intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non

Chia sẻ: Phượng Hoa | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

89
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích chọn đề tài này nhằm đưa ra các phương pháp, biện pháp cụ thể để cho giáo viên giúp trẻ hình thành cho trẻ có kỹ năng sống, tự phục vụ cho bản thân ngay từ lúc nhỏ. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non

  1. MỤC LỤC A. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………… 02 2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………..  03 3. Nhiệm vụ nghiên  cứu…………………………………………………………..03 4. Đối tượng nghiên  cứu…………………………..................................................03 5.Phương pháp nghiên  cứu………………………………………………………..04 6. Phạm vi nghiên  cứu…………………………………………………………….04 B. Phần nội dung: ………………………………………………………………..04 Chương 1. Cơ sở lý luận …………………………………………………….05,  06 Chương 2. Thực trạng của vấn  đề…………………………………………........07 2.1. Thuận  lợi……………………………………………………………………...07 2.1. Khó khăn …………………………………………………………………07, 08 Chương 3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn  đề………………………..07 1
  2. Biện pháp 1: Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi giao tiếp ………………. 09,  10 Biện pháp 2. Thường xuyên kiểm tra, đánh  giá………………………………......10 Biện   pháp   3:   Phối   kết   hợp   với   gia   đình,   cộng   đồng   để   giáo   dục  trẻ:.................11, 12 Biện   pháp   5.Giúp   trẻ   luôn   cảm   thấy   tự   tin   khi   tiếp   nhận   các   thử   thách  mới:..........13 Biệnpháp 6. Thông qua các họat động vui chơi:.........…………………………… 13 Biện   pháp   7.Thông   qua   các   hoạt   động   lễ   hội: ………………….............................14 Biện pháp 8. Cho trẻ được tư do và hành động theo suy nghĩ của trẻ:…………… 14 Biện pháp 9.Luôn thay đổi môi trưòng chơi cho trẻ ...................................……… 15 Chương 4: Hiệu quả của sáng kiến kinh  nghiệm………………………………14 C. Kết luận, đề xuất và kiến  nghị……………………………………………….15 D. Phụ  lục…………………………………………………………………...........20 A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
  3. 1. Lý do chọn đề tài Sự  nghiệp giáo dục có một vị  trí quan trọng trong chiến lược phát triển   đất nước về  trước mắt cũng như  lâu dài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VIII của Đảng đã xác định “cùng với khoa học và công nghệ, Giáo dục và Đào   tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng   nhân tài”. Nghị  quyết Đại hội đại biểu lần thứ  IX của Đảng đã nhấn mạnh:   “Phát triển Giáo dục ­ Đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy  sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn nhân   lực, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững”.  Mục tiêu của giáo dục là đào tạo, xây dựng những thế hệ con người mới  có đủ tài, đức, bản lĩnh để đưa đất nước tiến lên đuổi kịp trào lưu phát triển của   thế  giới, hình thành những công dân có ích cho xã hội; vì vậy Giáo dục là sự  nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Các cấp Đảng uy, chính quy ̉ ền,  các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân đều  có trách nhiệm tích cực góp phần vào sự  nghiệp phát triển Giáo dục ­ Đào tạo   của đất nước.  Trong hệ  thống Giáo dục quốc dân, Giáo dục Mầm non chiếm một vị trí   vô cùng quan trọng, đây là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là   nền tảng của ngành Giáo dục & Đào tạo; Bác Hồ  kính yêu đã từng nói: “Giáo  dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”.  Giai đoạn phát triển của trẻ  ở lứa tuổi mầm non có tính quyết định đến   thể  lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ  của trẻ  trong suốt cả  cuộc đời.   Tuổi thơ  ấu của con người là một giai đoạn tràn đầy hạnh phúc trong vòng tay  của ông bà, cha mẹ. Song do sự  phát triển của xã hội nên trẻ  đã được gởi tới   trường Mầm non để  học tập nhằm giúp cha mẹ, các bậc phụ  huynh làm việc,   tham gia vào lao động xã hội. Điều này cho thấy thời gian sống  ở  các trường   3
  4. của trẻ  rất lâu, bằng 2/3 số  thời gian trẻ thức trong ngày. Làm thế  nào để  giúp  trẻ sống trong một tập thể đông đúc có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn   hồn nhiên, mạnh dạn, linh hoạt như ở gia đình, đó là nhiệm vụ rất khó khăn của  một giáo viên phụ trách nhóm lớp. Thông thường giáo viên tuy đã đi học ở trường Sư phạm về sự cần thiết   phải xây dựng, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ  phù hợp với việc phát  triển tâm sinh lý lứa tuổi nhưng trong thực tế  hầu hết giáo viên hay chú trọng   tới việc dạy trẻ những hoạt động học mà không chú ý đến việc rèn nề nếp, thói  quen tự phục vụ cho trẻ. Thực tế hiện nay cho thấy, trẻ em Việt Nam vẫn còn   thiếu các kỹ năng sống cần thiết. Vì vậy, việc trang bị văn hoá và kỹ năng sống   đó đến lúc cần song hành với nhau. Đây là vấn đề  hết sức quan trọng đối với   mọi lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi mầm non hiện nay. Làm thế  nào để  trẻ  biết   cách đối phó với những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Biết cách tự  bảo  vệ bản thân khi không có cha mẹ, người lớn bên cạnh. Với nhiệm là người can bô quan ly phu trach nganh hoc m ́ ̣ ̉ ́ ̣ ́ ̀ ̣ ầm non, tôi luôn trăn  trở, suy nghĩ trước các vấn đề cấp bách của xã hội. Tôi thiết nghĩ mình nên làm  một việc gì đó cho những mầm xanh tương lai của đất nước. Chính vì vậy tôi   đã chọn đề tài “ Một số  biện pháp giúp giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho   trẻ  trong trường mầm non”   nhằm  đề  ra một số  biện pháp cụ  thể, yêu cầu  giáo viên thực hiện để  giúp các cháu có được những kỹ  năng sống cần thiết   đúng với lứa tuổi mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích tôi chọn đề tài này nhằm đưa ra các phương pháp, biện pháp cụ  thể để cho giáo viên giúp trẻ hình thành cho trẻ có kỹ năng sống, tự phục vụ cho   bản thân ngay từ lúc nhỏ 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
  5. Đối với nhiệm vụ này tôi muốn nói về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho   trẻ  ngay từ  khi trẻ  mới bước vào trường thông qua việc quan sát theo dõi quá  trình thực hiện trẻ, từ đó hướng dẫn cho trẻ thực hiện được tốt hơn. 4. Đối  tượng nghiên cứu  Một số  biện pháp giúp giáo viên rèn kỹ  năng sống cho trẻ  trong trường   mầm non 5. Phương pháp nghiên cứu Khi lựa chọn đề tài này tôi đã lựa chọn phương pháp:   ­ Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích , tổng hợp  ­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn  6. Phạm vi nghiên cứu Giáo dục kỹ  năng sống cho tất cả  học sinh Trường Mầm non Hoạ  Mi   trong năm  học 2013 – 2014        5
  6. B. PHẦN NỘI DUNG       Chương 1.  Cơ sở lý luận Thạc sỹ  ­ chuyên viên tâm lý Phạm Thị  Thúy đã dành nhiều thời gian để  nghiên cứu hành vi của trẻ, nhận định “Trẻ sẽ tự định hình nhân cách một cách   tự nhiên, tuy nhiên, nếu được tham gia những khóa học về kỹ năng sống, trẻ sẽ   tự lập, tự tin hơn và dĩ nhiên, bé sẽ hòa nhập tốt hơn”.   Vậy kỹ năng sống là gì ? Kỹ năng sống chính là những kỹ năng tinh thần  hay những kỹ năng tâm lý ­ xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong  cuộc sống. Kỹ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng  lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách  thức cũng như nhiều cơ hội trong thực tại.  Hay nói cách khác : Kỹ  năng sống là  những kỹ  năng cần có cho hành vi   lành mạnh cho phép bạn đối   mặt với những  thách thức  của cuộc sống hằng  ngày.          Cuộc sống bây giờ phức tạp, có rất nhiều sự việc đã xảy ra cho trẻ em ở  lứa tuổi mầm non như  việc cô giáo mầm non ép trẻ ăn một cách tàn bạo, hay cô  giáo đánh trẻ em khi các cháu  không nghe lời. Thực tế hiện nay cho thấy chúng  ta phải thừa nhận một điều là trẻ con ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát hơn,  lém lĩnh hơn. Nhưng khi cháu vào lớp học thì các cháu không dám nói lên những  điều trẻ thích, không dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người   6
  7. lớn theo suy nghĩ của mình. Vì thế, nếu không rèn kỹ năng sống cho trẻ sóm thì  trẻ sẽ  không mạnh dạn, tự tin đối mặt với những thử thách của cuộc sống sau   này. Chính vì vậy không phải đợi trẻ  em lớn lên mới cho  tiếp cận mà sớm cho  trải nghiệm, sẽ  tốt hơn. Có thể  trải nghiệm dưới những hình thức này, hình  thức khác. Và một trong những con đường dạy các em trải nghiệm là qua giáo  dục. Hiện tại, giáo dục của chúng ta tập trung nhiều vào giảng dạy văn hoá, mà  chưa chú trọng đến nhiều những khía cạnh hoạt động tinh thần.   Một điều rất cần hiện nay là giáo dục cho học sinh một nền tảng sâu hơn   về giá trị sống và kỹ năng sống. Giáo dục về giá trị sống để dạy cho các em biết  thế nào là tôn trọng, yêu thương, tự do…Ý thức được những giá trị căn bản này,  các em sẽ trang bị nhận thức và bản lĩnh tốt hơn. Cần dạy cho các em nhiều hơn   về các kỹ năng sống : Kỹ năng tư duy, kỹ năng giao tiếp, lắng nghe, biết  xử lý tình huống,  giúp  trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới… Từ  nhận thức sâu sắc đó, mà tôi luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo   dục trẻ    của giáo viên trong trường. Từ  đó xây dựng, bồi dưỡng giáo viên có  phẩm chất đạo đức tốt, chất lượng chuyên môn cao, có lòng yêu nghề mến trẻ,   tận tụy say sưa với công việc, coi trường như nhà, quy tr ́ ẻ như con để rèn luyện  cho trẻ có những  kỹ năng sống ngay từ lứa tuổi mầm non . 7
  8. Chương 2. Thực trạng của vấn đề : 2.1. Thuận lợi ­  Bộ giáo dục đã chỉ đạo tăng cường giáo dục đạo đức, rèn kỹ năng sống  cho học sinh . Đó là một trong những nhiệm vụ chung của giáo dục mầm non,   giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp trong năm  học 2010­2011.  ( Chỉ thị số 3399/CT­BGDĐT)         ­ Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe, yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác.         ­ Trình độ đào tạo của giáo viên đạt chuẩn so với yêu cầu hiện nay.  ­  Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như đề  ra các hoạt động nhằm rèn kỹ năng sống cho trẻ ­  Giáo viên trong lớp luôn có sự  thống nhất phối hợp chặt chẽ với nhau   trong công tác chăm sóc giáo dục các cháu . ­  Một số phụ huynh luôn quan tâm và kết hợp với cô giáo trong việc giáo   dục các cháu . 8
  9.  2.2 Khó khăn :   Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có điều kiện tiếp xúc với  nhiều   cái   mới   thông   qua   các   phương   tiện   truyền   thông   như:   Phim   ảnh,  Internet… những giải pháp mà ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai nhằm giáo   dục kỹ năng sống cho học sinh chưa đáp ứng được nhu cầu .  ­ Đa số  giáo viên trẻ, mới ra trường nên chưa có kinh nghiệm chăm sóc,   giáo dục các cháu một cách hợp lý. Chưa biết cách đưa các nội dung giáo dục kỹ  năng sống vào các hoạt động cho trẻ một cách hiệu quả.  ­ Giáo viên cũng chưa giúp trẻ hiểu được khi gặp khó khăn thì chúng cần  phải có sự giúp đỡ của người khác để vượt qua.  ­ Đa số  học sinh là người dân tộc thiểu số  và một số  trẻ  mới đi học lần   đầu tiên nên có đặc điểm tâm lý rụt rè , nhút nhát, không mạnh dạn , tự tin khi  giao tiếp với người lạ.           ­ Để nắm được tình hình của các cháu về kỹ năng sống như thế nào, đầu   năm tôi triển khai cho giáo viên tiến hành khảo sát các cháu để nắm được tình   hình thực tế nhằm đưa ra những biện pháp kịp thời. Kết quả như sau: 10% thực hiện tốt 15% trẻ thực hiện khá 20% trẻ thực hiện ở mức trung bình 55% trẻ yếu kém chưa thực hiện được.      Đây là một kết quả  khảo sát quá thấp so với yêu cầu đặt ra. Để  giáo  dục kỹ năng sống cho các cháu đạt hiệu quả, tôi  không chỉ  chú trọng vào giáo  dục các kiến thức khoa học mà cần thực hiện giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  một cách hài hòa, tự nhiên với nhiều phương pháp đa dạng, đủ  để  các cháu có  thể  ứng xử phù hợp với những vấn đề  trong học tập , sinh hoạt và trong cuộc  sống hằng ngày . 9
  10. Chương   3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề : Để  thực hiện tốt nhiệm vụ của giáo viên mầm non và thực hiện lời dạy   của Bác Hồ  đã để  lại: Dạy mẫu giáo là thay mẹ  dạy trẻ, Muốn làm được thì  trước hết phải thương yêu trẻ  , các cháu nhỏ  hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó  mới nuôi dạy được các cháu, dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu mới trở thành  người tốt. Như chúng ta đã biết, trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ, ở  đó trẻ  được học, được chơi, được chăm sóc yêu thương bằng tình yêu của các   cô giáo như người mẹ hiền. Tuy nhiên, không phải cháu nào cũng như nhau: có  cháu nhút nhát, có cháu quá hiếu động, có cháu nói ít, có cháu nói nhiều, mỗi   10
  11. cháu mỗi tính ,mỗi nết . Song để  trẻ  có thể  học tập và vui chơi một cách có  hiệu quả nhất khi chúng thực sự  hứng thú vào hoạt động. Trẻ  cần được tự  do  lựa chọn hoạt động mà chúng thích. Để  làm được việc này tôi thiết nghĩ rằng  trước hết trẻ cần có niềm tin ở chính bản thân mình, vào giáo viên, vào bạn bè  và vào môi trường xung quanh để từ đó hình thành nên những kỹ năng sống cần   thiết để trẻ  cùng hòa nhập với môi trường xã hội, Và để  thực hiện được điều   này tôi đã đề  ra những biện pháp để  giúp giáo viên  rèn cho trẻ  những kĩ năng  sống phù hợp cho trẻ. Biện pháp 1: Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi giao tiếp   Hàng tháng trong những buổi họp chuyên môn tôi thường đưa ra những   việc chưa thực hiện được để các cô cùng thảo luận. Tôi hướng dẫn và gợi ý các   cô nên gần gũi trò chuyện cùng trẻ, đừng rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại  phải tôn trọng cháu không xem thường những thắc mắc những câu hỏi của cháu.  Và không chỉ  gợi ý cho các cô bằng lời, tôi đã hành động để  các cô nắm  vững cách : thường xuyên vào lớp hoặc những giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ  vui  chơi, nói chuyện với trẻ  bình thường và gần gũi với các cháu, đặc biệt là các  cháu lớp 3 tuổi ..; Như cháu tên gì? Cháu năm nay bao nhiêu tuổi?  Sử dụng những câu chuyện đơn giản bằng cách gợi cho cháu trả lời bằng   những ngôn ngữ  bình thường, dần dần các cháu hết bị  gò bó, không còn nhút  nhát nữa và còn thấy rằng “ cô Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng nói chuyện cũng   rất giống mẹ nói chuyện vơí con”.   Tôi thường xuyên nhắc nhở  các cô giáo nên hạn chế  phân tích những   điều chưa tốt một cá nhân nào đó trước lớp mà chỉ nên giáo dục cháu trên những  nhân vật trong truyện... Và để giúp bé mạnh dạn cô mời bé đứng lên – xác nhận   những gì cha mẹ kể cho cô nghe và động viên bé kể  những việc làm tốt ở nhà.   Mục đích của cô sẽ đạt rất nhanh, vì bé sẽ rất tự tin những điều cô nói về mình. 11
  12. Đối với trẻ chậm phát triển về ngôn ngữ, chưa biết diễn đạt nhu cầu của   mình qua lời nói, cô hỏi trẻ chỉ biết nhắc lại câu hỏi của cô chứ  không biết trả  lời . Tôi thường xuyên nhắc nhở các giáo viên trong lớp luôn trò chuyện và hỏi  trẻ   ở  mọi lúc mọi nơi . Tập cho trẻ  nhắc lại câu trả  lời theo cô. Dần dần trẻ  nhớ được tên cô, tên lớp và và biết cách trả lời một số câu hỏi như : Bố tên gì ?   mẹ tên gì ? bố làm ở đâu?  Biện pháp 2. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá Đây là một trong những việc làm thường xuyên của người cán bộ quản lý.  Hằng ngày, tôi thường xuyên kiểm tra đột xuất các lớp trong các giờ sinh hoạt  và hoạt động  của các lớp xem các kỹ năng sống của các cháu như thế nào.  Thông qua  đó, tôi nắm bắt được những mặt mạnh, mặt hạn chế của từng lớp  để có biện pháp thích hợp hơn giúp cho giáo viên có biện pháp chăm sóc, giáo  dục cháu phù hợp. Khi kiểm tra, đánh giá nếu đạt yêu cầu hay chưa đạt yêu  cầu , tôi góp ý và lên kế hoạch kiểm tra lại ngay hoạt động đó và cùng giáo viên  hướng dẫn cho các cháu. Qua công tác này, tôi kịp thời uốn nắn, nhắc nhở  những giáo viên còn thiếu sót, tạo cho giáo viên tâm thế thoải mái phấn đấu  vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Biện pháp 3: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ: Công tác tuyên truyền  ở  bậc học Mầm Non đóng vai trò rất quan trọng,  đặc biệt  ở vùng nông thôn và con em dân tộc thiểu số. Phụ huynh  ở vùng nông   thôn nhận thức về  việc chăm sóc giáo dục trẻ  còn thấp, chưa chú ý đến việc   giáo dục kỹ năng sống cho trẻ . Vậy làm thế nào để  đông đảo phụ  huynh hiểu  được tầm quan trọng của công tác chăm sóc ­ giáo dục trẻ  em  ở  lứa tuổi mầm   non là cần thiết, điều này đòi  hỏi mỗi cán bộ, giáo viên trong các nhà trường  phải tích cực, tăng cường công tác tuyên truyền những kiến thức nuôi dạy trẻ  theo khoa học tới toàn thể  phụ  huynh và cộng đồng, tuyên truyền để  họ  hiểu  12
  13. được trẻ   ở lứa tuổi càng nhỏ  thì sự  tác động để  phát triển trí tuệ, thể  lực của   trẻ sẽ  tốt hơn so với trẻ lớn, từ đó họ  sẽ  p hối kết hợp với nhà trường để giáo  dục trẻ.  Vì vậy, tôi đã chỉ đạo các lớp tích cực công tác tuyên truyền tới phụ huynh  và cộng đồng về  nội dung chương  trình chăm sóc, giáo dục trẻ;rèn cho trẻ  những kỹ năng sống phù hợp độ tuổi và có  phương pháp nuôi dạy trẻ theo khoa  học. Tôi  chỉ  đạo các các lớp tuyên truyền bằng cách: Lập sổ  kế  hoạch tuyên  truyền, viết bài tuyên truyền hàng tháng, tuyên truyền trên thông tin đại chúng,  xây dựng bảng tuyên truyền của nhà trường, xây dựng góc tuyên truyền của các   nhóm lớp, tổ  chức Hội thảo chuyên đề  mới phụ  huynh và các ban ngành đoàn   thể  về  dự, tuyên truyền qua buổi họp phụ  huynh 2 lần/năm, yêu cầu giáo viên   thường xuyên trao đổi nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ với phụ huynh trong giờ  đón, trả trẻ.  Biện pháp 4: Dạy cho trẻ những thói quen tự phục vụ :      Trẻ ở tuổi mầm non có hành vi bắt chước rất lớn nhất là trẻ ở độ tuổi 3­ 4 tuổi, nếu như chúng ta rèn cho trẻ những thói quen lâu ngày sẽ thành kỹ năng.   Vì thế  , tôi yêu cầu giáo viên khi giáo dục các kỹ  năng sống cho trẻ  phải biết  dẫn dắt từ những câu chuyện, bài hát ...Chẳng hạn, thông qua câu chuyện “Gấu   con bị  đau răng ” giáo viên sẽ  hỏi trẻ  vì sao nên đánh răng ? Từ  đó giúp trẻ  ý  thức được không đánh răng sẽ bị đau răng như Gấu con . Ngoài ra phải dạy cho   trẻ có những thói quen như : Biết rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau khi chơi, biết tự  xúc cơm ăn, biết mặc quần áo, biết trãi nệm gối khi ngủ… Để  giúp trẻ  hình  thành thói quen , đối với độ  tuỏi 3­4 tuổi thì này tôi phải làm mẫu cho trẻ  xem  sau đó cho trẻ  thực hiện dưới sự  quan sát của cô và có sự  động viên tuyên   dương kịp thời . Từ đó, sẽ hình thành cho trẻ ở độ tuổi 4­ 5 tuổi tự phục vụ bản   13
  14. thân, và trẻ  5­6 tuổi sẽ  biết tự  giác làm những công việc nhẹ  nhàng phục vụ  bản thân mà không cần sự nhắc nhở, hướng dẫn của cô “Trẻ  4 tuổi biết tự trải chiếu khi đến giờ ngủ.” Không phải cháu nào cũng có ý thức tự phục vụ bản thân. Tuy các cháu đa  số là người dân tộc thiểu sô nhưng cũng có những cháu là con cưng của gia đình   nên ở  nhà mọi việc đều có ba mẹ  làm giúp. Đến lớp cháu có thói quen để  bạn   làm giúp mình . Biết được điều đó tôi dùng hình thức “ giao việc cho trẻ  ”  nhưng phải vừa sức của trẻ.  Khi trẻ thực hiện được tôi khen và động viên trẻ “   Cháu làm giỏi lắm !”. Ngoài ra, tôi còn dạy cho trẻ văn hóa trong ăn uống như:  Biết sử dụng đồ  dùng đúng như  ca dùng uống nước, muỗng nhỏ dùng ăn cơm,  dạy trẻ có hành vi trong ăn uống như: Ăn không ngậm cơm, ăn không rơi vãi , ăn  14
  15. chuối không nên lột hết cả  vỏ  mà ăn đến đâu lột đến đó , hoặc khi ăn trứng  cháu biết tự bóc vỏ .Khi cô đưa thức ăn cho trẻ phải biết nói: “ cảm ơn cô ”.      Trẻ 3 tuổi biết tự xếp hàng rửa tay trước khi ăn cơm Biện pháp 5.Giúp trẻ  luôn cảm thấy tự  tin khi tiếp nhận các thử  thách   mới: Thời buổi hiện nay, việc giả mạo người thân hoặc dụ dỗ các em nhỏ để  bắt cóc rất nhiều. Qua các buổi họp tôi chỉ đạo cho giáo  viên dạy cho trẻ nhận   biết những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ  an toàn cho mình nơi công cộng   (trong sân trường, khi gặp người lạ,…) Đầu năm học, khi xây dựng các kế  hoạch tôi cũng chú trọng việc lồng   ghép kỹ  năng sống, tiết kiệm năng lượng hay an toàn cho bé trong các chủ  đề.  Vì thế, trong các hoạt động, tôi yêu cầu giáo viên lồng ghép cho phù hợp với   chủ  đề. Chẳng hạn, với chủ đề  “Gia đình” trẻ  phải nói được địa chỉ  nhà và tôi  đặt trẻ  trong tình huống : Nếu như  khi đi chơi bị  lạc đường cháu sẽ  làm gì ?   15
  16. Hoặc có người lạ đến dẫn cháu đi cháu sẽ thế nào ? Chơi ở sân trường các cháu  phải làm gì để tránh té ngã ? Từ  đó giáo viên gợi ý cho trẻ  cách xử lý khi gặp các tình huống đó như  :   Đi lạc đường thì cháu sẽ gọi người giúp đỡ và nói tên bố mẹ , đọc tên của mình  và nói địa chỉ gia đình , hoặc không nên đi theo người lạ mà nhanh chóng tìm đến   người thân của mình. Biệnpháp 6. Thông qua các họat động vui chơi:  Một trong những phương tiện có thể  góp phần hình thành kỹ  năng sống   cho trẻ  đó là hoạt động vui chơi “ Học mà chơi, chơi mà học”. Nhiều nghiên   cứu đã chứng minh việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp hình  thành khả  năng chơi đùa mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để  phát triển  những kỹ năng sống. Quan sát một trò chơi rất đơn giản mà trẻ em mẫu giáo có   thể thực hiện như trò chơi bán hàng, trẻ đã lĩnh hội được những giá trị nhất định   khi phân vai cho chính mình. Trẻ con luôn có xu hướng chọn vai người bán hơn  là người mua vì lý do rất đơn giản: trẻ muốn trở thành người lớn.  Cũng chính điều này đã giúp cho trẻ có cơ hội được thỏa mãn nhu cầu tự  khẳng định và nhu cầu làm người lớn của chính mình. Người bán hàng “trẻ con”  cũng tỏ  ra khá “sắc sảo” và “khéo léo” trong khi bán hàng… Chính những bài  học này đã dạy cho trẻ  có những kỹ  năng sống rất cần thiết: biết lắng nghe,   biết chia sẻ, hợp tác, làm vui lòng người khác... Hãy xem thử một nhóm trẻ cùng  chơi trò chơi xây dựng, sẽ  thấy được giá trị  thật độc đáo của việc phát triển   nhân cách hay hình thành kỹ  năng sống cho trẻ.  Ở đó, xã hội trẻ  em được hình  thành một cách rất thú vị. Có thủ lĩnh, có nhóm, có sự tương thân, tương trợ, có  sự  giúp đỡ  lẫn nhau, có những cơ  hội để  trí tưởng tượng của trẻ  bay bổng và  phát triển. Trong khi chơi, các bé bầu ra nhóm trưởng, và biết phân công rạch ròi   công việc cho từng thành viên trong nhóm, như bạn này lấy gạch, bạn kia đi tìm  16
  17. cây xanh, các bạn còn lại sẽ tìm vật làm cổng... Và không cần phải giải thích gì  nhiều, khi một bé đã được công nhận là trưởng nhóm thì các bạn khác sẵn sàng   phục tùng và chấp nhận sự phân công. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc tạo cơ hội cho trẻ em   vui chơi nhiều hơn ngoài trời sẽ  làm cho trẻ  tự  tin, năng động hơn và tích cực   hơn. Rõ ràng là khi được tiếp cận với thế giới, khi được khám phá thế giới, trẻ  sẽ vượt qua sự nhút nhát của mình. Bằng những kinh nghiệm có được trong khi   vui chơi ngoài trời, trẻ  sẽ  cảm nhận thế  giới xung quanh thật gần gũi và như  một phần của cuộc sống.  Liên tục đặt câu hỏi cái gì đây, con gì vậy, dùng để làm gì, điều gì sẽ xảy  ra... là những câu hỏi xuất hiện khi tiếp xúc với thiên nhiên. Sự  tìm tòi, khám  phá, sự tò mò và sự cởi mở... sẽ giúp trẻ chinh phục được thế giới, giúp trẻ làm  chủ thế giới dù rằng bằng chính những suy nghĩ rất non nớt, ngây thơ của mình.          Các cháu 5 tuổi chơi trò chơi xây dựng 17
  18. Các é chơi “ Bé làm nội trợ” Biện pháp 7.Thông qua các hoạt động lễ hội :        Để giúp trẻ phát huy tính mạnh dạn tự tin trong các hoạt động lễ hội ,tôi   luôn tạo điều kiện cho các cháu được tham gia văn nghệ ,giao lưu với khách mời  như; các chú bộ đội, các cô chú bên ủy ban xã.. . Đặc biệt nhà trường đã lên kế  hoạch Tổ chức lễ hội “ Bé vui đón Tết ” “ Đêm hội trăng rằm” thông qua hoạt   động các trò chơi dân gian đã giúp các cháu rèn kỹ năng sống rất hiệu quả . dùng ngôn ngữ đề nghị, vỗ về trẻ.    Biện pháp 8. Cho trẻ được tư do và hành động theo suy nghĩ của trẻ: Nếu có ai nói rằng “ cho trẻ hành động theo ý thích và suy nghĩ trẻ là sai   lầm” thì tôi nghĩ chính người nói như  thế  mới sai lầm. Bởi với vai trò là một  người lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ  chính của chúng ta là giúp trẻ  gặp khó  khăn, hướng dẫn trẻ một cách kịp thời để luôn đi đúng hướng. Tuyệt đối không  để ý nghĩ là mình kêu trẻ làm gì thì trẻ làm đó, mọi việc là có người lớn chuẩn  bị  sẳn chỉ  cần làm theo y như  vậy thì sẽ  chẳng có chuyện gì xảy ra. Vô hình  18
  19. chung vì những suy nghĩ này mà ta đã để  lại sự  chủ  quan,  ỷ  lại vào người lớn   nơi trẻ. Vì thế  cho nên với vai trò là Phó hiệu trưởngtôi triển khai với giáo viên  trong lúc sinh hoạt chuyên môn là hàng tuần trước khi nghỉ  ngày thứ  7 và chủ  nhật giáo viên nên giao trẻ  một nhiệm vụ  để  trẻ  được vừa chơi với hai ngày  nghỉ đồng thời trẻ  chứng tỏ với ba mẹ  ở nhà những gì trẻ  đã được hướng dẫn   từ  cô giáo và bây giờ  khi nói với ba mẹ trẻ lại một lần nữa được học cách nói  chuyện, cách trình bày của chính người thân của trẻ. Và xem như đây ta đã giúp   cho trẻ  được rất nhiều qua hình thức trẻ  được giao tiếp, trao đổi với nhiều   người lớn và học được cách trình bày ngôn ngữ  của bản thân một cách mạnh   dạn, tư tin. Ví dụ: cô giao cho trẻ đề tài “ bé hãy nói một nghề mà bé biết. Đồng  thời nói lên :  ước mơ  của chính bản thân mình sau này thích làm nghề  gì. Tại  sao?” Với đề tài này cô giáo cho bé được về nhà hỏi những người thân quen về  một nghề hoặc yêu cầu bố, mẹ dẫn đi quan sát, thậm chí cả việc trò chuyện với   người đang làm các nghề  để  trẻ  được trực tiếp quan sát rồi suy nghĩ và nêu  được lý do khi chọn một nghề sau này. Qua những việc mà trẻ đã làm sẽ có vốn   kiến thức rất nhiều và cứng từ  đây chính là nền tảng để  trẻ  mạnh dạn, tự  tin,  phát triển những lời nói của mình một cách hồn nhiên ngây thơ nhưng rất thiết  thực từ  những gì trẻ  đã và đang thực hiện và sẽ  hình thành cho trẻ  những kỹ  năng sống phù hợp Biện pháp 9.Luôn thay đổi môi trương chơi cho trẻ:          Bản thân tôi luôn chú ý đến việc xây dựng môi trường giáo dục đa dạng,   phong phú nhằm tạo hứng thú, kích thích trẻ  tham gia vào các hoạt động học  tập, vui chơi, sinh hoạt. Môi trường chơi của trẻ  luôn luôn phải  ở  trong trạng   thái mở, biến đổi phù hợp với từng chủ đề, chủ  điểm, từng góc chơi, có nhiều  góc mở  kích thích sự  tò mò, ham học hỏi khám phá của trẻ. Môi trường hoạt   19
  20. động mang tính phát triển chính là việc chuẩn bị môi trường chơi nhằm đáp ứng   khả năng chơi của trẻ hiện tại và trong tương lai phát triển hoạt động chơi của   chúng. Nhờ  có sự  bổ  sung, thay đổi đồ  chơi, vật liệu chơi cho trẻ  một cách  thường xuyên phù hợp giúp cho trẻ có điều kiện tiếp xúc, làm quen với thế giới  đồ chơi kỳ diệu tạo cho trẻ có cơ hội được chơi, được biến đổi những vật liệu   chơi thành sản phẩm chơi của mình. Điều đó, khuyến khích trẻ  tích cực chủ  động và có sáng kiến khi chơi, giúp trẻ được tự trải nghiệm tự cảm trôi qua, tôi  thiết nghĩ rằng để  trẻ  có thể  tự  tin tham gia vào các hoạt động, phát triển hồn   nhiên, vui vẻ, có những kỹ năng sống cần thiết  điều đó phụ thuộc rất nhiều vào  giáo viên người cần sưu tầm, bổ  sung thêm kiến thức về  chuyên môn, các trò   chơi câu đố để thu hút trẻ vào hoạt động. Không chỉ thế, mỗi giáo viên cần sáng   tạo ra thêm nhiều hình thức giáo dục trẻ phong phú đa dạng tránh trùng lặp để  khỏi tạo sự  nhàm chán cho trẻ. Giáo viên cần có biện pháp phối kết hợp cùng   phụ huynh trong lớp, đồng nghiệp trong trường Tóm lại :  Nội dung giáo dục  Kỹ năng sống cho trẻ   hết sức đơn giản và gần   gũi với trẻ. Sự  hợp tác, tự  kiểm tra, tính tự  tin, tự  lập, tò mò, khả  năng thấu   hiểu và giao tiếp . Nếu các giáo viên  biết sử dụng các biện pháp tôi nêu ra một   cách hài hòa thì sẽ mang lại kết quả khả quan về  rèn dục kỹ năng sống cho trẻ  trong trường mầm non 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2