Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số
lượt xem 4
download
Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm: Áp dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn; góp phần nâng cao chất lượng dạy học Toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số
- MỤC LỤC TT Nội dung Trang I 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài 2 2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3 3 Đối tượng nghiên cứu 3 4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3 5 Phương pháp nghiên cứu 3 II 3 PHẦN NỘI DUNG 1 Cơ sở lí luận 3 2 Thực trạng 5 2.1 Thuận lợi khó khăn. 5 2.2 Thành công hạn chế 5 2.3 Mặt mạnh mặt yếu 7 2.4 Nguyên nhân, các yếu tố tác động 7 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra 8 3 Giải pháp, biện pháp 9 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 9 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp biện pháp 9 ̣ 3.3 Điêu kiên th ̀ ực hiên giai phap, biên phap ̣ ̉ ́ ̣ ́ 23 ́ ̣ ưa cac giai phap, biên phap 3.4 Môi quan hê gi ̃ ́ ̉ ́ ̣ ́ 24 ́ ̉ ̉ ̣ ́ ̣ ̣ ̉ 3.5 Kêt qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân đê nghiên c ́ ̀ ứu. 24 Kết quả thu được qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân ̉ ̣ ́ ̣ ̣ ̉ ́ 4 24 đê nghiên c ̀ ưu. ́ III PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ 25 1 Kết luận 25 2 Kiến nghị 26 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1
- Môn toán ở tiểu học có một tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua môn toán trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học, rèn cho học sinh kỹ năng tính, giải toán. Đồng thời qua dạy toán giáo viên hình thành cho học sinh phương pháp học tập; khả năng phân tích tổng hợp, óc quan sát, trí tưởng tượng tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo, tư duy độc lập. Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong 5 mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em phát huy được trí tuệ, rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các bài toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. Dạy học môn Toán ở lớp Một nhằm giúp học sinh: + Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn. + Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100; cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng (với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, vẽ đoạn thẳng). Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh. + Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán. Những năm gần đây đã có nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường miệt mài với đề tài nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1” mang lại kết quả khả quan nhưng kết quả đó bao hàm với mọi đối tượng học sinh. Dựa trên hoàn cảnh thực tế tại đơn vị tôi với tỉ lệ trên 75% là học sinh đồng bào dân tộc thiểu số thì tôi rất trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để học sinh đồng bào dân tộc thiểu số lớp Một làm được các phép tính cộng, trừ đã khó việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn. Vì vậy tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số” 2
- 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu: + Áp dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn. + Góp phần nâng cao chất lượng dạy học Toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng. Nhiệm vụ: Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp học sinh: + Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn. + Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ. + Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt đúng. 3. Đối tượng nghiên cứu, Biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong chương trình lớp 1 ở Tiểu học. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Một số biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong chương trình toán 1. 5 . Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 1C khối I Trường Tiểu học Ea Bông. Đánh giá quá trình dạy toán. Loại bài giải toán có lời văn từ những năm gần đây. Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh. Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, sự tư duy của học sinh. Mục tiêu giáo dục của Đảng đã chỉ rõ: “… Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt…”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, 3
- với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Hội nghị Ban Chấp hành trung ương khoá VIII lần thứ 2 đã chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm của các thế hệ học trò chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới phương pháp dạy học thực chất không phải là sự thay thế các phương pháp dạy học cũ bằng một loạt các phương pháp dạy học mới. Về mặt bản chất, đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học chính là làm thế nào để học sinh phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác môn toán thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả năng của môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kỹ năng toán học cơ bản cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đối với môn Toán lớp Một, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên, nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ… trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống, trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3 … học các phép tính cộng, trừ… Các em không quên được vì đó là kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa, những con số, những 4
- phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời. Đối với mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn”, là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi và khó khăn a. Thuận lợi Toán có lời văn có những thuận lợi nhất định: Những bài toán có lời văn là những bài toán lấy từ thực tế cuộc sống. Nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ tương quan và phụ thuộc, có liên quan đến sự việc xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là: phải biết lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra cách giải thích hợp để từ đó tìm được phép tính đúng và có đáp số đúng của bài toán. Bên cạnh đó cái khó từ phía học sinh là: ít em chịu khó đọc kỹ đề, phần lớn các em chưa biết dựa vào dữ kiện bài toán để phân tích và suy ngẫm hoặc phân tích không đúng hướng, không lôgic. b. Khó khăn Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học Ea Bông, kể từ khi về trường tới nay tôi luôn được phân công dạy học sinh dân tộc thiểu số. Vì vậy, qua thời gian giảng dạy tôi nhận thấy các em phát âm đa số là số là thiếu dấu, viết sai lỗi chính tả. Đặc biệt học sinh lớp Một và hầu hết giáo viên đều phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp Một. Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20% số học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. 2.2. Những thành công và hạn chế a. Những thành công 5
- Trong những năm học qua, đã có một vài đồng nghiệp cũng trăn trở về các biện pháp “giải toán có lời văn” và bên cạnh đó nhà trường đã tổ chức các cuộc thi và giao lưu giữa các lớp trong tổ khối nhằm phát hiện học sinh năng khiếu môn Toán và đạt kết quả như sau. Kết quả điều tra năm học 2013 – 2014 HS viết HS viết Lớ sĩ HS viết HS giải đúng đúng câu đúng phép TT p số đúng đáp số cả 3 bước lời giải tính 1 1A 20 8 40% 10 50% 10 50% 8 40% 2 1B 26 12 46,2% 18 69,2% 14 53,8% 12 46,2% 3 1C 22 10 38,5% 13 49,9% 19 73,1% 10 38,5% Kết quả điều tra năm học 2014 2015 HS viết HS viết Lớ sĩ HS viết HS giải đúng đúng câu đúng phép TT p số đúng đáp số cả 3 bước lời giải tính 1 1A 14 10 71.4% 12 85,7% 12 85,7% 10 71,4% 2 1B 20 15 75% 17 85% 17 85% 15 75% 3 1C 20 14 70% 16 80% 16 80% 14 70% Qua cuộc khảo sát trong bài kiểm tra của học sinh cho thấy chất lượng giải toán có lời văn được nâng lên rõ rệt. Lỗi của học sinh trong bài khảo sát Tỷ lệ Giỏi 9,10 đạt 29/54 trình bày còn bẩn. Khá 7,8 đạt 39/54 em trình bày còn bẩn, câu lời giải chưa chuẩn. Trung bình 5,6 đạt 45/54 em chỉ làm đúng phép tính và đáp số, sai tên đơn vị, sai câu lời giải. Yếu dưới 5 đạt 9 em không biết làm bài. Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn, kết quả của bài toán đúng. Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải toán cơ lời văn” nói riêng. Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế. b. Những hạn chế Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một dân tộc thiểu số. Bởi vì đối với lớp Một vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay nói chung là học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính 6
- của bài nhưng không thể trả lời hoặc lí giải là tại sao các em lại có được phép tính đúng như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán và giải toán một cách máy móc rập khuôn, bắt chước. Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp, một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp hoặc không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm được bài. Về giáo viên: Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu. Về đồ dùng dạy học: Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh họa. Trong những năm qua, các trường Tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị về đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu dạy “giải toán có lời văn”. Về cha mẹ học sinh: Một số phụ huynh chỉ quan tâm dấu hiệu bên ngoài của việc học tập đó là chỉ cần biết tính toán là được. Bên cạnh đó phần đa hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn do đó cha mẹ hầu như chỉ chăm lo làm kinh tế mà chưa thực sự quan tâm tới việc học tập và giúp đỡ các em tháo gỡ kịp thời những khúc mắc, khó khăn trong học tập khiến các em bỡ ngỡ khi làm bài, đặc biệt là giải toán có lời văn dẫn đến sự chán nản, thiếu tự tin, từ đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức trong học tập của các em. Bên cạnh những thành công mà đồng nghiệp tôi đã thực hiện được thì không ít mặt hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Chính vì vậy tôi đã xây dựng sáng kiến riêng cho bản thân mình nhằm sử dụng các biện pháp để nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn”. 2.3. Những mặt mạnh, mặt yếu a. Mặt mạnh Khi thực hiện đề tài này được sự ủng hộ và động viên của Lãnh đạo nhà trường, cha mẹ học sinh và đa số giáo viên trong tổ khối I nhằm mang đến cho cả giáo viên và học sinh kết quả cao nhất. b. Mặt yếu Thời gian thực hiện đề tài còn hạn chế. Tài liệu phục vụ cho đề tài chưa đáp ứng được yêu cầu đạt ra. 2.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động 7
- + Nguyên nhân từ phía HS: Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì học sinh lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học. + Nguyên nhân từ phía giáo viên: Về giáo viên: Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là “thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”. + Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi dạy và học tuyến kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp Một: Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy hiệu quả, đôi khi giáo viên giảng cho học sinh lớp Một đã diễn đạt như với các lớp trên làm học sinh khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp Một còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì của học sinh lớp Một trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Vấn đề nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” ở lớp Một hiện nay là một vấn đề nan giải mà đa số giáo viên và nhà trường quan tâm. Để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn phải có kế hoạch cụ thể cho đội ngũ giáo viên thông qua việc nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng tích cực, sáng tạo của học sinh nhiệm vụ đặt ra chúng ta phải đưa ra phương pháp dạy hiệu quả nhất. 8
- Một trong những yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” ở lớp Một là việc tăng cường động viên các em học sinh luyện tập thực hành giải toán có lời văn mọi lúc mọi nơi. Kiên trì, bền bỉ là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lượng giảng dạy thì việc Tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh càng không thể thiếu trong mỗi bài dạy, tiết dạy học toán. Thường xuyên đánh giá để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời đây là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng giải toán có lời văn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Việc thường xuyên đánh giá nhằm phát huy năng lực của từng học sinh, và kịp thời động viện khích lệ tinh thần học tập của các em. Đồng thời việc kết hợp giữa Gia đình – Nhà trường Xã hội cũng là vấn đề lớn để nâng cao chất lượng giảng dạy. 3. Giải pháp, biện pháp. 3.1. Mục tiêu của giải pháp: Chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một trong hai năm qua đã có những chuyển biến đi lên đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đạt được mức chất lượng tối thiểu theo quy định của trường, ngành Giáo dục đề ra. Để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một trường Tiểu học Ea Bông trong giai đoạn hiện nay nhằm đạt chất lượng tối thiểu, mục tiêu chính của tôi như sau: 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp Nắm bắt nội dung chương trình Để dạy tốt môn Toán lớp Một nói chung, “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp Một thì ai mà chả dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói “Biết 10 dạy 1” chứ không thể “Biết 1 dạy 1” vì kết quả thu được sẽ không còn là 1 nữa. Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp Một theo từng mức độ. Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình vẽ viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp. 9
- Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 ô vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả : Ví dụ: Bài 5 trang 46 a) 1 2 = 3 Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có : 1 + 2 = 3 b) Đến câu này nâng dần mức độ học sinh nhìn vào hình vẽ để hình dung số quả bóng và phải đặt được các số để thành phép tính và kết quả + = Kết quả đạt được là: 1 + 2 = 3 Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77 diễn đạt theo 2 cách . Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp. 8 + 1 = 9 Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp, tất cả là 9 hộp. 10
- 1 + 8 = 9 Tương tự câu b : Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn. Cách 1: 7 + 2 = 9 Cách 2: 2 + 7 = 9 Giáo viên hướng dẫn để các em biết được hướng đi của hình mũi tên thì học sinh phải làm phép tính gì? Đến bài 3 trang 85 Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả. 10 2 = 8 Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt trình bày miệng ghi đúng phép tính. Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động viên các em viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh. 11
- Mức độ 2: Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời: Bài 3 trang 87 B, Có : 10 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn :.... quả bóng? 10 3 = 7 Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải. Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. Mức độ 3: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện (tiết 81 bài toán có lời văn). Tư duy học sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh. Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi, phần cho biết gồm có 2 yếu tố. Mức độ 4: Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm quen.( Bài toán trang 117) Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn. Bài giải gồm 3 phần : câu lời giải, phép tính và đáp số. Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo giải ài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. 12
- Ở lớp Một, học sinh chỉ giải toán về thêm, bớt với một phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng dẫn cụ thể. GV dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước sau: + Đọc và tìm hiểu đề bài. +Tìm đườ ng lối giải bài toán. + Trình bày bài giải + Ki ểm tra l ại bài giải. Mu ốn h ọc sinh hi ểu và có thể giải đượ c bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu đượ c nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ mộ t số từ khoá quan tr ọng nh ư " thêm, và, tất cả, ... " ho ặc "b ớt, bay đi, ăn mất, còn lại, ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để họ c sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc g ạch chân các từ chưa sát với nội dung c ần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại " Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh ngầm phân tích đề toán. N ếu h ọc sinh g ặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi: 13
- + Em thấy d ưới ao có mấy con vịt? (Dướ i ao có 5 con vịt) + Trên bờ có mấy con v ịt? (Trên bờ có 4 con vịt) + Trên bờ và dướ i ao có tất cả mấy con v ịt? (Có tất cả 9 con vịt) Trong tr ườ ng h ợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; ho ặc dùng tóm tắt bằng lời ho ặc s ơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọ c đề toán. Thông thườ ng có 3 cách tóm tắt đề toán: Cách 1: Tóm tắt bằng l ời: Ví dụ 1 : Lan có : 3 quy ển v ở Vy có : 2 quy ển v ở C ả hai b ạn có: ... quy ển v ở? Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng: Ví dụ 2 : Bài 2 trang 123 A 5 cm B 3 cm C ? cm Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật: Ví dụ 3 : Có : Thêm : Có tất cả :.....con thỏ? 14
- Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh d ễ hi ểu và dễ sử dụng. V ới cách viết thẳng theo c ột nh ư: 14 quyển và 26 quả 12 quy ển 33 qu ả ... quy ển ? ... qu ả? Ki ểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi ý cho học sinh lựa ch ọn phép tính giải. Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là mộ t quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết đượ c các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng b ước, mi ễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) h ọc sinh đọc và giải đượ c bài toán là đạt yêu cầu. Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm. Chẳng h ạn: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? Bài toán cho bi ết gì? (Nhà An có 5 con gà) M ẹ mua thêm bao nhiêu con gà nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: "Muốn bi ết nhà An có tất cả mấy con gà em làm phép tính gì? (tính cộng) Bao nhiêu cộng bao nhiêu? (5 + 4); 5 + 4 b ằng bao nhiêu? (5 + 4 = 9); ho ặc: " Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); ho ặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để đượ c 9 ? (5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết "con gà" vào trong d ấu ngo ặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau khi h ọc sinh đã xác định đượ c phép tính, nhiều khi vi ệc h ướ ng d ẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, l ần đầu tiên đượ c làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Có thể dùng một trong các cách sau: Cách 1 : Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầ u (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?) để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải: Nhà An có tất cả... là: Cách 2 : Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:" Cách 3 : Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải r ồi thêm thắt chút ít. 15
- Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết câu lời giải: " Nhà An có tất cả là:" Cách 4 : Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để học sinh tr ả l ời mi ệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính vào để có cả bướ c giải (gồm câu lời giải và phép tính): Nhà An có tất cả số con gà là: 5 + 4 = 9 (con gà) Cách 5 : Sau khi h ọc sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v... Giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh nh ất nh ất ph ải vi ết theo m ột ki ểu. Có thể coi vi ệc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hi ện nay các em học sinh l ớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh n ề n ếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay v ở, gi ấy ki ểm tra. C ần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau: Bài giải Số gà nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 (con gà) Đáp số : 9 con gà N ếu l ời gi ải ghi: "S ố gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (L ời gi ải đã có sẵn danh t ừ "gà"). Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao t ừ "con gà" lại đượ c đặt trong dấu ngoặc đơn? “Con gà” là giá trị của đơn vị chung cho cả ba ch ữ s ố trong một phép tính. Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) ch ứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà đượ c. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác, nếu vẫn mu ốn đượ c kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thi ếu và sai như sau: 5 con gà + 4 = 9 con gà 5 + 4 con gà = 9 con gà 5 con gà + 4 con gà = 9 Về m ặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ đượ c viết 5 + 4 = 9 thôi. 16
- Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan tr ọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngo ặc đơ n để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng ch ữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơ n ở đây chỉ có mộ t sự ràng buộc về mặt ng ữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thườ ng có thói quen khi làm bài xong không hay xem, ki ểm tra l ại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra v ề lời gi ải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp. Ví dụ, có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ,... Giáo viên hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho, để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Ví dụ, với phép tính 3 + 2 = 5.Có thể có các bài toán sau: Bạn Hà có 3 chiếc kẹo, chị An cho Hà 2 chiếc nữa. Hỏi bạn Hà có mấy chiếc kẹo? Nhà Nam có 3 con gà mẹ Nam mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Nam có tất cả mấy con gà? Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn. * Tìm ra điểm yếu của học sinh: Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao. Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp. Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán. * Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm: Trong phạm vi 27 tiết dạy từ tiết 81 đến tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số tiết chính sau đây: Tiết 81: Bài toán có lời văn (trang 115) 17
- Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3. Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi ( thông tin cần tìm ) Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? Tiết 82: Giải toán có lời văn. ( trang 117) Giáo viên nêu bài toán . Học sinh đọc bài toán Đây là bài toán gì? Bài toán có lời văn. Thông tin cho biết là gì ? Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà. Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ? Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu 18
- Tóm tắt Có : 5 con gà Thêm : 4 con gà Có tất cả : ... con gà? GV đưa ra cách giải bài toán mẫu: Bài giải Nhà An có tất cả số con gà là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà Bài 1 trang 117: Học sinh đọc bài toán phân tích đề bài điền vào tóm tắt và giải bài toán. Tóm tắt: An có : 4 quả bóng Bình có : 3 quả bóng Cả hai bạn có :....quả bóng? Bài giải Cả hai b ạn có số quả bóng là hoặc Số quả bóng hai bạn có là: 4 + 3 = 7 (quả bóng) Đáp số: 7 quả bóng Bài 2 trang 118 19
- Tóm tắt: Có : 6 bạn Thêm : 3 bạn Có tất cả :... bạn? Bài giải Có tất cả số bạn là : 6 + 3 = 9( bạn ) Đáp số: 9 bạn Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3 của phần tóm tắt, thêm chữ là: Ví dụ : Cả hai bạn có là: Có tất cả là: Tiết 85 Luyện tập Bài 1 trang 122 HS đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên ) Điền số vào tóm tắt Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau GV chốt lại một cách trả lời mẫu: Số quả bóng của An có tất cả là: => Vậy qua bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời giải khác nhau, song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau: Thêm chữ Số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết 82 đã làm. Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ dài vào trước chữ là 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khi soạn câu hỏi trắc nghiệm Vật lý
13 p | 3116 | 1746
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2597 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết đúng chính tả
55 p | 2380 | 450
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2126 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam
10 p | 1802 | 336
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
24 p | 1891 | 327
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp luyện đọc khi dạy tập đọc lớp 2
9 p | 1568 | 305
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1177 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 591 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 600 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 441 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 616 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 385 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 361 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn vẽ tranh môn Mĩ thuật
23 p | 365 | 59
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 353 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 306 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 28 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn