intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

120
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3, nhằm giúp học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, không đọc quá to, quá nhỏ và giật cục trong khi đọc, từ đó các em đọc được diễn cảm hơn các tác phẩm. Luyện cho học sinh bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong đó chú trọng đến kĩ năng nghe, nói, đọc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

  1. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 MỤC LỤC Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề  2 tài………………………………………………….. 3 I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề  3 tài…………………………………….. 3 I.3. Đối tượng nghiên  cứu……………………………………………... 3 I.4. Phạm vi nghiên  cứu……………………………………………….. 3 I.5. Phương pháp nghiên  4 cứu………………………………………….. 4 II. PHẦN NỘI DUNG 5 II.1. Cơ sở lý  5 luận……………………………………………………... 6 II.2. Thực  trạng………………………………………………………... 7 a. Thuận lợi, khó  8 khăn………………………………………………… 8 b. Thành công, hạn  8 chế………………………………………………... 19 c. Mặt mạnh, mặt  19 yếu…………………………………………………. 19 d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác  động……………………………… 20 e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  ra…… 21 II.3.   Giải   pháp,   biện  22 pháp……………………………………………... 24 a. Mục tiêu của giải pháp, biện  pháp………………………………...... b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện  pháp…………….. c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 1
  2. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 pháp………………………... d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện  pháp………………………… e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên  cứu…….. II.4. Kết quả. …………………………………………………………... III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ III.1. Kết luận………………………………………. …………………. III.2. Kiến nghị, đề xuất………………………………………. ………. Tài   liệu   tham   khảo………………………………………. …………….  I. PHẦN MỞ ĐẦU I. 1. Lý do chọn đề tài Tiểu học là cấp học đặt cơ  sở  ban đầu cho việc hình thành, phát triển toàn  diện nhân cách con người. Giáo dục cấp Tiểu học là một giai đoạn giáo dục  khó nhất, đặt nền móng cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo   dục quốc dân. Mục đích của giáo dục Tiểu học là giúp học sinh hình thành  những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí  tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung   học cơ sở. Mục tiêu chính của giáo dục Tiểu học là giúp tất cả học sinh biết   đọc, biết viết. Tiếng Việt là môn học có vai trò quan trọng đối với học sinh   Tiểu học nói chung và học sinh dân tộc thiểu số  nói riêng. Môn Tiếng Việt   nhằm trang bị cho học sinh một công cụ để giao tiếp, phát triển tư duy, là cơ  sở  cho việc học tập các môn học. Môn Tiếng Việt nhằm rèn luyện cho học   sinh bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và được dạy trong sáu phân môn khác   nhau. Mỗi phân môn có một tầm quan trọng khác nhau, nó không tách rời mà  đan xen, hỗ trợ cho nhau. Đối với phân môn Tập đọc ở lớp 3, nhiệm vụ trọng  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 2
  3. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 tâm là rèn kĩ năng đọc thành tiếng cho học sinh. Đọc được coi là một trong  những kĩ năng quan trọng hàng đầu của cấp học. Trên địa bàn xã Ea Bông dân tộc Ê­đê chiếm phần lớn dân số  của xã. Đặc  biệt, trường Tiểu học Võ Thị Sáu là trường đặc thù có học sinh dân tộc Ê­đê  chiếm 97,7%. Hầu hết các em còn rất hạn chế về  ngôn ngữ  nói, viết bằng  Tiếng Việt. Các em nói chưa chuẩn, chưa đúng về một số hoặc nhiều tiếng,   từ Tiếng Việt. Kĩ năng giao tiếp, diễn đạt bằng ngôn ngữ Tiếng Việt còn rất  yếu. Các em chỉ giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ còn tiếng phổ thông các  em chỉ sử dụng trong các tiết học hoặc khi tiếp xúc với thầy, cô giáo. Các em  học sinh ở khu vực Buôn Sah, do bản tính rụt rè, ít nói chuyện, ít giao tiếp với  người khác nên vốn từ  Tiếng Việt tiếp thu được rất  hạn chế. Do vậy, việc  học tập, tiếp thu và rèn cho học sinh biết nghe, nói, đọc, viết là một vấn đề  nan giải, nhất là đối với học sinh dân tộc thiểu số. Do khả  năng tiếp thu   Tiếng Việt của các em còn ít nên việc dạy cho các em đọc được rõ ràng, rành  mạch, diễn cảm là một việc hết sức khó khăn và mất nhiều thời gian.   Từ  năm học 2013 – 2014 đến năm học 2015 – 2016, tôi được phân công dạy lớp 3   với tổng số  học sinh dân tộc thiểu số  chiếm 100%. Khi mới nhận lớp, chất  lượng đọc Tiếng Việt đạt tỉ lệ rất thấp, đa số các em đọc chưa đúng tiếng từ,   đọc sai dấu thanh, đọc sai vần, ngắt nghỉ câu chưa đúng,… Theo bảng thống   kê khảo sát chất lượng đầu năm học cho thấy tỉ lệ học sinh đọc Tiếng Việt   của lớp tôi chủ nhiệm như sau:  Đọc đúng,  Đọc nhỏ,  Đọc  Phát âm  ĐẦU  L T lưu loát  nhát ngừng ngọng,  sai NĂM   giật cục HỌC SL Tỉ  SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ  SL Tỉ lệ  lệ % % % 2013  3 2 6 2 7 2 8 2 8 2 –  4 7 2014 , , 1 6 2014  3 1 2 1 4 2 5 2 6 3 –  3 9 2015 , , 5 4 2015  3 1 3 1 4 2 5 2 6 3 –  2 7 2016 , , 2 8 Để góp phần nâng cao chất lượng đọc Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu  số lớp 3, trong quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh với ý thức lương tâm,  trách nhiệm nghề nghiệp, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, không ngừng  tích lũy kinh nghiệm về rèn kĩ năng đọc để giúp các em dân tộc thiểu số đọc  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 3
  4. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 đúng, rõ ràng, lưu loát, diễn cảm. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số   biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số  lớp 3” .  Với hi  vọng một số kinh nghiệm tôi vận dụng đã giúp cho học sinh dân tộc thiểu số  lớp 3 có kĩ năng đọc sẽ là những kinh nghiệm hữu ích cho giáo viên Tiểu học,   đặc biệt là giáo viên dạy lớp 3  ở  những vùng có học sinh là người dân tộc   thiểu số. I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra biện pháp rèn kĩ năng đọc cho hoc sinh dân t ̣ ộc   thiểu số  lớp 3, nh ằ m   giúp học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt  nghỉ  hơi đúng sau các dấu câu, không đọc quá to, quá nhỏ  và giật cục trong  khi đọc, từ  đó các em đọc được diễn cảm hơn các tác phẩm. Luyện cho học   sinh bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong đó chú trọng đến kĩ năng nghe, nói,  đọc.  Nhiệm vụ của đề tài là phân tích thực trạng học sinh đọc chưa đúng, đọc nhỏ,  đọc ngọng,… Vận dụng những cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến rèn  kĩ năng đọc Tiếng Việt cho hoc sinh dân t ̣ ộc thiểu số để đề xuất những biện   pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3. I. 3. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp rèn đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 trường Tiểu học Võ  Thị Sáu. I. 4. Phạm vi nghiên cứu Học sinh dân tộc thiểu số  lớp 3 trong  trường Tiểu học Võ Thị  Sáu năm học   2013 – 2014; 2014 – 2015 và học kì I của năm học 2015 – 2016. I. 5. Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp quan sát.  Phương pháp thuyết trình, giảng giải.  Phương pháp luyện tập thực hành.  Phương pháp điều tra, thống kê. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp sử dụng trò chơi học tập. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. II. PHẦN NỘI DUNG II. 1. Cơ sở lý luận  Ở Tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị  trí hết sức quan trọng: Nhằm giúp  các em phát triển kĩ năng sử  dụng Tiếng Việt. Từng bước giúp các em làm  chủ  được công cụ  ngôn ngữ  để  học tập trong nhà trường và giao tiếp một   GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 4
  5. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 cách đúng đắn, mạch lạc tự nhiên, tự tin trong môi trường xã hội, thuộc phạm   vi hoạt động của lứa tuổi. Môn Tiếng Việt góp phần cùng với môn học khác  rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản cho học sinh. Cung cấp những hiểu bi ết   sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người Việt Nam hiện đại, có ý thức thấm  nhuần truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham  thích làm việc và khả năng rèn luyện thích ứng với cuộc sống xã hội sau này.  Trường  Tiểu  học Võ  Thị   Sáu chiếm  đa  số  là  học  sinh  dân  tộc  thiểu số.   Những khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập của các em là: Thiếu  điều kiện học tập, quá trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững   chắc, thiếu động cơ  học tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số  một  ở  học   sinh Tiểu học. Vốn Tiếng Việt là rất cần thiết trước khi học chữ. Không biết  hoặc biết ít Tiếng Việt là trở  ngại lớn nhất cho học sinh dân tộc thiểu số.  Tập nói Tiếng Việt là nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc thiểu   số  cần có vốn Tiếng Việt trước để  học chữ. Bộ  Giáo dục đã có nhiều văn  bản chỉ  đạo như  công văn số  8114/ BGDDT­GDTH về  việc nâng cao chất  lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số  ban hành ngày 15 tháng 9 năm  2009. Nghe – nói – đọc – viết là bốn kĩ năng của Tiếng Việt, để  đạt các yêu  cầu   so   với   chuẩn   kiến   thức   –   kĩ   năng   theo   quyết   định   số   16/2006/   QĐ­ BGDĐT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006. Dạy học tăng cường Tiếng Việt   cho học sinh dân tộc thiểu số  lớp 3. Bài tập bổ  trợ  Tiếng Việt cho học sinh   dân tộc thiểu số lớp 1, 2, 3 tại Đăk Lăk của Sở Giáo dục và Đào tạo Đăk Lăk  nhằm bổ trợ cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt để giúp  các em học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác. II. 2. Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi: ­ Nhà trường, tổ chuyên môn thường tổ chức chuyên đề, thao giảng, dự  giờ  để giáo viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm tháo gỡ  những vướng  mắc trong quá trình giảng dạy. ­ Đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm  người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ  đồng nghiệp về  chuyên môn cũng như  giúp nhau tháo gỡ những khó khăn.  ­ Các em học sinh đa số rất ngoan, nghe lời cô giáo, thích khích lệ động  viên khen thưởng,… ­ Được sự  quan tâm về  việc học tập của một số phụ huynh có ý thức trách  nhiệm cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị  đầy đủ  sách vở, đồ  dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở  và tạo điều kiện  tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. * Khó khăn: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 5
  6. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 ­ Trường thuộc địa bàn của xã có nhiều khó khăn, học sinh dân tộc thiểu số  của lớp tôi chiếm 100% trong đó hơn 50% học sinh đọc, viết rất yếu. Đa số  các em tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết rất   chậm. ­ Cha mẹ  các em  phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hoàn cảnh khó  khăn và diện xóa đói giảm nghèo lại nhiều. Vì thế, cha mẹ  chưa hoặc không  quan tâm, chăm lo đến việc học hành cho con em mình. Cá biệt còn có trường  hợp học sinh theo cha mẹ đi làm lò gạch, đi nhặt điều, đi mót cà phê,…. làm   gián đoạn việc học tập của các em gây  ảnh hưởng đến độ  liên tục của bài  học trong chương trình, các em không tiếp thu được bài, hổng kiến thức. Đã  khiến cho nhiều học sinh không tích cực trong các hoạt động học tập. Nhiều  cha mẹ học sinh không hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của  con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để  các em đến lớp cũng như  nhắc nhở  các em học bài, đọc bài ở nhà. ­ Học sinh dân tộc thiểu số khó nhớ, mau quên, nhiều em đọc, viết chưa thành  thạo, đọc sai tiếng từ và dấu thanh còn nhiều. ­ Đồ  dùng dạy học môn Tiếng Việt còn hạn chế.  Giáo viên mất nhiều thời  gian đầu tư vào đồ dùng dạy học tự làm. ­ Do điều kiện kinh tế  của gia đình các em còn gặp nhiều khó khăn, lớp tôi  chủ  nhiệm có nhiều em thuộc diện hộ  nghèo, ngoài giờ  lên lớp các em còn   phải làm việc phụ  giúp gia đình. Khả  năng giao tiếp và sử  dung Tiếng Việt   của các em còn nhiều hạn chế, kĩ năng giao tiếp chưa nhuần nhuyễn, một vài   phụ  huynh nói tiếng phổ  thông gặp nhiều khó khăn, thậm chí có phụ  huynh  không biết chữ,… nên  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc đọc, viết và học tập  của các em. b. Thành công, hạn chế * Thành công: Sau khi thực hiện các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh  dân tộc thiểu số lớp 3 đã có dấu hiệu khả thi rõ rệt: Khả năng giao tiếp bằng   tiếng phổ  thông của các em được tốt hơn, các em có kĩ năng nghe, nói, đọc,   viết đúng dấu thanh hơn. Các em phát huy được tính tích cực, có ý thức học  tập tốt, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.  * Hạn chế: Bên cạnh những thành công  còn có những  hạn chế  nhất định:  Tình trạng một số  học sinh dân tộc thiểu số  tại chỗ  lười học hay vắng học   vẫn còn phát âm chưa chuẩn Tiếng Việt đang diễn ra. Tiếp thu chậm, hổng   hóc kiến thức  ở những ngày nghỉ  học. Lớp học  ở điểm phụ, thuộc vùng khó   khăn, vẫn còn nhiều cha mẹ học sinh không biết chữ nên không kèm cặp, dạy  thêm ở nhà cho các em. c. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 6
  7. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Ngay từ  đầu năm học 2013 – 2014 đến nay, khi thực hiện những biện  pháp rèn kĩ năng đọc cho  học sinh dân tộc thiểu số  lớp 3 và  nhận được sự  hưởng ứng của nhiều đồng chí giáo viên trong trường. Mỗi thầy, cô giáo đều  thấy rõ mình phải làm gì ngay từ  đầu năm học, cùng học hỏi, trao đổi kinh  nghiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đề  tài đã giúp cho giáo viên phát hiện những thiếu sót trong quá trình giảng  dạy, kịp thời phát hiện những yếu kém trong học tập của các em giúp cho học  sinh có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát, đọc to, rõ ràng, phát âm đúng chính tả, … và học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. * Mặt yếu: Một số  học sinh  chưa thực sự  hiếu học, hay quên đồ  dùng học tập, chưa  chuẩn bị  bài đầy đủ  trước khi đến lớp. Các em học sinh yếu vừa nhận biết   mặt chữ  vừa đánh vần để  đọc trơn. Một số  học sinh chưa học theo kịp yêu  cầu kiến thức kĩ năng của môn học. Các em chưa hiểu hết được tầm quan  trọng của việc đọc hiểu, mà các em chỉ chú ý đến việc đọc cho xong bài, đọc  to. Các em không trả lời được câu hỏi trong nội dung bài hoặc trả lời còn lúng  túng, không diễn đạt được để người khác hiểu,… Kĩ năng đọc của học sinh dân tộc thiểu số còn quá yếu. Do đó, giáo viên khó   khăn, vất vả  và mất nhiều thời gian để  nghiên cứu phương pháp dạy học   cũng như biện pháp rèn đọc cho học sinh. d. Các nguyên nhân, các yếu tố  tác động đến  một số  biện pháp  rèn kĩ  năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Nguyên nhân của một số  thực trạng kể  trên là do những năm gần đây  giáo viên đã luôn ý thức quan tâm, chăm chút cho học sinh trong từng tiết học,  với mỗi bài học giáo viên đã nghiên cứu kĩ để lựa chọn và tổ chức hình thức   rèn kĩ năng đọc sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời giáo  viên luôn luôn động viên khuyến khích, khêu gợi cho học sinh lòng ham mê  học tập, có thái độ  tích cực, tự  giác luyện đọc. Mạnh dạn phát biểu trước   lớp, trước nhóm, trước liên đội,…  để  từng bước trau dồi cho các em về  kĩ  năng đọc và kĩ năng giao tiếp từ đó các em vui chơi, hòa đồng với các bạn của   lớp, của trường. Trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên đã phân  hóa  được đối tượng học sinh. Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh để  có biện   pháp hướng dẫn cho các em khả năng học tập tốt nhất. Đầu tư vào việc soạn  giảng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Việc tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh:  Tập tổ chức  các trò chơi, thi Giao lưu tiếng Việt, các hoạt động văn nghệ,… Tham gia các  hoạt động của Đội như  Trò chơi dân gian, Thi đố  vui để  học,… nhằm phát  triển khả  năng giao tiếp, khả  năng biểu cảm, khả  năng nói lưu loát cho học   GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 7
  8. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 sinh ít được chú trọng nên cũng ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng giáo dục  của học sinh. Nội  dung môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập  đọc nói riêng rất  phong phú, kênh hình ở sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù hợp tâm sinh lí  lứa tuổi các em. Học sinh lớp 3 đã được học về  kĩ năng đọc, kĩ năng nói, kĩ  năng kể chuyện. Đây là điều kiện để giúp các em học sinh nói chung và nhất  là các em học sinh dân tộc thiểu số phát âm chuẩn Tiếng Việt. Tuy nhiên một số học sinh chưa xác định động cơ học tập đúng đắn nên  chưa chăm học. Chưa thực sự nắm được phương pháp học tập. Là trường đặc thù  chiếm đa số  học sinh  người  dân tộc  thiểu số  nên  tiếng mẹ đẻ để lộ  khuyết điểm về  cách phát âm, học Tiếng Việt của các em  học sinh trong trường.  Trình độ  dân trí thấp, đời sống nhiều gia đình còn  nghèo đói. Đa số  các em sống trong gia đình có nhiều thế  hệ, giao tiếp hàng  ngày bằng tiếng mẹ  đẻ, cha mẹ  bận rộn với công việc làm ăn hoặc không   biết chữ  nên rất khó khăn trong việc rèn đọc cho các em  ở  nhà, ít quan tâm  đến việc học của con mình.  Bên cạnh đó một số  em bị  chi phối bởi công việc gia đình nên thường  hay nghỉ  học,  thời gian tự  học  ở  nhà  cũng như   ở  trường  ít không đảm bảo  việc hoàn thành các bài tập, bài đọc và luyện đọc.  Một số  em khi được gọi  đọc bài còn mắc nhiều lỗi phát âm, đọc và trả lời các câu hỏi còn nhỏ, trả lời  không đủ  câu, đọc sai hoặc thiếu dấu thanh, không nắm được cách đọc các  âm ghép (Ví dụ: th, ch, nh, ng, ngh, gh, tr, kh, uyu, uych, uyên, …).  Đại bộ  phận học sinh có khi hiểu nhưng lại diễn đạt sai dẫn đến hiểu sai nghĩa. (Ví  dụ:  “Noi gương chú bộ  đội”  thì học sinh lại nói:  “Nói gương chú bô đôi”  hoặc đọc từ  “Cái cầu” thì các em đọc là “Cái câu”. Có thể  nói, đó là nguyên  nhân khách quan tác động “vô thức” đến nhiều học sinh dân tộc thiểu số.         e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Xuất phát từ quan điểm là rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3.  Môn Tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy   học chúng ta còn trau dồi kiến thức về tiếng Việt, kiến thức về văn học, về  đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh. Phân môn Tập đọc góp  phần hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh bằng một trong bốn   yêu cầu cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm vững.  Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh đạt kết quả  chưa cao. Tình trạng này do  nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách thức về phương pháp  rèn đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có kĩ năng đọc thì học  sinh không có điều kiện học các môn học khác, không thể tiếp thu tri thức của   nhân loại. Thông qua dạy đọc, tôi đã giúp các em đọc đúng, đọc hay và dạy cho các em  cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Dạy đọc “ngôn ngữ” với dạy đọc “văn học”.   GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 8
  9. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Đó chính là cơ  sở  dạy học cho học sinh trưởng thành và phát triển cả  về  trí  tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức. Từ  đó tôi thấy rõ, xác định được việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học nói  chung và học sinh  dân tộc thiểu số  nói riêng là một việc làm hết sức cần  thiết. Chúng ta phải làm thế  nào để  thông qua môn Tập đọc giúp học sinh  không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của bài. Hay nói   một cách khác, tôi tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với  bài học đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ  tình cảm, thái độ  tự  nhiên thông qua  giọng đọc. Trong thực tế  hiện nay, để  thực hiện được vấn đề  này, tôi đã thay đổi cách   truyền thụ giúp các em có thể nắm bắt được tri thức, thực hiện việc dạy theo   hướng đổi mới. Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ  lâu và cũng có   nhiều tài liệu đề  cập đến. Tất cả  đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc,  đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh.   Trong quá trình rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số  tôi luôn  luôn đổi mới phương pháp dạy học, dạy lồng ghép các hoạt động, các trò  chơi bổ  ích để  gây hứng thú cho các em không chán nản trong học tập, tạo  cho các em cảm giác “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Từ  đó các em  sẽ gây hứng thú trong học tập và thích đến trường, đến lớp để học tập. Trong quá trình giảng dạy hoặc tiếp xúc nói chuyện với học sinh, với   đồng nghiệp, với tất cả  mọi người cũng phải nói chuẩn tiếng Việt không   được nói tiếng địa phương để các em bắt chước và học theo. Trong giờ dạy tôi quan tâm chú ý nhiều hơn đến học sinh đọc, viết sai  chính tả  (dấu thanh, các phụ  âm đầu, các vần khó) để  uốn nắn các em đọc,  viết cho chính xác.  Tôi đã theo học lớp dạy tiếng Ê­đê để hiểu biết vốn ngôn ngữ, phong tục tập  quán của người dân tộc địa phương nơi đang công tác, để  phát huy hết khả  năng của mình trong công tác giảng dạy. Phối hợp với lãnh đạo, đoàn thể, hội  cha mẹ  học sinh trong nhà trường để  cùng nhau nắm bắt tình hình, nguyên  nhân những em học sinh có nguy cơ  bỏ  học hoặc những em đã bỏ  học để  động viên các em đi học đầy đủ và vận động các em vào lớp tiếp tục học tập.  Đặc biệt cần quan tâm nhiều hơn đến đối tượng học sinh khó khăn nhằm  cảm hoá các em để các em coi thầy, cô giáo là chỗ dựa tinh thần và tạo được  mối quan hệ  tình cảm thầy­trò, làm cho các em thích đến trường hơn  ở  nhà  thì các em sẽ  đi học chuyên cần và tích cực học tập do đó giảm thiểu được   tối đa các em học yếu môn Tiếng Việt.       II. 3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 9
  10. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và  rèn kĩ năng đọc cho học sinh tộc dộc thiểu số lớp 3 nói riêng nhằm giúp các   em sử dụng tiếng phổ thông vào trong cuộc sống hằng ngày, giàu vốn Tiếng  Việt để các em hòa nhập với cộng đồng. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Dựa trên tình hình thực tế của nhà trường, dựa vào chất lượng của năm   học trước, là một giáo viên được phân công giảng dạy lớp 3 tôi nhận thấy ở  đầu năm học nhiều em đọc ngập ngừng, các em đọc quá to hoặc quá nhỏ, chỗ  ngắt ngứ  và nhất là các em đọc  phát âm sai (đọc thêm dấu hoặc thiếu dấu  thanh). Như  vậy đối với đặc điểm và khả  năng đọc của các em như  trên tôi  luôn luôn đặt ra những yêu cầu mình cần làm gì? Học sinh chuẩn bị những gì?  Để đạt được kết quả cao trong giờ  Tập đọc và cuối cùng là sự kết hợp giữa  giáo viên và học sinh trong giờ học sao cho hài hòa, gần gũi và đạt hiệu quả.   Từ  việc nghiên cứu cơ  sở  lí luận về  dạy học và cơ  sở  thực tiễn. Tôi nhận  thấy: Thực tế dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu cần dạy Tập đọc ở  Tiểu   học. Vì thế, để khắc phục những hạn chế phát huy ưu điểm thường có ở địa   phương tôi đã đưa ra một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh lớp 3 dân tộc   thiểu số như sau: Biện pháp 1: Chuẩn bị giờ dạy của giáo viên Để  có một giờ  Tập đọc đạt hiệu quả  cao điều không thể  thiếu được đó là  khâu chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng dạy học, tôi soạn kĩ bài ở nhà chọn cách   đọc, giọng đọc hay nhất để phù hợp với nội dung bài đọc. Tham khảo tài liệu sách giáo viên Tiếng Việt 3, phương pháp dạy học  Tiếng Việt,... để  có phương pháp dạy phù hợp nhất với từng đối tượng học  sinh của lớp tôi.  Tùy từng bài Tập đọc khác nhau mà tôi chọn ra những tiếng, từ có vần khó,...  và chọn ra những câu văn luyện đọc cho phù hợp. Ví dụ:  Để  dạy bài  “Hai Bà Trưng”  tôi đã chuẩn bị: Giáo án cho bài dạy,  giọng đọc cho câu chuyện, tranh minh họa bài tập đọc và kể  chuyện trong   Tiếng Việt 3, tập 2. Bảng phụ viết sẵn câu, đoạn văn cần hướng dẫn luyện  đọc ngắt nghỉ. Bản đồ hành chính Việt Nam (hoặc vùng Bắc Bộ). Biện pháp 2: Chuẩn bị đồ dùng trực quan Tranh,  ảnh, vật thật không chỉ  đóng vai trò trong quá trình hình thành kiến   thức mới mà nó còn có vai trò rất lớn trong phần luyện nói  ở  các tiết Tập   đọc. Như  chúng ta biết  ở  lứa tuổi học sinh Tiểu học nói chung, học sinh dân tộc  thiểu số  lớp 3 nói riêng khả  năng tư  duy trừu tượng kém. Đa số  các em tiếp  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 10
  11. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 thu kiến thức phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh  ảnh, do vậy việc   chuẩn bị, sử dụng đồ dùng dạy học rất quan trọng trong các giờ học. Nhờ có   đồ  dùng dạy học mà tôi đã chuyển tải thông tin, truyền thụ  kiến thức giáo  dục tư cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh một cách khoa học. Nó   có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Nếu một tiết học   giáo viên không sử dụng đồ dùng dạy học thì tiết học đó diễn ra rất đơn điệu,   các em không hứng thú, không tập trung, tiếp thu bài thụ  động, kết quả  học   tập không cao. Vì thế  đồ  dùng dạy học đóng vai trò rất lớn quyết định hiệu   quả trong mỗi giờ học, môn học nhất là đối với các em học sinh học chậm. Ví dụ: Dạy bài “Tiếng đàn” (Tiếng Việt 3, tập 2) tôi sử dụng tranh phóng to,  đủ màu sắc tạo nên tình huống sư phạm để lôi cuốn các em vào học tập, giao   nhiệm vụ  nhóm, tổ  rõ ràng mang tính vừa sức, công bằng giúp các em khai  thác tranh liên quan đến bài học. Hay như khi dạy bài “Chiếc áo len” (Tiếng  Việt 3, tập 1) ngoài việc chuẩn bị tranh để giới thiệu bài thì tôi còn sử dụng   thêm vật thật là chiếc áo len để khai thác nội dung bài học nhằm giúp các em   có hình  ảnh thực tế  tạo điều kiện phát triển tư  duy, nhận thức về  mọi thứ  xung quanh.  Biện pháp 3: Chuẩn bị của học sinh Để giúp các em nắm được kĩ năng đọc đúng, lưu loát,… tôi hướng dẫn  học sinh cách chuẩn bị bài ở nhà, cụ thể: ­ Đọc trước bài ở nhà nhiều lần. ­ Tự tìm những câu văn dài, tự ngắt nghỉ hơi ở câu văn đó. ­ Tìm và tự giải nghĩa từ theo mục chú giải cuối bài.  ­ Đọc bài thơ, bài văn cho cha mẹ nghe và nhờ  cha mẹ nhận xét để lên  lớp đọc bài tốt hơn.  Khi ở trên lớp học sinh cần:  ­ Chú ý lắng nghe cô giáo hướng dẫn đọc phát âm tiếng dễ  lẫn, tiếng  có vần khó, cách đọc câu văn dài, đọc theo vai, đọc diễn cảm.  ­ Học hỏi một số bạn có giọng đọc lưu loát, diễn cảm. ­ Tham gia tất cả các trò chơi, cuộc thi đọc được tổ chức trong giờ tập   đọc một cách tích cực.  Nếu các em có ý thức đọc bài nghiêm túc, tích cực học hỏi và tìm tòi thì bản  thân các em sẽ  có kĩ năng đọc tốt môn Tiếng Việt. Kĩ năng đọc của các em  ngày càng tiến bộ  không những đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hay mà còn đọc  được diễn cảm bài văn, bài thơ. Biện pháp 4: Đọc mẫu của giáo viên GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 11
  12. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Đây là một hình thức trực quan sinh động có hiệu quả, có tác dụng làm mẫu   cho học sinh luyện đọc. Đã là công tác làm mẫu thì phải đủ điều kiện chuẩn   xác, kĩ năng cao hơn đặc biệt là học sinh lớp 1, 2, 3 thường hay bắt chước và  làm theo thầy, cô giáo. Do vậy, thầy cô có phong cách như  thế  nào thì học  sinh mang ảnh hưởng như thế đó. Chính vì vậy, tôi luôn nhắc nhở mình phải  là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong giờ  Tập đọc, tôi luôn đảm  bảo việc đọc mẫu của mình thật chu đáo, thật diễn cảm, nét mặt, nụ  cười,   điệu bộ,... Nếu đọc mẫu đảm bảo được 80% của bài đọc đó là sự thành công  của giờ dạy. Nó tạo được không khí sôi động, gây hứng thú cho học sinh. Nó  lôi cuốn học sinh vào áng thơ giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp của bài  văn, bài thơ tùy theo từng bài giáo viên đọc mẫu. Ví dụ:  Bài  “Cuộc chạy đua trong rừng”  (Tuần 28 – Sách giáo khoa  Tiếng Việt lớp 3, tập 2). Đọc toàn bài chú ý giọng đọc của mỗi đoạn, cụ thể: ­ Đoạn 1: Giọng đọc hào hứng, nhấn giọng  ở  những chi tiết miêu tả  hình  ảnh vui thích của ngựa con khi soi bóng mình dưới nước: “sửa soạn”,   “mải mê”, “chải chuốt”,… ­ Đoạn 2: Giọng đọc âu yếm, ân cần đối với ngựa cha, ngựa con tự tin,  ngúng ngẩy: “cha yên tâm”, “chắc chắn”, “sẽ thắng”. ­ Đoạn 3: Giọng đọc chậm, nhấn giọng  ở  các từ  ngữ  tả  muông thú  chuẩn bị cuộc đua: “sốt ruột”, “ngắm nghía”, “giữ trật tự”, “ung dung”. ­ Đoạn 4: Giọng đọc nhanh, hồi hộp, đoạn cuối đọc chậm thể hiện sự  nuối tiếc vì chủ quan của ngựa con. Bên cạnh đó, tôi chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thật cho giờ học, bảng phụ  ghi câu văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh. Hoặc khi dạy bài: “Chú ở  bên Bác Hồ” (Tiếng Việt 3, tập 2) cần đọc  với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn   giọng kéo dài ở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng   biểu lộ sự xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của   người chú.                                   Chú ở đâu, / ở đâu ? //                                   Trường Sơn dài dằng dặc ? //                                   Trường Sa đảo nổi, / chìm ? //                                   Hay Kon Tum, / Đắk Lắk ? //                                                                      Mẹ đỏ hoe đôi mắt /                                   Ba ngước lên bàn thờ : //                                   ­ Đất nước không còn giặc /                                   Chú ở bên Bác Hồ.// GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 12
  13. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3                                                       (Dương Huy) Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc  Để thực hiện được tốt 4 kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc thầm – đọc  hiểu và đọc diễn cảm, cần phải có những biện pháp thực hiện đạt hiệu quả  cao nhất. Mọi sự thành công trong tiết học phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết  kế  một bài dạy tùy từng nội dung của từng bài, từng tiết học. Do đó, cần   thiết kế giáo án cho phù hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy   tôi đã vận dụng các biện pháp sau xen lẫn vào các tiết dạy. * Luyện đọc đúng ­ Khi học sinh luyện đọc nối tiếp câu chọn ra những tiếng từ  khó mà  học sinh hay phát âm sai cho học sinh luyện đọc. Việc làm này là hết sức cần   thiết, vì có đọc được đúng mới tiến tới  đọc được hay   song đòi hỏi phải  hướng dẫn tỉ  mỉ, cụ  thể rõ ràng, có thể  sử  dụng trực quan để  học sinh thấy  được hệ thống môi, răng, lưỡi, bộ máy phát âm khi phát âm nó như thế nào.  Ví dụ:  Dạy bài “Hội Vật” các em học sinh dân tộc thiểu số  thường  đọc sai các tiếng, từ như là: “Hội vật” thì lại đọc là “hội vất”, “chống đỡ” lại  đọc  “chông đơ”, “mất đà”  đọc  “mật đa”, “Cản Ngũ”  lại đọc  “Cản Ngu”,  “Quắm   Đen”  đọc  “Quoắn   Đen”,   “loay   hoay”  lại   đọc  “loáy   hoáy”,…   Để  hướng dẫn các em đọc đúng các tiếng, từ  đó tôi gọi  học sinh đọc đúng đọc  mẫu tiếng, từ khó cho những học sinh đọc chưa đúng nghe, quan sát và luyện  phát âm lại. Tôi gọi những học sinh đọc còn sai phát âm lại nhiều lần. Như  vậy mỗi một từ khó học sinh trực tiếp nhìn bằng mắt (nhìn lỗi mình đọc sai),  được tập phát âm bằng miệng, được nghe bằng tai. Từ đó các em nhớ lâu và  đọc đúng.  ­ Khi luyện đọc từ tôi đưa ra các từ khó mà các em hay phát âm sai. Tôi   ghi lên bảng bằng phấn trắng, dùng phấn màu gạch chân dưới phụ  âm đầu  hoặc vần mà học sinh dễ lẫn để các em chú ý hơn.  Tôi phân tích cho học sinh  hiểu được sự khác biệt giữa cách phát âm đúng và cách phát âm sai mà các em  thường mắc.  Ngoài việc luyện đọc trong giờ  Tập đọc, tôi hướng dẫn học  sinh đọc yếu hay sai luyện đọc ở  các tiết ôn luyện bằng cách: Liệt kê những  cặp từ dễ lẫn cho học sinh phân biệt và luyện đọc. Ngoài ra tôi yêu cầu mỗi  em có một quyển vở ô luyện đọc. Sau mỗi bài tập đọc tìm từ và ghi lại tất cả  các tiếng và từ mà mình hay đọc sai vào vở luyện đọc và tự đọc dưới sự kiểm  tra của giáo viên và phụ huynh. ­ Đọc đúng là sự  tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần,  tiếng, đọc đúng phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là  đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương  lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm đọc đúng dấu thanh, vần, ngắt nghỉ hơi đúng  chỗ  (đọc đúng ngữ  điệu). Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể  hiện   chính xác các âm vị tiếng Việt. Học sinh lớp tôi thường hay đọc sai dấu thanh,   GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 13
  14. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 thiếu dấu thanh là do  ảnh hưởng của tiếng mẹ  đẻ. Như  vậy, cần luyện cho   học sinh cách đọc như sau: + Luyện đọc đúng các tiếng, từ  có dấu thanh, có ý thức phân biệt sai   nghĩa của từ. Khi học sinh đọc sai, tôi hướng dẫn các em tự  phát hiện ra lỗi  sai của mình và yêu cầu các em đọc phát âm lại nhiều lần hoặc tôi gọi học   sinh đọc chuẩn đọc lại tiếng từ đó để  bạn đọc sai phát hiện ra lỗi của mình   và đọc lại.  + Luyện đọc đúng các tiếng, từ có vần ay/ai, an/at, oa/ao, uyu/uy, ot/on,  anh/ang,… khi học sinh phát âm sai, tôi phát âm mẫu cho học sinh đọc theo,  nếu học sinh nào yếu thì tôi đánh vần những vần đọc sai đó.  + Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ  hơi đúng ngữ  điệu của câu  cần phải dựa vào nghĩa, quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi  cho đúng, khi đọc không được tách một từ  ra làm hai. (Ví dụ: Trời thu bận  xanh; không ngắt hơi: Trời / thu bận xanh). + Không tách với danh từ đi sau. (Ví dụ: Không đọc “Trăm cô / gái tựa /  tiên sa” mà phải đọc “Trăm cô gái / tựa tiên sa”). Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Mồ Côi xử kiện” (Tiếng Việt lớp 3, tập  1), tôi gọi một em đọc tốt đọc mẫu để cả lớp cùng được nghe sau đó yêu cầu  các em phát hiện những tiếng, từ mà các em hay đọc và nói sai sau đó hướng   dẫn phát âm đúng các từ đó. Ví dụ như từ: ngày xưa, công đường, bồi thường, … bằng cách cho các em phân tích lại cấu tạo các tiếng, từ rồi gọi nhiều em   đọc, em nào đọc chưa chuẩn tôi cho các em đọc lại từ  đó nhiều lần, rồi tôi  cùng sửa cho các em. Đối với em yếu,  tôi hướng dẫn các em đánh vần sau đó  đọc trơn lại và nhiều em được luyện đọc từ khó. Khi đọc đoạn, tôi lắng nghe   phát hiện và sửa sai ngay những tiếng, từ các em còn đọc sai nhất là cách ngắt   nghỉ. Bên cạnh đó, tôi còn giúp các hiểu nghĩa của các từ ngữ trong phần chú  giải và cung cấp thêm từ  mới sau đó giải nghĩa để  học sinh hiểu được nghĩa   của từ “đa tình” và cho các em nhắc lại nghĩa của từ đó. Thường xuyên tích hợp việc cung cấp, giảng từ, xác định từ loại, nhận   xét cấu trúc ngữ  pháp của câu khi dạy các phân môn khác của   Tiếng Việt  cũng như  các môn học khác. Từ  đó khắc phục được một phần hạn chế  của   học sinh là khó nhớ nhưng dễ quên. Với cách dạy như trên số  học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt và tôi đã  thu được kết quả  nhất định khi hướng dẫn đọc đúng tiếng, từ  cho học sinh   dân tộc thiểu số. * Luyện đọc nhanh Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, biện pháp đọc nhanh  tôi hướng dẫn cho học sinh đọc theo tốc độ  đã định. Đơn vị  đọc nhanh là  cụm, từ, câu, đoạn bài. Tôi điều chỉnh tốc độ  đọc, đo tốc độ  đọc bằng cách  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 14
  15. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 soạn sẵn bài có số  tiếng cho trước và dự  tính trong bao nhiêu phút, định tốc  độ  như  thế  nào còn phụ  thuộc vào độ  khó của bài đọc.  Trong quá trình rèn  đọc, tôi thường tổ chức học sinh thành các nhóm như sau: Nhóm 1: Học sinh khó khăn (Những học sinh tiếp thu chậm, rụt rè, nhút  nhát) tôi  tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em học chưa tốt ,  thường xuyên  khuyến khích, động viên, không gắt gỏng để các em khỏi luống cuống.  Giúp  các em tự giác, tích cực, tự tin và chủ động hơn trong học tập. Nhóm 2: Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý  đến tiết học, tôi thường để  ý thỉnh thoảng chỉ   định các em đọc tiếp. Tôi   thường xuyên quan sát, nhắc nhở, giao nhiệm vụ  luyện đọc cụ  thể  để  mỗi   tiết học các em được học tập không cảm thấy nhàm chán. Nhóm 3: Học sinh đạt chuẩn (Gồm những học sinh đọc lưu loát, diễn  cảm).  Đối với những học sinh đọc tốt  tôi động viên, khuyến khích các em  phát huy hơn nữa thành tích học tập của mình. Đồng thời cho các em hỗ  trợ  thêm các bạn học khó khăn. Sắp xếp chỗ ngồi sao cho các em có thể giúp đỡ  lẫn nhau cùng tiến bộ. Đối với học sinh khó khăn, đọc còn chậm tôi chỉ yêu cầu các em đọc tiếng  từ  khó, đọc câu ngắn và đọc được một đoạn của bài đọc. Tôi hướng dẫn các em  đánh vần sau đó đọc trơn lại và nhiều em được luyện đọc từ  khó. Khi đọc   đoạn, tôi lắng nghe phát hiện và sửa sai ngay những tiếng, từ các em còn đọc  sai nhất là cách ngắt nghỉ. Bên cạnh đó, tôi còn giúp các em hiểu nghĩa của từ  ngữ trong phần chú giải, cung cấp thêm từ mới sau đó giải nghĩa để học sinh  hiểu được nghĩa của từ, ra nhiệm vụ  rèn đọc thêm  ở  nhà. Tôi kiểm tra lại  những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh khó khăn, việc làm này tôi tiến hành   thường xuyên không ngắt quãng. Căn cứ  vào các nhóm đối tượng học sinh, tôi thiết kế  bài dạy đảm bảo dạy   cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Trong các giờ  học, tôi luôn luôn  gần gũi, thân thiện, quan tâm tất cả  học sinh nắm bắt đặc điểm tâm sinh lí  từng em. Kiểm tra  sĩ số  hàng ngày  và giành thời gian giúp đỡ  học sinh đọc  chậm, yếu. Các tiết ôn luyện tôi yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ  với 4  mức khác nhau trong cùng một giờ học. Trong lúc các nhóm thực hiện nhiệm   vụ  theo yêu cầu thì tôi theo dõi quan sát, nhắc nhở, giúp đỡ  khi các em gặp   khó khăn mà đặc biệt là các em đọc yếu. * Luyện đọc thầm – đọc hiểu Đây là kĩ năng đọc chuyển từ  ngoài vào trong, từ  đọc to đến đọc nhỏ,  đọc mấp máy môi đến đọc bằng mắt. Tôi kiểm soát quá trình đọc thầm của  học sinh bằng cách xác định đọc thầm cho học sinh từng đoạn, khi các em đọc  thầm tôi cũng phải đọc thầm theo để  phát hiện những học sinh không đọc  thầm mà đã giơ  tay (nếu thấy học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả  cô), tôi  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 15
  16. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 đưa ra câu hỏi từ đoạn đó. Nếu thấy học sinh lúng túng thì có nghĩa là em đó   không đọc bài. Ví dụ: Bài “Đôi bạn”, tôi đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc quá  nhanh thì tôi đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp nào?). Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm   hiểu nội dung bài. Từ  đó giúp các em tích cực tự  giác học tập. Đối với học  sinh tiếp thu chậm, tôi luôn động viên, khuyến khích các em đó gây được  phong trào đọc thầm cho học sinh. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Tôi hướng dẫn  học sinh tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu   tìm hiểu bài và rèn đọc. Một giờ  Tập đọc tôi cho học sinh đọc thầm nhiều   lần. Đồng thời giao nhiệm vụ cho các em trong khi đọc thầm để  kiểm tra kĩ  năng đọc hiểu. Ví dụ: Dạy bài “Giọng quê hương” (Tiếng Việt 3, tập 1). ­ Đọc thầm lần 1: Cả  lớp đọc thầm đoạn 1. Tôi giao nhiệm vụ: Tìm hiểu   xem Thuyên và Đồng cùng ăn trong quán với những ai?    ­ Đọc thầm lần 2: Cả lớp đọc thầm đoạn 2 để trả lời câu hỏi: Chuyện gì xảy  ra làm Thuyên và Đồng ngạc nhiên? ­ Đọc thầm lần 3: Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 3, gọi 1 học sinh đọc  đoạn 3. Đồng thời cả lớp đọc thầm. Tôi giao nhiệm vụ: Vì sao anh thanh niên  cảm  ơn Thuyên và Đồng? Những chi tiết nào nói lên tình cảm tha thiết của   các nhân vật đối với quê hương? Qua câu chuyện, em nghĩ gì về  giọng quê   hương? Như  vậy là tôi đã cho học sinh đọc thầm trước khi phân tích nội dung bài,   đồng thời cá nhân đọc thành tiếng để  cả lớp nắm được nội dung văn bản và  từ  đó có cách đọc đúng. Qua đó tôi đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đọc thành  tiếng và đọc thầm, từ đó giúp học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để  làm  rõ nghĩa từ, tìm các từ  gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa, thấy được vẻ  đẹp  của ngôn từ, vẻ  đẹp của cách nói văn chương, hướng dẫn các em phát hiện  những tín hiệu nghệ thuật và đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu   đạt nội dung. Ngoài hệ  thống câu hỏi tôi khuyến khích, rèn cho các em kĩ năng tự  đặt câu  hỏi, tạo các tình huống có vấn đề  một cách nhẹ  nhàng, thoải mái, giúp học   sinh phát triển vốn ngôn ngữ, tư duy của mình thông qua giờ Tập đọc. Trong   những bài Tập đọc cũng như  một số  phân môn khác, học sinh lớp tôi đều   được rèn kĩ năng này. Chính vì được đặt câu hỏi, được nghe và nhận xét bạn   trả  lời, được đưa ra đáp án cho câu trả  lời của bạn, tạo cho giờ  học một   không khí thoải mái, nhẹ  nhàng, tự  nhiên, sinh động, kích thích tính độc lập,  tích cực của các em. Chính điều này đã góp phần củng cố  cho học sinh đức  tính tự tin, giúp các em tự đánh giá được năng lực của chính mình. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 16
  17. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Vậy là khi được tham gia vị  trí người hỏi, lắng nghe bạn trả  lời, đưa ra đáp  án đúng – sai, tôi nhận thấy giờ học sinh động, học sinh hứng thú học bài, học   sinh tích cực chủ động để chiếm lĩnh tri thức mới. Bên cạnh đó trong khi rèn kĩ năng đọc cũng nên chú trọng quan điểm “tích   hợp”, rèn đọc cho các em không chỉ giờ Tập đọc mà tất cả các môn khác. Tập  cho học sinh lướt qua văn bản để  phân loại được thể  loại văn bản, từ  đó có  phong cách, giọng đọc phù hợp với nội dung. * Luyện đọc diễn cảm ­ Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ  ngữ  điệu để  bộc lộ  cảm xúc của  bài đọc, đọc diễn cảm không những đạt được yêu cầu đọc đúng mà còn kèm  theo cử chỉ, lời nói để góp phần diễn tả nội dung bài. ­ Qua thực tế  giảng dạy trên lớp, tôi thấy để  đọc được diễn cảm cần   chuẩn bị các bước sau: + Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kĩ bài để  thể  hiện  được ngữ điệu đọc, cường độ đọc bài đó ra sao, đọc cao giọng, nhấn giọng ở  những từ nào, nét mặt vui, buồn thể hiện ở những từ ngữ nào trong bài. + Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao   cho phù hợp với nội dung bài đọc đó. Khi đến lớp tôi hướng dẫn học sinh có  thể tiếp thu nhanh cách đọc đúng và đọc diễn cảm. Ví dụ: Vui tươi, hồn nhiên như khi dạy đọc bài “Cùng vui chơi”. Ngày đẹp lắm / bạn ơi /                       Quả cầu giấy / xanh xanh / Nắng vàng trải khắp nơi /                    Qua chân tôi, / chân anh / Chim ca trong bóng lá /                       Bay lên / rồi lộn xuống / Ra sân / ta cùng chơi. //                       Đi từng vòng quanh quanh. // Đối với các bài thơ, tuỳ  theo từng thể loại thơ  mà tôi hướng dẫn học  sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. Đồng Đăng / có phố Kì Lừa, / (2/4) Có nàng Tô Thị, / có chùa Tam Thanh. // (4/4) Đường vô xứ Nghệ / quanh quanh, / (4/2) Non xanh nước biếc / như tranh hoạ đồ. // (4/4) Đồng Tháp Mười / cò bay thẳng cánh / (3/4) Nước Tháp Mười / lóng lánh cá tôm. // (3/4)             (Cảnh đẹp non sông ­ Tiếng Việt 3, tập 1) GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 17
  18. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm   điệu mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải  dựa vào các dòng cụ  thể  để  ngắt nhịp cho đúng. Khi ngắt nhịp đúng câu thơ  thì ý nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ để  người nghe thấy được vẻ  đẹp của   đất nước Việt Nam. Đối với bài tập có lời đối thoại, tôi xây dựng màn kịch ngắn với nội   dung của bài, học sinh sắm các vai nhân vật đó để đọc bài. Ví dụ: Bài “Cuốn sổ tay”, các nhân vật trong chuyện rất phù hợp với  lứa tuổi của các em, sôi nổi, hào hứng, hồn nhiên, các em sắm vai: (Thanh,  Tuấn,   Lân,   Tùng).  Lời   nói   của   người   dẫn  chuyện   giọng  điệu   hồn   nhiên,  giọng của Lân có vẻ  ngại ngần, giọng của Thanh quả quyết, dứt khoát, hào  hứng; giọng của Tùng vẻ thách thức, dí dỏm và rất tự tin… Sau đó tôi gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc bài,   như  vậy tất cả  học sinh đều làm việc, được luyện nói và thể  hiện nét mặt   thông qua các nhân vật mà mình nhập vai. Qua các giờ học như vậy, học sinh   sẽ tiến bộ dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân mình, tạo ra tiết học đạt kết   quả cao. * Luyện đọc thuộc lòng Ở  những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, tôi chú ý kết hợp  luyện đọc thành tiếng bằng cách tổ  chức đọc cá nhân riêng lẻ  hoặc nối tiếp   đọc đồng thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh. Ở những bài dạy có yêu cầu học thuộc lòng, tôi cho học sinh luyện đọc  kĩ hơn.  Có thể  ghi bảng một số  từ  làm “điểm tựa” cho học sinh dễ  nhớ  và  đọc thuộc, sau đó xóa dần hết từ làm “điểm tựa” để  học sinh tự  nhớ  và đọc  thuộc toàn bài.  Tổ  chức thi luyện học thuộc lòng một cách nhẹ  nhàng gây  hứng thú cho học sinh. Khi học sinh đọc, tôi thường chú ý theo dõi để có cách  rèn luyện thích hợp với từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp, trao đổi, nhận  xét về chỗ được, chỗ chưa được của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm   để tự tin và đọc tốt hơn. Ví dụ: Học thuộc lòng bài “Về quê ngoại” tôi hương dân  ́ ̃ học sinh thực  ̣ ́ ươc sau: hiên theo cac b ́  Tôi đọc diễn cảm 1 lần. Gọi 1 học sinh đọc lại. Tổ  chức cho lớp đọc đồng thanh, luyên đoc xoa dân bang ̣ ̣ ́ ̀ ̉ , xoa t ́ ưng cum t ̀ ̣ ừ đên ́  ̉ ̀ khi chi con nh ưng t ̃ ừ đâu câu lam điêm t ̀ ̀ ̉ ựa. Luyên đoc theo ban, tô, day ban. ̣ ̣ ̀ ̉ ̃ ̀   Học sinh thi đoc thuôc long khô th ̣ ̣ ̀ ̉ ơ, ca bai th ̉ ̀ ơ. Nhận xét, tuyên dương.  Phần ghi bảng: Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn, xúc tích  đảm bảo tính khoa học và tính sư  phạm, hình thức trình bày mang tính thẩm   mỹ có tác dụng giáo dục học sinh, Việc ghi bảng cần kết hợp nhịp nhàng với   tiến trình của tiết dạy nhằm đem lại hiệu quả trực quan cao nhất. Biện pháp 6: Tổ chức giờ học thân thiện ­ học sinh tích cực GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 18
  19. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Theo tôi, đây là một biện pháp rất có ý nghĩa trong các giờ  học đối với  học sinh dân tộc thiểu số.  Ở đây học sinh thường đi học theo cảm tính, thích   đi thì đi, không thích thì nghỉ, học sinh chưa thấy được mục đích, nhiệm vụ  phải đi học đều, đầy đủ, hơn nữa ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu động,  nếu giờ học chỉ đọc và trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú học tập,   không khích lệ được học sinh khó khăn vươn lên, không tạo được môi trường  thân thiện để  các em thích đến lớp học. Chính vì vậy, trong giờ Tập đọc tôi  kết hợp cho học sinh tham gia các trò chơi học tập mang tính chất hòa đồng  thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò với trò. Nếu là bài học có hội thoại thì tôi  cùng sắm vai với học sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn. Còn đối với   các thể loại khác, tôi tổ chức trò chơi đọc truyền điệu. Tôi đọc câu 1, gọi một  em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như vậy   lần lượt   đọc  hết   bài. Với  phương pháp  này  học  sinh  tham gia   đọc  được  nhiều, các em lại chú ý vào bài đọc một cách vui vẻ, nếu không chú ý không  đọc được. Khi đọc truyền điệu các em rất chăm chú và trật tự, nên giờ  học   đạt kết quả cao, các em thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo được  môi trường thân thiện, học sinh tích cực. Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ  thi nhau đọc đúng,   đọc lưu loát, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc   chưa đúng, giờ đã đọc tốt hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các môn   học khác. Ngoài ra tôi còn tổ  chức cho các em học nhóm  ở  gia đình, giao   nhiệm vụ cho các em đọc tốt kèm cặp bạn đọc yếu ở nhà vào ngày nghỉ, giúp  các em được giao lưu học hỏi nhiều hơn. Biện pháp 7: Tăng cường Tiếng Việt và bài tập bổ  trợ  cho học  sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Dạy tăng cường Tiếng Việt nhằm mục  đích cung cấp thêm vốn từ  Tiếng Việt làm giàu vốn từ  cho học sinh dân tộc thiểu số, tăng cường thực   hành giao tiếp bằng Tiếng Việt cho các em. Tích hợp dạy tăng cường Tiếng  Việt trong các môn học, các hoạt động giáo dục cũng như dạy tăng cường vào   các tiết Tập đọc. Vận dụng các phương pháp dạy tăng cường Tiếng Việt với   tư  cách dạy học ngôn ngữ  thứ  hai, tăng thời gian rèn luyện kĩ năng nghe, nói  cho học sinh giúp các em có nhiều cơ hội, thời gian giao tiếp bằng tiếng phổ  thông với cô giáo và bạn bè. Ví dụ: Khi dạy các bài Tập đọc tôi tăng cường Tiếng Việt cho học sinh  bằng cách đọc lại các từ  khó các em còn phát âm sai luyện đọc nhiều lần  hoặc tăng cường Tiếng Việt trong p hần luyện đọc, tăng cường luyện đọc  đúng dấu thanh cho học sinh dân tộc thiểu số. Hoặc như môn Tập Viết thì tôi   cho học sinh tăng cường luyện đọc từ  và câu  ứng dụng. Hay như  môn Toán  thì tôi tăng cường Tiếng Việt bằng cách cho học sinh nhắc lại nhiều lần lời   giải của bài toán;... GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 19
  20. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 Xây dựng hệ thống bài tập bổ trợ môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc  thiểu số nhằm bổ trợ cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt  để  giúp các em học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác. Cung cấp   những kiến thức bổ trợ về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp Tiếng Việt,   phục vụ  yêu cầu rèn luyện kĩ năng và thực hành giao tiếp bằng Tiếng Việt.   Mở rộng hiểu biết về con người, cuộc sống, văn hóa, văn học của đất nước  Việt Nam. Trong quá trình giảng dạy thì bài tập bổ trợ môn Tiếng Việt được   tôi thực hiện dạy lồng ghép vào tiết ôn luyện Tiếng Việt, tôi chọn trong bài  bổ trợ những bài tập nhỏ phù hợp với những khó khăn của học sinh trong lớp   để  dạy. Học sinh sử  dụng sách bài tập bổ  trợ  môn Tiếng Việt theo hướng   dẫn và tự học. Bên cạnh đó, tôi linh động vận dụng nhiều phương pháp giảng  dạy hiệu quả và phù hợp với điều kiện và đặc điểm học sinh. Biện pháp 8 Chơi trò chơi luyện đọc Trong giờ Tập đọc, phần sử dụng trò chơi luyện đọc cũng hết sức quan  trọng. Nó làm thay đổi trạng thái học của học sinh, tạo cho giờ học có không  khí sôi động, góp phần rèn kĩ năng đọc cho các em học sinh  ở  nhiều góc độ  khác nhau. Do đó, tôi nghiên cứu từng bài để chọn trò chơi phù hợp và có hiệu  quả.  Ví dụ: Bài “Chú  ở  bên Bác Hồ”, tôi phát 3 phiếu mỗi phiếu ghi dòng  thơ đầu của mỗi khổ thơ. Bốn em mỗi em bốc một phiếu, tôi hô "bắt đầu" thì  các em đọc lần lượt từ số 1 đọc các dòng thơ ở khổ 1. Tiếp đến là phiếu số 2   và cuối cùng là phiếu số 3. Cứ như thế trò chơi kết thúc các em đã đọc thuộc  bài mà không nhìn sách. Trò chơi tác dụng rèn trí nhớ  và cách đọc trôi chảy   lưu loát cho học sinh. Chuẩn bị các tấm bìa bằng giấy phục vụ trò chơi học tập. Dạy các bài   có nội dung học thuộc lòng, khi học sinh đã thuộc bài, tôi ghi các tiếng đầu  của từng khổ  thơ hoặc số thứ tự vào các phiếu (bông hoa giấy) tổ  chức cho   học sinh lên hái hoa đọc theo yêu cầu. Hoặc khi dạy bài:  Báo cáo kết quả  tháng thi đua “Noi gương chú bộ   đội” (Tiếng Việt 3, tập 2), tôi chuẩn bị  băng giấy, tổ  chức cho học sinh thi  gắn và đọc nhanh bằng hình thức trò chơi “Gắn đúng vào nội dung báo cáo”. Với sự  chuẩn bị  chu đáo của cô và trò cho mỗi bài Tập đọc, các biện  pháp rèn đọc kết hợp với trò chơi học tập tôi đã thu được kết quả nhất định.  Đó là kĩ năng đọc của các em ngày càng tiến bộ  hơn, học sinh sôi nổi, hào  hứng hơn trong các tiết Tập đọc. Nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt. Biện pháp 9: Kết hợp giữa gia đình và nhà trường Thời gian các em học tập  ở  trường tuy nhiều nhưng số  tiết cho phân  môn Tập đọc chỉ được 4 tiết trong đó có 1 tiết ôn luyện, ngoài ra còn học các   môn học khác. Vì vậy, về nhà các em phải có thời gian học tập. Đối với học   sinh khó khăn cha mẹ  chưa quan tâm nhiều đến các em. Chính vì vậy, tôi đã  GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1