽ  không giải được bài toán. Trong thực tế  lớp tôi   chủ  nhiệm vẫn còn nhiều học sinh lúng túng trong quá trình giải toán có lời   văn.  Tôi nhận thấy trong các kiến thức Toán  ở  chương trình thì mạch kiến   thức “Giải toán có lời văn” là khó nhất với học sinh dân tộc thiểu số. Bởi vì,   đối tượng học sinh dân tộc thiểu số  vốn từ, vốn hiểu biết, khả  năng đọc  hiểu, khả năng tư  duy lôgic của các em còn rất hạn chế nên khi giải toán có  lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Với một bài toán có lời  văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời   hoặc lí giải tại sao các em lại có được phép tính như  vậy? Các em thật sự  lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số  em chưa biết tóm tắt bài toán,  chưa biết phân tích đề  toán để  tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để  trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng,… GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 1
  2. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Là giáo viên giảng dạy  ở  lớp 3, tôi thấy năng lực giải toán có lời văn  của học sinh dân tộc thiểu số còn bị  hạn chế  bởi một số nguyên nhân chính   như sau:  Do các em ngại và chưa có thói quen đọc kĩ  đề bài, phân tích các yếu tố  ngôn ngữ để nắm được nội dung bài toán.  Do kiến thức thực tế còn quá ít ỏi, nên nhiều học sinh dân tộc thiểu số  không nhận thấy những điều vô lí trong những kết quả sai của mình.  Do khả  năng tư  duy lôgic chưa tốt, đôi khi do không biết bắt đầu từ  đâu, nên con đường đến đáp số nhiều khi chỉ là một sự ước đoán, mò mẫm.  Một phần nữa là do tính vội vàng, hấp tấp, muốn khám phá nhanh đáp  số bài toán. Việc giúp học sinh dân tộc thiểu số khắc phục những hạn chế và  những nguyên nhân nêu trên khi học toán có lời văn là một trong những vấn   đề cần được coi trọng nhằm củng cố và vận dụng những khái niệm, kĩ năng,  kĩ xảo đã được hình thành. Phát triển tư duy lôgic của học sinh. Để góp phần nâng cao chất lượng học Toán và rèn kĩ năng giải toán có  lời văn cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 , xuất phát từ trong quá trình giảng  dạy và giáo dục học sinh với ý thức lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, bản  thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, không ngừng tích lũy kinh nghiệm về nâng  cao chất lượng dạy học giải toán cho học sinh lớp 3.  Đó chính là lí do tôi  chọn đề tài “Một số  biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân   tộc thiểu số ở trường TH Võ Thị Sáu”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu đề  tài giúp học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số nắm được quy  trình giải toán có lời văn, biết phân tích đề  bài, biết cách giải, tìm ra đáp số  đúng của bài toán có lời văn nhằm nâng cao kĩ năng giải toán cho học sinh để  các em có thể  nắm chắc, giải thành thạo những bài toán có lời văn  ở  lớp 3   góp phần dạy học mạch toán có lời văn nói riêng và dạy học toán nói chung   đạt chất lượng cao Nhiệm vụ của đề tài là điều tra cơ bản có số liệu cụ thể về số học sinh giải  toán có lời văn còn khó khăn. Lập kế  hoạch, biện pháp phù hợp để  giúp học  sinh có kĩ năng giải toán tốt hơn và bồi dưỡng nâng cao cho học sinh năng   khiếu. Kiểm tra kết quả  đạt được trong từng tháng của học sinh để  có kế  hoạch giúp đỡ, uốn nắn kịp thời. Học hỏi đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu   đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy để nâng cao trình độ chuyên môn cho bản   thân. 3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh dân tộc  thiểu số lớp 3.  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 2
  3. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu 4. Giới hạn của đề tài Học sinh dân tộc thiểu số lớp 3B trong trường Tiểu học Võ Thị Sáu năm học  2016 – 2017. Nội  dung môn Toán bao gồm 5  mạch  kiến thức lớn, tôi  đi sâu vào  nghiên cứu phần: “Giải toán có lời văn”. Các bài toán trong chương trình lớp  3. 5. Phương pháp nghiên cứu  a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Đọc tài liệu: Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kì III   (2003  – 2007); tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 3; sách giáo  viên; sách giáo khoa Toán.  Phương pháp tổng hợp. b) Nhom ph ́ ương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp trực quan. Phương pháp thực hành luyện tập.  Phương pháp gợi mở ­ vấn đáp. Phương pháp điều tra, thống kê. Phương pháp giảng giải ­ minh họa. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng. Phương pháp quan sát (thăm lớp, dự giờ). Phương pháp thử nghiệm (tổ chức hội vui học tập).  Phương pháp mô hình hóa kết quả thu được (biểu bảng). II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận  Căn cứ vào chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (Quyết định  số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào   tạo. Căn cứ vào chương trình chuẩn hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban  hành và chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt đối với môn Toán lớp 3. Căn cứ vào  nhiệm vụ năm học 2016 – 2017, thực hiện chỉ đạo của PGD&ĐT Krông Ana.  Trong chương trình Giáo dục Tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với các môn  học khác trong trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào tạo   nên những con người phát triển toàn diện. Toán học là môn khoa học tự nhiên  có tính lôgic và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các  bộ môn khoa học khác. Trong đó mạch kiến thức giải toán có lời văn là dạng  toán dùng ngôn ngữ  đưa ra các dữ  kiện và những yếu tố  cần tìm trong một   GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 3
  4. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu văn cảnh, ta vẫn hay quen gọi là bài toán đố.  Bài toán có lời văn bao gồm  nhiều loại toán khác nhau: toán đơn, toán hợp, toán điển hình. Ngay từ  lớp 1  các em đã làm quen với cách giải bài toán có lời văn, tuy nhiên ở dạng rất đơn  giản. Đó là những bài toán đơn về “thêm”, “bớt”, “nhiều hơn”, “ít hơn”. Lên   lớp 3 các em bắt đầu làm quen và giải các bài toán hợp. Cho nên giải toán ở  lớp 3 là nền tảng quan trong cho các em học giải toán ở lớp 4, 5.          Giải toán có lời văn là một phần quan trọng trong chương trình giảng  dạy môn  Toán  ở  bậc  Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một  cách hữu cơ  với nội dung của số  học, các đại lượng cơ  bản và các yếu  tố  hình học có trong chương trình Toán 3. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có  một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau:   Các khái niệm và các quy tắc về  Toán trong sách giáo khoa nói chung  đều được giảng dạy thông qua giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng   cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán. Đồng thời qua việc  giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm  hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để giúp các em phát  huy hoặc khắc phục. Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực   hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với  thực tế sẽ  hình thành, rèn luyện những kĩ năng cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp  các em biết vận dụng vào thực tiễn. Việc giải toán góp phần quan trọng vào rèn luyện cho học sinh năng lực   tư  duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài   toán, tư  duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần  phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ  kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm. Suy luận, nêu nên những phán đoán, rút ra  những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để  giải quyết vấn đề  đặt ra,... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các  em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói  quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc  độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo,... 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trường thuộc địa bàn của xã có nhiều khó khăn, học sinh dân tộc thiểu số của  lớp tôi chiếm 100% trong đó đa số  các em tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn   chế; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết rất chậm. Học sinh dân tộc thiểu số khó nhớ,  mau quên, nhiều em chưa nắm được các dạng toán, các phép tính cộng, trừ,  nhân, chia thực hiện rất chậm.  Đặc biệt về giải toán có lời văn đa số các em   còn yếu, nhất là viết câu lời giải rất lúng túng dẫn đến chất lượng giải toán  có lời văn của các em rất thấp, điều đó đã ảnh hưởng đến kết quả chung của  môn Toán, cụ thể: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 4
  5. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Khảo sát chất lượng đầu năm học 2016 – 2017 về kĩ năng giải toán của  31 học sinh lớp 3B và thu được kết quả như sau: TSHS N DT NDT Giải thành  Kĩ năng giải  Chưa nắm được ữ thạo chậm cách giải 31 16 31 16 7 em = 29,2% 9 em = 37,5% 15 em = 33,3%  Bên cạnh đó cha mẹ  các em phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hoàn  cảnh khó khăn và diện xóa đói giảm nghèo lại nhiều. Vì thế, cha mẹ  chưa  hoặc không quan tâm, chăm lo đến việc học hành cho con em mình. Cá biệt  còn có trường hợp học sinh theo cha mẹ đi làm lò gạch, đi nhặt điều, đi mót  cà phê,… làm gián đoạn việc học tập của các em, gây ảnh hưởng đến độ liên  tục của bài học trong chương trình, các em không tiếp thu được bài, hổng  kiến thức. Đã khiến cho nhiều học sinh không tích cực trong các hoạt động  học tập. Nhiều cha mẹ  học sinh không hoặc chưa quan   tâm đúng mức đến  việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để  các em đến lớp  cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. Một số  học sinh  chưa thực sự  hiếu học, hay quên đồ  dùng học tập,  chưa chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp. Nhất là với môn Toán, số lượng  học sinh khó khăn còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh   không hiểu được đề  bài toán dẫn đến giải bài toán sai, chưa biết tập trung  vào những dữ  kiện trọng tâm của đề  toán, không chịu phân tích đề  toán khi  đọc đề,…. Các em học sinh khó khăn vừa nhận biết mặt chữ  vừa đánh vần  để  tìm hiểu bài toán, chưa xác định được yêu cầu và chưa nắm được cách   giải bài toán có lời văn. Một số học sinh chưa theo kịp yêu cầu kiến thức, kĩ  năng của môn học. Các em chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc giải các   bài toán, mà các em chỉ chú ý đến việc làm cho xong bài tập. Chưa nắm được  nội dung của bài toán, chưa tích cực, chủ động phân tích, tìm hiểu đề bài, tóm  tắt bài toán,… Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa  cao nên các em đọc  được đề  toán và hiểu đề  còn thụ  động, chậm, dẫn đến kĩ năng giải toán có  lời văn của học sinh dân tộc thiểu số còn yếu. Do đó, giáo viên khó khăn, vất   vả  và mất nhiều thời gian để  nghiên cứu phương pháp dạy học cũng như  biện pháp rèn cho học sinh. Đồ  dùng dạy học môn Toán còn hạn chế. Giáo  viên mất nhiều thời gian đầu tư vào đồ dùng dạy học tự làm. Khi các em học giải các bài toán có lời văn hay gặp nhiều lúng túng, có  khi bị  “bế  tắc” không tìm ra cách giải. Các em chỉ  quen giải những bài toán  đơn và bài toán mà dữ  kiện cho biết cụ  thể. Khi gặp bài toán mà dữ  kiện bị  che dấu bởi một yếu tố ngôn ngữ nào đó là các em gặp nhiều khó khăn. Khả  năng suy luận của các em còn nhiều hạn chế. Các em hay lo lắng khi gặp bài   toán có lời văn với quan điểm bài toán có lời văn là bài toán khó. Cụ  thể  về  học sinh giải toán có lời văn chưa tốt là do: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 5
  6. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Các em hấp tấp, vội vàng, không đọc kĩ đề  bài chưa nắm vững các dữ  kiện bài cho, dạng bài đã làm. Học sinh chưa biết cách phân tích đề, tóm tắt bài toán dẫn đến chưa  biết cách giải bài toán.   Học sinh biết cách giải nhưng kĩ năng tính toán kém dẫn đến kết quả  sai. Các em chưa hiểu rõ bản chất bài toán dẫn đến lúng túng khi đặt câu  lời giải cho phép tính và đặt lời giải sai.  Có học sinh không nắm vững các dạng toán dẫn đến sợ học toán có lời  văn với quan niệm là khó. Một số em còn hạn chế về cách diễn đạt, hiểu ý nhưng không diễn đạt   được.   Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 nhằm kế thừa giải toán có lời văn  ở  lớp 1, 2 mở  rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự  phát triển   nhận thức của học sinh lớp 3. Thời lượng dành cho bài toán giải có lời văn  chiếm tương đối nhiều trong tổng quỹ thời gian dành cho môn toán.  Trong giải toán có lời văn ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn  cho học sinh lớp 3 nói riêng, học sinh phải tư duy một các linh hoạt, áp dụng   được tất cả  các kiến thức, kĩ năng đã có vào giải toán, vào các tình huống  khác nhau. Trong nhiều trường hợp các em phải biết vận dụng những dữ  kiện, điều kiện chưa được nêu ra một các rõ ràng. Học sinh phải tự linh động  trong giải toán, phát huy tích cực, chủ  động khi làm bài. Vì vậy, mạch kiến   thức giải toán có lời văn đóng vai trò quan trọng trong nội dung chương trình  Toán 3. Chính vì thế nhiều khi hướng dẫn các em tìm lời giải vất vả hơn so với   dạy các em thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số của bài toán. Việc đặt lời  giải trở  nên khó khăn với học sinh vì các em mới chỉ  đọc được đề  toán chứ  chưa hiểu được đề, chưa trả  lời các câu hỏi khi giáo viên nêu “Bài toán cho   biết gì?”... Đến khi giải thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không  có câu lời giải,… Học sinh còn hạn chế về kĩ năng giải toán có lời văn như:  Chưa đọc kĩ đề bài hoặc đọc nhưng không hiểu đề bài toán, chưa biết tóm tắt  bài toán, không biết lựa chọn phép tính để giải, viết lời giải sai, viết phép tính   và tính sai kết quả, chưa viết đúng đơn vị của bài toán,… Từ  thực trạng trên, để  việc dạy học sinh dân tộc thiểu số giải toán có  lời văn đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập,  nâng cao chất lượng giải toán có lời văn thì trước hết phải dạy cho các em  nắm được phương pháp cơ bản để giải một bài toán: Học sinh đọc kĩ đề bài,  phân tích bài toán, tự  tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc tóm tắt  bằng sơ đồ  đoạn thẳng. Học sinh nắm chắc được các dạng toán cơ  bản hay  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 6
  7. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu những dạng toán “gốc”  ở  lớp 3 đầu học kì I như: Tìm một trong các phần  bằng nhau của một số, Gấp một số  lên nhiều lần, Giảm đi một số  lần,…   Học sinh biết trình bày bài giải theo thứ tự: Lời giải – phép tính – đáp số. Từ  đó học sinh biết giải và trình bày bài giải các dạng toán giải bằng  hai phép tính: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Bài toán giải bằng hai phép   tính liên quan đến hình học,… Khi học sinh bắt đầu học về giải bài toán bằng hai phép tính giáo viên  phải khắc sâu nội dung bài toán để học sinh biết khi nào thì giải bài toán bằng  một phép tính, khi nào giải bài toán bằng hai phép tính. Bên cạnh đó giáo viên phải kịp thời và kiên trì giúp học sinh nắm được   các dạng toán, phải sửa chữa sai lầm của học sinh một cách chu đáo. Giáo  viên luôn thay đổi các hình thức luyện tập giải toán để gây hứng thú học tập   cho học sinh. Tìm ra biện pháp giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng cơ  bản của các dạng toán giải có lời văn ở lớp 3. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp Mục đích nhằm nâng cao chất lượng học toán cho học sinh nói chung  và rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh tộc dộc thiểu số  lớp 3 nói   riêng giúp các em nắm chức và giải tốt bài toán có lời văn, giúp giáo viên cùng  học sinh đáp  ứng được mục tiêu giảng dạy  và  học tập  hiện nay, tạo điều  kiện thuận lợi cho học sinh học tốt môn toán ở các lớp trên. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp lớp học Song  song   với   việc   điều   tra,   phân  loại   đối   tượng  học   sinh,   lập   kế  hoạch phấn đấu bồi dưỡng cho các em, tôi tiến hành xây dựng nề  nếp học  tập cho học sinh. Sắp xếp chỗ ngồi cho hợp lí, phù hợp với từng em. Hướng dẫn học sinh cách học nhóm có hiệu quả, phân công các nhóm  kèm cặp lẫn nhau, học sinh năng khiếu giúp học sinh khó khăn, tạo thói quen   trao đổi học tập cùng nhau. Xây dựng quy  ước giữa cô và trò, yêu cầu học sinh thực hiện nghiêm   túc (giờ nào việc ấy). Học sinh tự giác nghe giảng, học bài và làm bài đầy đủ. Biện pháp 2: Quy trình giải toán có lời văn Nghiên cứu kĩ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề  toán, suy nghĩ  về  ý nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán.  Không nên vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 7
  8. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt nội dung bài toán  bằng ngôn ngữ, tóm tắt điều kiện bài toán hoặc minh họa bằng sơ  đồ  hình  vẽ. Lập kế hoạch giải toán: học sinh phải suy nghĩ xem để  trả  lời câu hỏi  của bài toán phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ  số  đã cho và điều  kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm tính gì? Phép tính đó có thể giúp  trả  lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ  sở  đó, suy nghĩ để  thiết lập  trình tự giải toán. Thực hiện phép tính theo trình tự  đã thiết lập để  tìm đáp số. Mỗi khi  thực hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện   có dựa trên cơ sở đúng đắn không?... Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử xem đáp số  tìm được có trả  lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán  không? Biện pháp 3: Hướng dẫn các bước giải toán  Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán Cần cho học sinh đọc kĩ đề  toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số  từ  khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ  1 1 ngôn từ thông thường như: “gấp đôi”, “ , ”,  “tất cả”… 3 4 Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì  tôi hướng dẫn  cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ  đó  ở  trong bài toán đang  làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề  toán bằng cách đặt câu hỏi đàm thoại:  “Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán,… Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương  pháp giảng giải kèm theo các đồ  vật, tranh minh họa để  các em tìm hiểu,  nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu   của bài toán và dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép  tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập. Bước 2: Tìm cách giải bài toán * Chọn phép tính giải thích hợp Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và  cái phải tìm,  cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép  1 1 chia” nếu bài toán yêu cầu “tìm  , ...”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc  3 4 “tìm phần còn lại” hay là “lấy ra”. Chọn “phép nhân” nếu “gấp đôi, gấp ba”  … GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 8
  9. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa   1 được   quãng  đường.  Hỏi   đội  công  nhân  đó   còn  phải  sửa  bao  nhiêu   mét  3 đường nữa? (Bài 2/ SGK­ 119). Để  giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ  giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông  qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? (Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài   1215m.) 1 + Bài toán còn cho biết gì nữa? (đã sửa được   quãng đường.) 3 + Bài toán hỏi gì? (Đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường   nữa?) + Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa  trước hết phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? (Tìm số mét đường đã sửa: 1215 :   3) + Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (Tìm số mét   đường còn phải sửa) + Nêu cách tìm? (Lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số đã sửa). * Đặt câu lời giải thích hợp Thực tế  giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô  cùng quan trọng và khó nhất đối với học sinh  khó khăn trong học tập. Chính  vì vậy, việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một   khó khăn lớn đối với người dạy. Tùy từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn  các cách hướng dẫn sau: ­ Cách 1: (Đối với bài toán đơn) Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ  bớt từ đầu “hỏi” và thay từ “mấy” hay “bao nhiêu” bằng từ “số” rồi thêm từ  “là” để có câu lời giải. Ví dụ: May 6 bộ  quần áo hết 18m vải. Hỏi may mỗi bộ  quần áo hết   mấy mét vải?  Các em tìm được câu lời giải “May mỗi bộ quần áo hết số mét vải là:” ­ Cách 2: (Đối với bài toán hợp) Lời giải thứ nhất dựa vào cái cần tìm  đầu tiên trong bài toán, tìm cái gì trả  lời cái đó. Lời giải thứ hai dựa vào câu  hỏi trong bài toán.   Ví du: Thùng thứ  nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ  hai đựng nhiều hơn  thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu? GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 9
  10. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu + Muốn biết cả  hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu trước tiên em   phải tìm gì? (Tìm thùng thứ hai đựng được bao nhiêu lít dầu) Vậy: Cái cần tìm đầu tiên là số lít dầu đựng trong thùng thứ hai nên câu   lời giải là:  “Số  lít dầu đựng trong thùng thứ  hai là:”  hoặc  “Thùng thứ  hai   đựng được số lít dầu là:”   Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các  em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài toán, học sinh   có thể có nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Song trong khi giảng dạy, ở mỗi   một dạng bài cụ thể tôi cho các em suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm  ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.  Tuy  nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách  giải  (ngắn gọn, dễ  hiểu, phù   hợp với các em) và phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Bước 3: Trình bày bài giải Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn, học sinh đã phải tự viết  câu lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa. Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa  học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện   yêu cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ  cách trình bày bài giải theo   hướng dẫn, quy định. Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề  bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi bài  giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời giải ghi cách ô  lỗi khoảng 1 ­> 2 ô vuông (tùy câu lời giải ngắn hoặc dài), chữ ở đầu câu viết  hoa,  ở  cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải   khoảng 2 ­> 3 ô vuông, cuối phép tính là đơn vị  tính được viết trong dấu   ngoặc đơn. Phần đáp số ghi lệch sang phần vở bên phải và dấu hai chấm rồi  mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa). Biện pháp 4: Hướng dẫn giải các dạng toán cơ bản  Để dạy học sinh cách giải toán thì trước tiên tôi lựa chọn phương pháp  giải toán phù hợp với từng dạng toán khác nhau.   1. Hướng dẫn dùng sơ  đồ  đoạn thẳng vào giải bài toán liên quan   đến nhiều hơn, ít hơn, gấp một số  lên nhiều lần, giảm đi một số  lần,  tìm một phần mấy của một số,… Tôi hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ  đoạn thẳng để  minh h ọa giữa  những điều đã cho và những điều cần tìm trong bài toán. Thiết lập được mối  quan hệ giữa các dữ kiện trong bài toán. Đó chính là dùng đoạn thẳng để biểu  diễn, thay thế cho một số, 1 vật, 1 giá trị, 1 đại lượng nào đó trong bài toán. Ví dụ  1: Lớp 3A có 38 học sinh. Lớp 3B có ít hơn lớp 3A 6 học sinh.   Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh? GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 10
  11. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Hướng dẫn học sinh đọc bài toán, phân tích và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn  thẳng: Tóm tắt                     38 HS                               Lớp 3A                                                                                                                                                                                    6 HS        ? học sinh     Lớp 3B Nhìn vào sơ đồ đoạn thẳng trên ta thấy: Lớp 3A có 38 học sinh. Lớp 3B  có ít hơn 6 học sinh. Bài toán yêu cầu tìm số học sinh cả hai lớp. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải bài toán: Muốn tìm số  học sinh của  cả hai lớp ta làm như thế nào? (Lấy số học sinh của lớp 3A cộng với số học   sinh của lớp 3B). Khi đã biết số  học sinh của lớp 3A rồi ta phải đi tìm gì? ( Ta phải tìm  được số học sinh của lớp 3B). Muốn tìm số học sinh của lớp 3B ta  làm như thế nào? (Lấy số học sinh  của lớp 3A trừ đi 6). Có thể ghi tắt quá trình suy nghĩ trên bằng sơ đồ sau:                                                          Cả hai lớp                                                       Lớp 3A + Lớp 3B                                                           Lớp 3A ­ 6 Qua phân tích bài toán, học sinh trình bày được bài giải như sau: Bài giải: Số học sinh lớp 3B là: 38 – 6 = 32 (học sinh) Cả hai lớp có số học sinh là: 38 + 32 = 70 (học sinh)                                                          Đáp số: 70 học sinh        Lưu ý: Đây là bài toán liên quan đến dạng toán về ít hơn.  Ví dụ  2: (SGK/Tr.103)  Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l  dầu,  buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi bán được bao nhiêu   lít dầu? GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 11
  12. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Học sinh đọc bài toán, phân tích và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:                            432l               Buổi sáng:                                                                                                     ? l               Buổi chiều: + Muốn biết cả hai buổi bán được bao nhiêu lít dầu trước tiên em phải  tìm gì? (Tìm số dầu bán trong buổi chiều). + Muốn tìm số  dầu bán trong buổi chiều ta làm như  thế  nào? (Lấy số   dầu bán trong buổi sáng nhân 2). Bài giải: Buổi chiều bán được số lít dầu là: 432 x 2 = 864 (l) Cả hai buổi bán được số lít dầu là: 432 +864 = 1296 (l)                 Đáp số: 1296l dầu Lưu ý: Đây là bài toán liên quan đến gấp một số  lên nhiều lần.(Muốn   gấp một số lên nhiều lần ta lấy số đó nhân với số lần).  Ví dụ 3: (SGK/Tr.76) Minh có một quyển truyện dày 132 trang, Minh đã  1 đọc được   quyển truyện đó. Hỏi Minh còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì  4 xong quyển truyện? Hướng dẫn học sinh đọc bài toán, phân tích và tóm tắt bằng sơ đồ:                                                        132 trang                                                                                                                               Đã đọc                ? trang + Muốn biết Minh còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì trước tiên  ta  phải làm gì? (Tìm xem Minh đã đọc được bao nhiêu trang truyện). + Muốn tìm số trang Minh đã đọc ta lấy số trang truyện chia cho 4. Bài giải:                                    Minh đã đọc được số trang truyện là:                                                 132 : 4 = 33 (trang)                                   Minh còn phải đọc số trang truyện nữa là:                                                132 – 33 = 99 (trang)                                                           Đáp số: 99 trang GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 12
  13. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Lưu ý: Đây là bài toán liên quan đến tìm một phần mấy của một số.  (Muốn tìm một phần mấy của một số ta lấy số đó chia cho số phần).   Như vậy sử dụng sơ đồ  đoạn thẳng vào giải toán là phương pháp đem  lại hiệu quả cao. Nhiều bài toán phức tạp nhưng sau khi hướng dẫn học sinh   phân tích đề bài và tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ  đoạn thẳng thì bài toán   lại trở thành đơn giản. Dùng sơ đồ đoạn thẳng vào giải toán giúp học sinh có  khả năng phân tích, tổng hợp, phát triển tư duy và sáng tạo. 2. Hướng dẫn giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị Để  làm tốt các bài toán liên quan đến rút về  đơn vị  thì học sinh phải   nắm được cách giải bài toán. Đầu tiên phải đi tìm giá trị của một đơn vị (thực   hiện bằng phép tính chia). Trong bài toán bao giờ cũng có hai đơn vị đo là hai  danh số. Cần cho học sinh xác định được một đơn vị  cần tìm trong bài toán  chính là đơn vị lớn bao hàm đơn vị còn lại. Ví dụ: Có 35l  mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật  ong? Đơn vị đo trong bài là lít và can thì đơn vị can lớn hơn đơn vị lít vì một   can thường chứa nhiều lít. Vì vậy một đơn vị cần tìm là một can. Hay: Có 24 viên thuốc đựng đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc có bao nhiêu   viên thuốc? Ta thấy đơn vị  vỉ  lớn hơn đơn vị  viên thuốc vì một vỉ  thuốc thường  chứa nhiều viên thuốc nên một đơn vị cần tìm là một vỉ. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị có hai dạng: Dạng 1:  + Tìm giá trị một đơn vị (Thực hiện tính chia). + Tìm giá trị của nhiều đơn vị  (Lấy giá trị của một đơn vị  nhân với số  đơn vị cần tìm). Ví dụ: (SGK/Tr.129) Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên  gạch. Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch? Tóm tắt: Bài giải: 6 phòng: 2550 viên gạch Một phòng lát hết số viên gạch là:   7 phòng: … viên gạch? 2550 : 6 = 425 (viên gạch) 7 phòng cần lát số viên gạch là: 425 x 7 = 2975 (viên gạch)                        Đáp số: 2975 (viên gạch) Dạng 2:  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 13
  14. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu + Tìm giá trị một đơn vị (Thực hiện tính chia). + Tìm số đơn vị (Lấy giá trị của số  đơn vị  cần tìm chia cho giá trị  của  một đơn vị). Ví dụ: (SGK/Tr.167) Có 48 cái đĩa xếp đều vào 8 hộp. Hỏi có 30 cái đĩa  thì xếp được vào mấy hộp như thế? Tóm tắt: Bài giải:        48 cái đĩa: 8 hộp Một hộp xếp được số đĩa là:  30 cái đĩa: … hộp? 48 : 8 = 6 (cái đĩa) 30 cái đĩa xếp được số hộp là: 30 : 6 = 5 (hộp)           Đáp số: 5 hộp Khi giải bài toán dạng này, đối với học sinh  khó khăn về  học tập, các  em hay nhầm lẫn lời giải như (Một cái đĩa xếp được số hộp là) và nhầm cách  ghi đơn vị  của bài toán là hộp với cái đĩa. Cần hướng dẫn cho các em cách  viết lời giải tỉ  mỉ: Lời giải thứ nhất tìm một hộp thì trả  lời cho đơn vị  hộp,   lời giải thứ 2 dựa vào câu hỏi trong bài toán. Còn tìm số đĩa thì  đơn vị là “cái  đĩa”, tìm số hộp đơn vị là “hộp”. Đơn vị của mỗi phép tính thường đứng ngay  sau chữ “số” trong mỗi câu lời giải.  3. Hướng dẫn giải các bài toán về hình học Đối với những bài toán hình học, để  giúp các em giải tốt, trước hết   phải hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm đặc điểm hình học. Nắm chắc   cách tính chu vi và diện tích hình vuông và hình chữ nhật. Dựa vào đề bài học   sinh biết được các yếu tố đã cho có liên quan trong quá trình giải bài, như vậy   sẽ rèn cho các em kĩ năng và tư duy tốt. Khi giải bài toán về  hình học thì trước hết tôi giúp các em xác định  được bài đó liên quan đến hình nào, từ đó dựa vào cách tính để thực hiện tính.  Nếu bài toán chưa cho các yếu tố  cụ thể thì phải đi tìm lần lượt các yếu tố  hình học đó. Chẳng hạn: (Để tính được diện tích hình chữ nhật thì phải biết   chiều dài và chiều rộng, nếu chưa biết yếu tố nào thì trước tiên phải đi tìm   yếu tố đó...) Có những bài toán yêu cầu tìm yếu tố mà chưa có cách tính để  tính thì  phải hướng dẫn các em lập công thức tính dựa trên công thức đã có sẵn. Ví dụ: Tìm cạnh hình vuông khi biết chu vi hình vuông Ví dụ  1: (SGK/Tr.166)  Một hình chữ  nhật có chiều dài 12cm, chiều  1 rộng bằng    chiều dài. Tính diện tích hình đó. 3 GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 14
  15. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Muốn giải bài toán này,  tôi giúp học sinh hiểu được yêu cầu của bài  toán. Hướng giải của bài toán, bước đầu dựa vào cách tính diện tích của hình   chữ nhật: Diện tích = chiều dài x chiều rộng. + Muốn tìm được diện tích thì trước tiên ta phải tìm gì? ( Tìm chiều   rộng của hình chữ nhật).  + Muốn tính chiều rộng của hình chữ  nhật ta làm như  thế  nào? (Lấy   chiều dài chia 3). Bài giải: Chiều rộng hình chữ nhật là: 12 : 3 = 4 (cm) Diện tích của hình chữ nhật là: 12 x 4 = 48 (cm2)                                                            Đáp số: 48cm2  Đây là bài toán cần khai thác một yếu tố  chưa biết “chiều rộng” dựa  trên mối quan hệ của chiều dài và chiều rộng, sau đó đưa vào công thức tính   để  giải bài toán. Bài toán này thường gặp nhất , tôi hướng dẫn học sinh dựa  vào công thức tính để  biết được yếu tố  cần tìm trước tiên là gì để  lập kế  hoạch giải.   Ví dụ  2: (SKG/Tr.174) Một hình chữ  nhật và một hình vuông có cùng  chu vi. Biết hình chữ  nhật có chiều dài 60m, chiều rộng 40m. Tính độ  dài   cạnh hình vuông. Muốn giải bài toán này cần phân tích cho học sinh hiểu dữ  kiện bài  toán “Một hình chữ nhật và một hình vuông có cùng chu vi ” tức là hai hình có  chu vi bằng nhau. Muốn tìm độ dài cạnh hình vuông phải dựa vào chu vi hình   vuông mà chu vi hình vuông chính bằng chu vi hình chữ  nhật. Vậy việc cần  làm trước tiên là tính chu vi hình chữ nhật. Bài giải: Chu vi hình chữ nhật là: (60 + 40) x 2 = 200 (m) Độ dài cạnh hình vuông là: 200 : 4 = 50 (m)                                                            Đáp số: 50m Đây là bài toán yêu cầu tìm yếu tố  mà chưa có sẵn cách tính. Để  tính  cạnh hình vuông thì phải dựa vào công thức tính chu vi hình vuông. Ta có: Chu vi hình vuông = cạnh x 4  Cạnh hình vuông = Chu vi : 4 GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 15
  16. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu 4. Một số bài toán dành cho học sinh năng khiếu Đối với những học sinh đã giải được hoặc giải thành thạo các bài toán  cơ  bản, thì việc đưa ra hệ  thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần   thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa  khỏi tư  duy cụ  thể  mang tính chất ghi nhớ  và áp dụng một cách máy móc   trong công thức. Qua đó phát triển trí thông minh cho học sinh. Dưới đây là các dạng bài nâng cao mà tôi đã thực hiện trong các tiết   dạy để nâng cao tính hiểu biết của các em đồng thời bồi dưỡng học sinh năng  khiếu. 1 Ví dụ 1: Một cuộn vải dài 60m, buổi sáng cửa hàng bán được   cuộn  4 1 vải, buổi chiều cửa hàng bán   chỗ còn lại và bán thêm 4m. Hỏi buổi chiều   3 bán được bao nhiêu mét vải? Hướng dẫn học sinh phân tích, giải bài toán trên cơ sở của bài toán tìm  một phần mấy của một số.   Theo đầu bài ta có sơ đồ:                                                                60m    Cuộn vải:                                                 4m                     Bán buổi sáng            ? m  Bài giải: Buổi sáng bán được số mét vải là: 60 : 4 = 15 (m) Số mét vải còn lại sau khi bán buổi sáng là: 60 – 15 = 45 (m) Buổi chiều bán được số mét vải là: 45 : 3 + 4 = 19 (m)          Đáp số: 19m vải Ví dụ 2: Có 128 lít dầu được chia đều vào 4 thùng. Nếu thêm vào mỗi  thùng 6 lít dầu thì 2 thùng có bao nhiêu lít dầu? Bài giải: Mỗi thùng có số lít dầu là: 128 : 4 = 32(l) Sau khi thêm 6 lít, mỗi thùng có số lít là: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 16
  17. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu 32 + 6 = 38 (l) Hai thùng có số lít là: 38 x 2 = 76 (l)                                                           Đáp số: 76l dầu Đây là bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Ví dụ  3: Tính diện tích một hình chữ  nhật có chiều dài gấp đôi chiều  rộng, biết rằng nếu giảm chiều dài đi 6cm thì diện tích hình chữ  nhật sẽ  giảm đi 48cm2. Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán và vẽ hình minh họa:                                                                      6cm                                                                                                                                            48cm2                                                                                                    Bài giải: Chiều rộng của hình chữ nhật là: 48 : 6 = 8 (cm) Chiều dài của hình chữ nhật là: 8 x 2 = 16 (cm) Diện tích của hình chữ nhật là: 16 x 8 = 128 (cm2)            Đáp số: 128cm2 Qua bài toán, bồi dưỡng cho học sinh khả năng tư  duy trong toán học,  cách nhìn nhận vấn đề  theo các góc độ  khác nhau. Chiều rộng của hình chữ  nhật ban đầu chính là chiều dài của hình chữ nhật bị giảm đi.  Tóm lại: Trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải thật sự  linh  hoạt, sáng tạo, tránh gò ép theo khuôn mẫu áp đặt, phải phát huy được tính   tích cực sáng tạo của học sinh, phải biết động viên học sinh tích cực, chủ  động trong học tập bộ môn Toán. Trong việc dạy học môn toán nói chung, học giải toán   có lời văn  nói  riêng tôi phải tìm hiểu để nắm được đặc điểm, đối tượng từng học sinh cũng   như khả năng nhận thức của các em. Cần có kế hoạch và phương pháp giảng  dạy theo từng đối tượng khác nhau. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 17
  18. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Tôi  phải đầu tư  nghiên cứu cho mỗi bài giảng. Nhằm phát huy khả  năng giải toán cho học sinh, tôi hướng dẫn cho học sinh biết giải bài toán theo  nhiều cách khác nhau. (Nếu bài toán có nhiều cách giải). Để  thực hiện các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải chủ  động,  sáng tạo, lập kế  hoạch dạy học phù hợp cho các tiết học, đặc biệt là đối  tượng học sinh trong lớp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy h ọc phải đầy đủ.  Giáo viên phải chuẩn bị bài và sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả. Bên cạnh  đó, giáo viên phải thật sự  kiên trì, chịu khó, tôn trọng học sinh, động viên,  tuyên dương kịp thời những tiến bộ của các em, từ  đó các em sẽ  không mặc  cảm, tự ti và cố gắng hơn trong học tập. 3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp  tôi đã thực hiện trong đề  tài có mối quan hệ  chặt  chẽ với nhau, chúng là cầu nối tạo nên thành công trong các phương pháp giải   toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số. Mỗi giải pháp, biện pháp  trong đề  tài tác động qua lại và hỗ  trợ  với nhau nhằm nâng cao chất lượng   cho học sinh dân tộc thiểu số tại lớp tôi chủ nhiệm.  3.4. Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  đề  nghiên cứu,  phạm vi và hiệu quả ứng dụng ­ Kết quả khảo nghiệm:  Sau một thời gian kiên trì tìm ra những giải pháp trong quá trình rèn kĩ năng  giải toán có lời văn cho học sinh dân tộc thiểu số đã nâng cao chất lượng môn  Toán cho từng đối tượng học sinh lớp tôi giảng dạy. Kết quả của việc rèn kĩ   năng giải toán tốt không chỉ góp phần nâng cao chất lượng môn Toán, nó còn  tác động đến các môn học khác. Thực hiện các biện pháp đã nâng cao được kĩ  năng giải toán của học sinh dân tộc thiểu số, các em biết cách phân tích đề  toán, biết đâu là “giả  thiết” đâu là “kết luận”, tất cả  các đối tượng học sinh   trong lớp đều biết cách trình bày bài giải, nhiều em đặt được câu lời giải sáng   tạo phù hợp với yêu cầu cần tìm của bài toán. Đặc biệt các hình thức học   nhóm, thảo luận tìm ra cách giải hoặc các hình thức học dưới dạng tổ  chức   trò chơi được học sinh hưởng ứng và tham gia rất tích cực.  Nắm được vai trò quan trọng của môn Toán với học sinh Tiểu học và   phối hợp khéo léo các biện pháp trên vào quá trình rèn kĩ năng giải toán có lời  văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu s ố. Qua một thời gian nghiên cứu, đề ra  một số  biện pháp giải toán có lời văn ở  lớp 3, tôi thấy các em có nhiều tiến  bộ. Các em yêu thích môn toán hơn và say sưa với những bài toán có lời văn.  Học sinh lớp tôi không những biết cách đặt câu lời giải hay, viết phép tính   đúng mà còn biết cách trình bày bài giải đúng, đẹp.  Qua kiểm tra chất lượng cuối học kì I, tôi thu được kết quả như sau: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 18
  19. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu TSHS N DT NDT Giải thành  Kĩ năng giải  Chưa nắm được ữ thạo chậm cách giải 31 16 31 16 19 em = 61,3% 9 em = 29,0% 3 em = 9,7%  Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự  giác của học sinh, sự  quan tâm nhắc nhở  của cha mẹ các em, bên cạnh đó là  các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên. Việc giải toán tốt đã có tác động tích cực đến kết quả học tập môn Toán của   lớp. Đó là nhờ  sự  kiên trì rèn luyện của cả  cô và trò, áp dụng các biện pháp   giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số nên hàng tháng kĩ năng  giải toán của các em có sự  tiến bộ  và thu được thành công rõ rệt. Nhìn vào  bảng kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh giải toán thành thạo tăng   61,3%, số  học sinh chưa nắm được cách giải giảm còn  9,7% so với kì kiểm  tra khảo sát đầu năm. Điều đó cho thấy những biện pháp dạy học giải toán có   lời văn của tôi đã có kết quả  rất khả  quan.  Chính kết quả  đó đã động viên,  kích lệ cả cô và trò tiếp tục rèn luyện kĩ năng giải toán trong học kì II này để  kết quả môn Toán của các em cao hơn nữa. Với kết quả này, chắc chắn khi  các em học lên các lớp trên, các em sẽ  vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với   những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn. ­  Giá trị  khoa học:  Với mục tiêu phát hiện những yếu kém trong việc học  Toán nói chung và rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc   thiểu số  nói riêng, khắc phục những khó khăn trong giảng dạy, từng bước   nâng cao chất lượng dạy Toán cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số. Sau khi  nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trên cho thấy chất lượng dạy Toán cho  học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 đã được nâng cao dần.   Nghiên cứu và áp dụng thực tế rèn kĩ năng giải toán hàng ngày có vai trò vô  cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy – học  môn Toán cho học  sinh dân tộc thiểu số lớp 3 nói riêng và học sinh bậc Tiểu học nói chung. Bên  cạnh đó nâng cao khả năng tư duy, tìm tòi và tính kiên trì cho học sinh dân tộc  thiểu số. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm phát triển tư duy  trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện   tốt phương pháp suy luận lôgic cho học sinh. Bên cạnh đó đây là dạng toán  rất gần gũi với đời sống thực tế. Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một  cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm   chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 19
  20. Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị   Sáu Trong quá trình giảng dạy  muốn  nâng cao chất lượng giải toán giáo  viên cần chú ý:  + Để giúp học sinh dân tộc thiểu số  giải toán có lời văn tốt, trước hết  giáo viên phải tích luỹ  cho học sinh đầy đủ, hệ  thống kiến thức cơ  bản của  toán học ngay từ ban đầu. + Giáo viên phải giúp các em duy trì nề nếp học tập, động viên khuyến   khích kịp thời, tạo không khí học tập sôi nổi. Thường xuyên kiểm tra, động  viên học sinh, có kế  hoạch giúp đỡ  cụ  thể  với những em giải toán còn  khó  khăn, tạo điều kiện cho các em có ý thức vươn lên. + Giáo viên phải nắm chắc được những yêu cầu của bộ  môn giảng   dạy, luôn chủ động trong tiết học, muốn vậy cô phải chuẩn bị chu đáo, đặt ra  được các tình huống mà học sinh mắc phải để  có kế  hoạch hướng dẫn sửa   sai ngay.  + Tạo mối quan hệ gần gũi thầy trò, tôn trọng ý kiến của các em. Trong  mỗi bài dạy người thầy luôn tạo không khí thoải mái, gợi mở nhẹ nhàng, lời  nói cử chỉ giản dị, diễn cảm, phù hợp với nội dung. + Phân hóa được đối tượng học sinh để có kế hoạch cụ thể trong việc  bồi dưỡng và phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. + Giáo viên thường xuyên tiến hành luyện tập,  ôn luyện  các bài toán  cho học sinh để có hệ  thống kiến thức khoa học, logic. Trong các tiết luyện   tập có những dạng bài khác nhau, giáo viên luôn để học sinh tự hệ thống hoá  lí thuyết, công thức. Giáo viên chỉ  là người hướng dẫn, khích lệ, động viên  các em có ý thức say mê học tập và tự giác giải bài tập. + Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần  chú ý nhiều đến kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết trong môn Tiếng   Việt.  Luyện kĩ năng hỏi – đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông hơn để các em  dễ dàng đặt câu lời giải cho bài toán. + Giáo viên phải thường xuyên tự  học, tự  rèn luyện, nghiên cứu giúp  nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm về dạy cho học sinh cách  giải toán nói riêng và dạy học nói chung. Muốn thế, người giáo viên phải   giành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tòi trong các tài liệu có liên quan,   tham gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điều quan  trọng nhất trong dạy học là: Lòng yêu nghề và trình độ  chuyên môn của mỗi   giáo viên. Kết quả của nội dung nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả của đề tài trong  việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số.  Qua  quá trình vận dụng các biện pháp nêu trên một cách linh hoạt sáng tạo cùng  với sự  kiên trì, chịu khó trong việc dạy Toán cho học sinh. Trong  thời gian  qua, lớp tôi chủ nhiệm đã đạt được những thành tích đáng kể. Đầu năm học,  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2