intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho học sinh THCS

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

28
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm giúp giáo viên hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động đọc- hiểu theo quan niệm đổi mới trong việc day-học môn Ngữ Văn, từ đó có hướng đổi mới trong giảng dạy. Đưa ra một số thao tác cơ bản để có thể giúp giáo viên, học sinh thực hiện việc đọc- hiểu văn bản một cách khoa học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho học sinh THCS

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG  ĐỌC­ HIỂU VĂN BẢN CHO HỌC SINH  THCS HOÀNG MINH SƠN Họ và tên:  HOÀNG MINH SƠN    Chức vụ:   Giáo viên Đơn vị:      TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA Trình độ đào tạo: CĐSP Chuyên môn: Ngữ văn NĂM HỌC 2016­2017 1
  2.            MỤC LỤC MỤC LỤC......................................................................................................................... 2 PHẦN I: MỞ ĐẦU............................................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài:...................................................................................................... 3 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:................................................................................... 4 3. Đối tượng nghiên cứu:.............................................................................................. 4 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: ................................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................ 5 PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI............................................................................................ 5 I. Cơ sở lý luận: ............................................................................................................ 6 2. Đọc –hiểu văn bản và quan niệm đổi mới trong dạy và học văn:........................... 7 II. Thực trạng vấn đề:.................................................................................................... 9 1.Thuận lợi chung: .................................................................................................... 9 2. Khó khăn: ........................................................................................................... 10 III. Một số biện pháp đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc-hiểu văn bản cho học sinh:....11 3. Biện pháp 3 : Dựa vào tên gọi để xác định ý chính của nội dung văn bản .........14 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................... 26                                                                                                       2
  3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU  VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Đổi mới  phương pháp dạy học là một nhiệm vụ  trọng tâm  trong trường phổ  thông hiện nay. Môn Ngữ  Văn là môn học công cụ, có  vai  trò   rất  quan  trọng  trong  việc  hình  thành  phẩm  chất,  năng  lực  của   người học nên càng phải tích cực đổi mới về mọi mặt. 1.2. Theo quan điểm đổi mới, việc dạy và học văn trước đây gọi là  Giảng văn, nay được gọi là đọc­hiểu văn bản. Thuật ngữ   đọc­hiểu văn   bản được chính thức dùng trong sách giáo khoa từ đợt thay sách năm 2002.   Việc dùng thuật ngữ này cho thấy sự thay đổi về  bản chất của việc dạy   và học văn  ở  trường phổ  thông. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu một  cách đầy đủ, thấu đáo về  thuật ngữ  này. Từ  đó dẫn đến việc thực hiện  đọc­hiểu trong giờ học văn bản vẫn còn nhiều bất cập. 1.3. Bộ  môn Ngữ  Văn gồm 3 phân môn : Văn học, Tiếng Việt và  Tập Làm Văn. Với phân môn Văn học, người học muốn hiểu văn bản,   muốn chiếm lĩnh tác phẩm thì việc đầu tiên là phải đọc. Vì thế, đọc là  hoạt động cơ  bản, là điều kiện tiên quyết mà người học phải thực hiện   khi học văn bản.  1.4. Đọc phải có phương pháp thì mới hiểu được văn bản chứ  đọc   không đơn giản chỉ  là một hoạt động cơ  học thuần túy. Muốn hiểu thì  phải đọc. Đọc rồi phải hiểu. Đọc mà không hiểu hoặc hiểu một cách hời   hợt thì coi như không đạt mục tiêu của việc học.  3
  4. 1.5. Trên thực tế, vẫn còn nhiều giáo viên do chưa hiểu rõ bản chất  của hoạt động đọc­hiểu nên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh những   thao tác tư  duy cần thiết dẫn đến nhiều học sinh kỹ  năng đọc ­ hiểu còn  yếu. Có thể nói hoạt động đọc­ hiểu là hoạt động cơ bản nhất của việc  học văn. Nó có tính chất quyết định đối với chất lượng dạy và học. Tuy   nhiên, hiện nay việc dạy đọc ­ hiểu chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì  những lý do đó nên tôi chọn đề  tài Một số  biện pháp rèn kỹ  năng đọc ­   hiểu văn bản cho học sinh THCS để nghiên cứu.  2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: ­ Giúp giáo viên hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động đọc­ hiểu   theo   quan   niệm   đổi   mới   trong   việc   day­học   môn   Ngữ   Văn.   Từ   đó   có  hướng đổi mới trong giảng dạy. ­ Đưa ra một số  thao tác cơ  bản để  có thể  giúp giáo viên, học sinh  thực hiện việc đọc­ hiểu văn bản một cách khoa học ­ Giáo viên phát hiện những tồn tại, yếu kém, sai sót trong việc học  văn bản của học sinh, hướng dẫn học sinh những kỹ  năng cơ  bản cần  thiết khi đọc –hiểu văn bản, giúp học sinh có cách học khoa học hơn, hiểu   vấn đề rõ hơn, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn. 3. Đối tượng nghiên cứu: ­ Hoạt động đọc­hiểu và những kỹ  năng cơ  bản để  rèn luyện cho  học sinh THCS. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:   4.1. Phân môn Văn học của bộ  môn Ngữ  Văn cấp THCS đưa ra 6  kiểu văn bản để  giảng dạy : văn bản tự  sự, văn bản miêu tả, văn bản   biểu cảm, văn bản nghị luận, văn bản thuyết minh và văn bản hành chính­ 4
  5. công vụ. Do đặc thù về  kiểu văn bản và thể  loại, đề  tài này chủ  yếu   nghiên cứu trong phạm vi văn xuôi với các kiểu văn bản tự  sự, miêu tả,  nghị  luận và biểu cảm, là những kiểu văn bản chiếm phần lớn số  tiết   trong chương trình, không đề  cập đến các văn bản thơ  hay hành chính­ công vụ… 4.2. Đề tài này được rút ra từ thực tế giảng dạy trong nhiều năm ở  các khối lớp, trong giờ học văn bản.  5. Phương pháp nghiên cứu: ­  Tìm hiểu, phân tích những quan điểm về  vấn đề  đọc­ hiểu văn  bản trong dạy và học ngữ văn trong trường phổ thông. ­ Tìm hiểu, phân tích cấu tạo chương trình, chuẩn kiến thức kỹ  năng phân môn văn học (đọc­hiểu văn bản) Ngữ  văn THCS từ  lớp 6 đến  lớp 9. ­ Trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy ở các trường THCS khác  để thấy những thiếu sót có tính phổ biến trong việc đọc­hiểu văn bản của  thầy và trò nói chung. ­ Nghiên cứu những tài liệu về  việc dạy và học văn nhằm tìm ra  những vấn đề chưa được hoặc còn ít đề cập xung quanh việc dạy và học  văn bản. ­  Phân tích, tổng hợp các biện pháp để  rèn kỹ  năng đọc­hiểu cho   học sinh. PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN  BẢN CHO HỌC SINH THCS 5
  6. I. Cơ sở lý luận:  1. Dạy và học văn theo phương pháp truyền thống:  Hoạt   động  dạy học văn trong nhà trường phổ  thông đã trải qua những lần đổi tên từ  giảng văn qua phân tích tác phẩm văn học đến dạy học tác phẩm văn   chương và hiện nay là đọc hiểu văn vản. Việc thay đổi tên gọi không đơn  thuần chỉ là sự  thay đổi về hình thức mà đằng sau mỗi tên gọi là cả  một   hệ thống quan niệm dạy học gắn liền với bản chất của nó.  1.1. Tên gọi giảng văn : Trong dạy và học theo phương pháp truyền  thống, môn văn được gọi là giảng văn. Sách giáo khoa môn Văn được gọi  là Trích giảng Văn học.    Tên gọi này  gắn liền với quan niệm dạy học  truyền thống. Quan niệm dạy học cũ xem giáo viên là nhân tố  trung tâm,   hàng đầu của dạy học. Giáo viên giữ một vị trí độc tôn trong quá trình dạy   học. Tên gọi này cho thấy bản chất của hoạt động dạy học đó là truyền  thụ tri thức, chứng minh chân lí của giáo viên thông qua việc giảng giải, cắt  nghĩa tác phẩm văn chương của mình. Học sinh chỉ  việc ngồi nghe, ghi   chép lại những gì mà thầy giảng. “Các giờ giảng văn trên lớp giáo viên chủ  yếu là thuyết trình, giảng giải cho học sinh nghe những điều thầy cô giáo  hiểu và cảm nhận được về  tác phẩm  ấy, còn bản thân học sinh hiểu và  cảm nhận như thế nào thì không cần chú ý” . 1.2. Tên gọi phân tích tác phẩm văn học: tên gọi này xuất khoảng  những năm 1970, vẫn nằm trong quan niệm dạy học truyền thống. Bản   chất của nó cũng không khác mấy so với giảng văn. Hoạt động phân tích   chủ yếu cũng chỉ là một hình thức giảng văn của giáo viên mà thôi. Thuật  ngữ  giảng văn hay phân tích tác phẩm văn học đều xem ý nghĩa của tác   phẩm là một cái gì cố  định, có sẵn. Nhiệm vụ  của giáo viên là chỉ  cần  giảng giải, phân tích ra mà thôi. Vì vậy mà xét về  mặt bản chất thì hai   thuật ngữ  này không có gì khác biệt nhiều. Giáo viên là người chủ  động  6
  7. cung cấp kiến thức cho học sinh còn học sinh là đối tượng thụ động tiếp   thu kiến thức một chiều. 1.3. Thuật ngữ dạy học tác phẩm văn chương ­ Đầu những năm 80  ra đời thuật ngữ dạy học tác phẩm văn chương với những ý kiến đề xuất  thay thế cho thuật ngữ “Giảng văn” vì giảng văn là mô hình dạy học đã tỏ  ra lỗi thời, quá lạc hậu so với thực tiễn. Thuật ngữ này phản ánh sự  cân  bằng giữa hoạt động dạy và học, sự  tương tác giữa hoạt động của giáo  viên và hoạt động của học sinh. Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy,   học sinh là chủ  thể  của hoạt động học.   Nhưng điểm bất cập của việc  dạy học tác phẩm văn chương là chưa xác định được nhân tố  trung tâm  của hoạt động dạy học, nhất là phương hướng dạy học hướng vào học   sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Thêm vào đó, như  tên gọi của nó, thuật  ngữ   này   đề   ra   yêu   cầu   chỉ   tuyển   chọn   những   tác   phẩm   có   chất   văn   chương để  giảng dạy. Đây là quan niệm hẹp hòi về  văn  ở  trường phổ  thông. Tóm lại, tên gọi cũng như cách dạy này vẫn chưa làm thay đổi triệt  để bản chất của hoạt động dạy và học văn. 2. Đọc –hiểu văn bản và quan niệm đổi mới trong dạy và học văn: 2.1. Những hạn chế  của các tên gọi trên đã dẫn đến sự  ra đời của  thuật ngữ  đọc hiểu để  thay thế  chúng. Thuật ngữ  đọc hiểu lần đầu tiên   xuất hiện trong cuốn Ngữ văn 6 (2002). Trước đây tương ứng với ba phân  môn chúng ta có ba bộ  sách giáo khoa độc lập là  Văn học, Làm văn  và  Tiếng Việt, nay hợp nhất lại trong cuốn  Ngữ  văn. Theo đó tên gọi giảng  văn, phân tích tác phẩm văn học, dạy học tác phẩm văn chương được đổi  thành dạy đọc hiểu văn bản.  ­ Sự thay đổi về mặt bản chất của hoạt động tìm hiểu văn bản của  môn Ngữ  văn qua tên gọi đọc ­hiểu được thể  hiện qua nội hàm của khái   niệm “đọc” và “hiểu” trong quan niệm về dạy học hiện nay. 7
  8. 2.2. Một số quan điểm về đọc­ hiểu văn bản :  2.2.1.Đọc  ở  đây không phải chỉ  là hoạt động biến các ký tự  thành  âm thanh ngôn ngữ, mà là một quá trình nhận thức. Thông qua việc đọc,  người đọc sẽ  phải giải mã các ngôn ngữ, hình  ảnh nghệ  thuật để  tiếp  nhận tác phẩm  ở  nhiều góc độ  khác nhau. Từ  đó hình thành một thái độ,   tư tưởng, tình cảm, kỹ năng sống nhất định. 2.2.2.Trong quan niệm thông thường “hiểu” là nắm vững và vận  dụng được, hiểu là nhận biết một tri thức nào đó, nhớ được, nhắc đúng tri  thức. “Hiểu” có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của một từ, câu, sự  kiện cụ  thể; hiểu nghĩa hàm  ẩn của các yếu tố  cấu thành văn bản; nắm bắt chủ  đề, thông điệp của tác phẩm và hiểu gắn liền với cảm xúc hành động.  Theo GS. Trần Đình Sử thì “hiểu thực chất là tự hiểu, nghĩa là làm   cho nảy sinh, sinh thành trong ý thức của người học một tri thức mong   muốn, nghĩa là làm cho thay đổi tính chất chủ quan của người học”. Trong  dạy đọc hiểu văn bản học sinh phải tự mình hiểu lấy ý nghĩa của văn bản   chứ  giáo viên không thể  hiểu thay học sinh. “Hiểu” là nhận ra những gì  mình biết và những gì mình chưa biết để  cấu trúc lại nhận thức của bản  thân. “Hiểu” gắn liền với giải thích,  ứng dụng, mô hình hoá được đối   tượng. Học sinh sau khi tìm hiểu ý nghĩa của một văn bản thuộc một thể  loại nào đó thì phải biết vận dụng để đọc hiểu những văn bản cùng loại. 2.2.3. Đọc  ở  đây không bó hẹp trong đọc diễn cảm mà phải gắn  liền với sự hiểu. Với thuật ngữ đọc­ hiểu, giờ giảng văn hay phân tích tác  phẩm văn học hay dạy học tác phẩm văn chương trước đây đã mang tính   chất khác. Giờ  học văn không còn là giờ    thuyết giảng của giáo viên và  không còn là giờ học sinh chỉ cần ngồi nghe, ghi chép một cách thụ  động  mà là học sinh dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của giáo viên tự  mình chiếm   lĩnh tri thức, chiếm lĩnh văn bản. Giờ  dạy học văn là giờ  giáo viên dạy  8
  9. học sinh đọc hiểu, học sinh học cách đọc hiểu. Học sinh phải tự mình đọc  hiểu chứ giáo viên không đọc hộ  hiểu thay học sinh như trước đây. Theo   giáo sư  Trần Đình Sử  “dạy học văn trong nhà trường chỉ  có thể  là thầy  dạy đọc văn, trò học đọc văn chứ không thể có gì khác. Và môn học riêng  về  văn bản văn học trong nhà trường chỉ  có thể  định danh là môn đọc   văn”. Tóm lại, với những nội dung mới của “đọc” và “hiểu” trong dạy   đọc ­ hiểu hiện nay được trình bày ở trên thì tên gọi đọc hiểu đã cho thấy  sự thay đổi về mặt bản chất của hoạt động dạy học văn so với những tên  gọi trước đó. Bản chất của dạy học văn không còn là sự  truyền thụ  tri   thức một chiều mà là sự  tổ  chức cho hoạt động của học sinh, dạy học   sinh tìm ra chân lí, phát huy được tính tích cực, chủ  động của học sinh   trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Dạy là dạy tự  học và học là học tự  học. Do đó hiểu bản chất của môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể  hiện  cách hiểu thực sự  bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất của   việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực chủ thể của học sinh.  Với những quan niệm mới về  “đọc” và “hiểu” như  trên thì rõ ràng  bản chất của dạy đọc hiểu đã thay đổi về  chất so với các hoạt động tìm   hiểu văn bản trước đây. Mỗi bản thân học sinh phải tự mình đọc hiểu lấy  văn bản dưới sự  hướng dẫn của giáo viên chứ  giáo viên không còn cảm  thụ thay, hiểu thay cho học sinh như trước. Dạy học đọc­ hiểu văn bản   là dạy cho học sinh cách tự học, bao gồm cả hiểu và cảm thụ văn bản. II. Thực trạng vấn đề: 1.Thuận lợi chung:  ­ Phân phối chương trình Ngữ Văn THCS quy định số tiết ở các lớp   6,7,8 là 4 tiết /tuần, trong đó có 2 tiết học văn bản, 1 tiết Tiếng Việt và 1   9
  10. tiết Tập Làm Văn. Lớp 9 là 5 tiết /tuần, trong đó học văn bản 3 tiết, Tiếng   Việt 1 tiết và Tập Làm Văn 1 tiết. Như vậy, số tiết học văn bản chiếm tỉ  lệ cao so với số tiết học Tiếng Việt và Tập Làm Văn.  ­ Bên cạnh sách giáo khoa, Bộ Giáo dục còn cho phát hành nhiều tài   liệu tham khảo như  sách giáo viên, sách bài tập Ngữ  Văn và nhiều sách   tham khảo khác thuận lợi cho giáo viên và học sinh. ­ Hàng năm, giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tập   huấn về các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. 2. Khó khăn: ­ Thuật ngữ  đọc hiểu xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn sách Ngữ  văn tích hợp (Ngữ văn 6 ­ 2002) nhưng đến nay thì vẫn chưa có một định  nghĩa rõ ràng, một cách hiểu thống nhất về nó. Đã có nhiều bài viết trên  các tạp chí chuyên ngành, các chuyên luận của các tác giả  đầu ngành về  vấn đề  đọc hiểu. Tuy nhiên, hầu hết còn lúng túng trong việc xác định  thuật ngữ  đọc hiểu. Đến nay chưa có một khái niệm chính thức về  đọc   hiểu.  ­  Mỗi người  đưa ra một cách hiểu riêng, quan niệm riêng về  đọc – hiểu. Bên cạnh đó vẫn không ít ý kiến trái chiều, không đồng tình với việc  sử dụng thuật ngữ đọc hiểu. Đây là một vấn đề đang cần được giải quyết  một cách thấu đáo cho tên gọi của một hoạt động quan trọng bậc nhất  của môn Ngữ văn.  ­   Chương   trình,   sách   giáo   khoa   Ngữ   Văn   các   lớp   6,7,8,9   vẫn   còn   nhiều văn bản không tiêu biểu, khô khan, thiếu chất văn chương nên dẫn  đến việc đọc­hiểu không hấp dẫn được học sinh. Hệ thống câu hỏi trong  phần hướng dẫn đọc hiểu  ở  cuối mỗi văn bản vẫn chưa thực sự  theo   hướng kích thích, phát huy năng lực đọc hiểu ở học sinh. 10
  11. ­ Đọc –hiểu văn bản là bước đột phá trong đổi mới dạy và học môn   Ngữ  Văn. Việc đổi mới đòi hỏi sự  nỗ  lực của mỗi giáo viên. Tuy nhiên   không ít giáo viên vẫn còn tư  tưởng chủ  quan cho rằng việc dùng thuật   ngữ  đọc hiểu văn bản chỉ  là hình thức, kiểu “bình mới rượu cũ” mà thôi;  hoặc còn tư  tưởng ngại đổi mới nên vẫn nghiêng về  cách dạy truyền  thống hoặc có đổi mới nhưng là đổi mới nửa vời. Do vậy, còn thiếu sự  đầu tư cho việc nghiên cứu, tìm tòi, không quan tâm đến việc rèn kỹ năng  đọc hiểu văn bản cho học sinh. ­ Đổi mới phương pháp dạy học phải kèm theo việc đổi mới trong  kiểm tra đánh giá học sinh. Tuy nhiên việc kiểm tra miệng cũng như kiểm  tra viết nhiều lúc, nhiều nơi còn thiên về  ra câu hỏi kiểm tra học sinh  thuộc lòng, ghi nhớ kiến thức một cách máy móc, thụ động… Trong các kì  kiểm tra… nhiều khi những người ra đề vẫn ra đề bài theo kiểu cũ (kiểm   tra việc ghi nhớ, thuộc lòng…) thế  là tạo ra tình huống trống đánh xuôi  kèn thổi ngược trong môn học, khiến cho việc đọc hiểu vẫn chưa được  thực thi nhất quán trong nhà trường. III. Một số biện pháp đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc­hiểu văn  bản cho học sinh: Văn bản tồn tại  ở nhiều dạng, có văn bản ngắn chỉ một câu như tục   ngữ, thành ngữ. Có văn bản chỉ là một đoạn văn ngắn, một trích đoạn một  vài trang. Có văn bản dài vài chục trang hay hàng nghìn trang như  một  truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết… Nhưng dù là ngắn hay dài, muốn  hiểu được văn bản thì việc đầu tiên là phải đọc. Giáo viên phải yêu cầu  học sinh đọc trước  ở  nhà. Trong chương trình Ngữ  Văn THCS, các văn  bản nhìn chung không quá dài. Bố cục, cách trình bày, lập luận không quá  phức tạp. Nên việc học sinh tự  đọc trước  ở  nhà, bước đầu nắm sơ  lược  nội dung văn bản là hoàn toàn có thể thực hiện được. 11
  12. Nhưng để giúp cho học sinh hiểu một cách toàn diện các giá trị của   văn bản, giáo viên cần phải có sự  hướng dẫn, giúp cho học sinh có các   thao tác tư duy cần thiết, hình thành phương pháp chung. Có thể thực hiện  các biện pháp để rèn kỹ năng đọc­hiểu văn bản cho học sinh như sau: 1.Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh cách đọc hiểu phần chú thích:  ­ Mục tiêu: giúp học sinh xác định được các ý chính cần nắm trong   khâu tìm hiểu chung về tác giả, văn bản ­ Nội dung của biện pháp: Cuối mỗi văn bản bao giờ  cũng là phần  chú thích.  Phần chú thích gồm hai ý: giới thiệu về  tác giả, tác phẩm và  giải nghĩa từ  khó của bài. Tùy theo từng tác giả, tác phẩm mà sách giáo  khoa giới thiệu dài hay ngắn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách hiểu  chú thích một cách ngắn gọn nhất, ghi thật ngắn gọn những ý cơ  bản về  tác giả, tác phẩm.  Về phần giới thiệu tác phẩm, chỉ hướng dẫn học sinh   ghi chép về văn bản được tìm hiểu trong tiết học, còn tất cả các thông tin   khác về  các tác phẩm chính (nếu có) thì tìm hiểu theo sách khoa . Ví dụ:  Khi dạy văn bản  Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê (Ngữ  Văn 9­tập 2), phần đọc hiểu chú thích có thể  hướng dẫn học sinh đọc  hiểu và ghi như sau: I. Giới thiệu chung: 1. Tác giả:  ­ Lê Minh Khuê (1949). Quê: Thanh Hóa. ­ Gia nhập TNXP đầu những năm 70. (Đây là điểm nổi bật của tiểu  sử tác giả lên quan đến các sáng tác) ­ Chuyên viết truyện ngắn.  (Đây là nhận định về  phong cách sáng  tác). 2.   Văn   bản:   Truyện   viết   về   các   cô   gái  TNXP   trên   tuyến   đường   Trường Sơn (1971). 12
  13. Phần giải nghĩa từ yêu cầu học sinh tự tìm hiểu trong quá trình soạn  bài ở nhà, vừa để  đỡ  mất thời gian trên lớp vừa để  học sinh có thói quen   tìm hiểu từ  ngữ  trong học văn. Giáo viên có thể  yêu cầu giải nghĩa từ  trong quá trình tìm hiểu bài mới để  kiểm tra mức độ  chuẩn bị  của học   sinh.  Giáo viên cần tránh việc cho học sinh ghi chép lại y nguyên phần  giới thiệu tác giả, tác phầm trong sách giáo khoa vì làm như vậy vừa thừa  (trong sách đã có) vừa dài dòng, khó nhớ, khó hiểu. Mà cần chú ý tập cho   học sinh thói quen tìm hiểu chú thích, biết cách tóm lược được những ý cơ  bản nhất về tác giả, văn bản. Đó chính là một yêu cầu để hiểu văn bản ở  phần tiếp theo trong giờ học. 2. Biện pháp 2: Xác định kiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu   nội dung, nghệ thuật văn bản đó: ­ Mục tiêu: Nắm kiểu văn bản để  có hướng tìm hiểu nội dung văn  bản một cách khoa học nhất, nhanh nhất, chính xác nhất. ­ Nội dung của biện pháp: Văn bản được chia thành nhiều kiểu vì  mỗi kiểu văn bản có một mục đích giao tiếp khác nhau, có phương thức   biểu đạt khác nhau. Vì thế khi tìm hiểu nội dung một văn bản ta phải xác  định kiểu văn bản. Ví dụ: Kiểu văn bản tự  sự  có phương thức biểu đạt  chính là tự sự với đặc trưng là cốt truyện (chuỗi sự việc) và nhân vật. Khi   tìm hiểu văn bản Thánh Gióng ( Ngữ Văn 6, tập 1) ta phải xác định đây là   kiểu văn bản tự  sự  để  từ  đó sẽ  hướng dẫn học sinh tìm hiểu chuỗi sự  việc và các hành động của các nhân vật trong truyện. Hoặc khi tìm hiểu  truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng­ Ngữ  Văn 9 tập 1),  phải hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyện theo hướng tìm hiểu hành động  của nhân vật bé Thu và nhân vật ông Sáu, vì các hành động này cũng chính  là chuỗi sự việc tạo nên nội dung, ý nghĩa của truyện. Hoặc như khi đọc   13
  14. hiểu văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh­ Ngữ Văn  7, tập 2) trước tiên phải giúp học sinh xác định đây là kiểu văn bản nghị  luận để tiếp đó chỉ ra các luận điểm của văn bản nghị luận này. Tương tự  như vậy, khi dạy văn bản biểu cảm phải chỉ ra và bám sát vào mạch cảm   xúc của văn bản đó. Trên thực tế, nhiều khi giáo viên chưa thấy được tầm quan trọng   của việc xác định kiểu văn bản dẫn đến việc đọc hiểu văn bản chưa khoa  học, chưa tích hợp được với phân môn tập làm văn nên chưa có sự  đổi  mới trong phương pháp giảng dạy. 3. Biện pháp 3 : Dựa vào tên gọi để xác định ý chính của nội dung  văn bản   ­ Mục tiêu: Giúp học sinh phỏng đoán được nội dung văn bản một   cách nhanh và chính xác. ­ Nội dung của biện pháp:  + Một văn bản  bao giờ  cũng chứa đựng một nội dung nhất định.  Tên gọi của văn bản luôn luôn gắn liền với nội dung, phản ánh chủ  đề  ­  đề tài văn bản đó. Vì thế giáo viên phải tập cho học sinh có thói quen tìm   hiểu ý nghĩa tên gọi văn bản. Đây là thao tác đầu tiên, là bước tìm hiểu có  tính khái quát, sơ bộ, đại cương. Nó định hướng cho các thao tác tiếp theo  trong đọc­hiểu. Ví dụ : khi tìm hiểu văn bản Lão Hạc (Nam Cao­ Ngữ văn  8, tập 1), sau khi đọc xong, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu : truyện   ngắn này viết về  gì ? Vì sao tác giả  lại đặt tên truyện là Lão Hạc ? Học   sinh dễ  dàng trả  lời  được các  ý này (truyện viết về  lão Hạc,  đặt tên  truyện như vậy vì đó là nhân vật chính của truyện). Tiếp đó sẽ triển khai  sâu hơn về  nội dung truyện : hoàn cảnh gia đình lão Hạc như  thế  nào,   cuộc sống của lão ? Lão có những điều gì đáng quý, đáng thương. Hoặc  khi dạy bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Ngữ Văn 7, tập 2) cũng   14
  15. yêu cầu học sinh xác định : văn bản bàn luận về vấn đề  gì ? Khi dạy bài  Mùa xuân của tôi, hỏi : văn bản biểu cảm về điều gì ? … v…v… Qua hoạt động này, giáo viên chỉ  ra cho học sinh : chỉ  cần dựa vào  đầu đề  của văn bản, ta có thể  biết văn bản nói về  điều gì. Đây là bước  định hướng rất cần thiết, không thể bỏ qua, là tiền đề cho ta tiếp tục thực  hiện việc tìm hiểu các chi tiết cụ thể trong văn bản. Như  vậy, chỉ  dựa vào tên gọi văn bản, học sinh bước đầu đã tiếp  cận được văn bản với một cái nhìn khái quát, khá chính xác về  nội dung  văn bản.            ­ Điều kiện thực  hiện: Tuy nhiên, không phải lúc nào tên gọi của  văn bản cũng thể hiện một cách rõ ràng, trực tiếp nội dung văn bản. Cho   nên thao tác này cần thực hiện một cách linh hoạt, có thêm một vài sự gợi  mở, dẫn dắt của giáo viên. Ví dụ  : khi đọc hiểu văn bản Làng – truyện ngắn của Kim Lân (Ngữ Văn 9-tập 1), có thể gợi ý cho h ọc sinh : Truy ện viết về làng, như cái tên gọi của nó, nhưng điều chủ yếu là muốn nói v ề ai, nói về tình cảm gì của nhân vật đó với làng ? Học sinh d ễ dàng xác định : truyện muốn nói về tình yêu làng của ông Hai. Hoặc khi học truy ện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long (Ngữ Văn 9 - tập 1), định hướng cho học sinh tìm hiểu tên gọi văn bản : nói Sa Pa l ặng l ẽ nh ưng thực ra muốn nói về ai, nói điều gì về người đó ? Học sinh sẽ chỉ ra đó chỉ  là sau cái vẻ lặng lẽ bên ngoài, cái vẻ lặng lẽ của Sa Pa là cuộc sống sôi   nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với đất  nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng   một mình trên đỉnh núi cao. Trong cái không khí lặng im của Sa Pa. Sa Pa  mà nhắc tới người ta chỉ  nghĩ đến chuyện nghỉ  ngơi lại có những con   người ngày đêm lao động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến   cho đất nước. 15
  16. Việc dựa vào tên gọi của văn bản để  bước đầu nắm bắt khái quát  nội dung văn bản là một thao tác cần thiết. Cần phải rèn cho học sinh thao  tác này bới đó là một cách nhìn bao quát, là cơ sở  định hướng để  tiếp tục   tìm tòi, khám phá văn bản. Tạo cho học sinh thói quen này cũng chính là  tạo thói quen tìm hiểu khi tiếp xúc với văn bản. 4. Biện pháp 4 : Dựa vào câu chủ đề để tìm hiểu đoạn văn  ­ Mục tiêu: Biết tìm câu chủ đề để hiểu đoạn văn. ­ Nội dung của biện pháp: 4.1. Lý thuyết về đoạn văn: Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn.  Mỗi đoạn văn lại bao gồm nhiều câu văn. Các câu văn trong đoạn được   sắp xếp theo một trình tự nhất định, theo một cách trình bày nhất định.  ­ Chương trình, nội dung sách giáo khoa môn Văn lớp 9 lưu hành  trước năm thay sách 2002, có đưa ra 4 cách trình bày đoạn văn, tóm lược  như sau : + Trình bày theo cách diễn dịch : câu chốt (câu chủ  đề) nằm ở đầu  đoạn. + Trình bày theo cách quy nạp : câu chốt nằm ở cuối đoạn. +  Trình bày theo cách song hành : không có câu chốt, các câu trong  đoạn quan hệ ngang hàng với nhau và cùng tập trung vào đề tài của đoạn. + Trình bày theo cách móc xích : không có câu chốt. Câu sau liên kết   với câu đứng trước nó về mặt nội dung hoặc bằng các từ ngữ liên kết. Cứ  thế cho đến hết đoạn. ­ Chương trình, sách giáo khoa Ngữ  Văn 9 hiện hành đưa ra 2 kiểu  trình bày đoạn văn, gọi là phép lập luận :           +  Phép lập luận phân tích (tương ứng với cách trình bày diễn dịch). +  Phép lập luận tổng hợp (tương ứng với cách trình bày tổng hợp). 16
  17. 4.2. Trên cơ  sở  về  những cách trình bày đoạn văn hay còn gọi là  phép lập luận như thuật ngữ hiện hành, giáo viên cần cho học sinh hiểu :   mỗi đoạn văn trong một văn bản đều tuân thủ  theo một cách trình bày   nhất định. Đó chính là một nguyên tắc trong tạo lập văn bản. Lập luận  phân tích và lập luận tổng hợp là hai phép lập luận khá phổ biến, thường   gặp trong các văn bản văn xuôi  ở  chương trình Ngữ  Văn THCS. Vì thế,  muốn hiểu đoạn văn nói gì thì cần phải biết đoạn văn đó được trình bày   theo cách nào, câu nào là câu chủ đề của đoạn.  Lưu ý : Việc tìm câu chủ đề trong đoạn văn chỉ nên áp dụng với các   kiểu văn bản nghị luận, miêu tả  hay thuyết minh vì các kiểu văn bản này   thường thể  hiện khá rõ cách trình bày đoạn văn. Còn với văn bản tự  sự   hay biểu cảm thì tùy từng trường hợp cụ thể mà vận dụng. 4.3.1.  Đối với văn bản nghị  luận  : Đặc trưng của kiểu văn bản  nghị luận là phải có luận điểm. Một văn bản nghị luận có thể có một hay  nhiều luận điểm. Đọc­hiểu văn bản nghị luận chính là tìm hiểu hệ thống   luận điểm, cách sắp xếp luận cứ, luận chứng của văn bản đó. Với văn  bản nghị  luận, hiểu được hệ  thống luận điểm tức là đã hiểu được văn  bản. Áp dụng kiến thức về cách trình bày một đoạn văn đề đọc­hiểu văn   bản nghị  luận là một cách làm đặc biệt hữu hiệu, cần phải rèn cho học  sinh kỹ năng này. Phải luyện cho học sinh kỹ thuật tìm câu chủ  đề  bằng   cách cần đặc biệt   chú ý vào câu đầu đoạn hoặc câu cuối đoạn để  xác   định câu chủ đề. Ví dụ  : Khi học văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của   Hồ  Chí Minh (Ngữ Văn 7 ­ tập 2), sau khi đọc xong văn bản, hướng dẫn   học sinh tìm hiểu bằng cách xác định câu chủ  đề  của mỗi đoạn. Cụ  thể  yêu cầu học sinh xác định : Theo em, câu nào là câu chủ  đề  của đoạn 1,  hoặc đoạn 1 có câu chủ đề nào ? (Câu 1: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu   17
  18. nước). Từ đó em hiểu ý đoạn văn nói gì ? (Nói về lòng yêu nước của nhân  dân ta). Vậy luận điểm của đoạn văn là gì ? ( Yêu nước là truyền thống  của nhân dân ta). Đoạn 2 cũng thực hiện tương tự. Học sinh sẽ  lần lượt  chỉ  ra câu chủ  đề  của đoạn 2 là câu đầu : Lịch sử  ta đã có nhiều cuộc  kháng chiến vĩ đại chứng tỏ  lòng yêu nước của nhân dân ta. Ý đoạn văn   nói về lòng yêu nước của nhân dân ta trong lịch sử. Luận điểm : lòng yêu   nước của nhân dân ta trong lịch sử. Đoạn 3: Câu chủ  đề  : câu 1. Ý của   đoạn : Lòng yêu nước của nhân dân ta ngày nay. Luận điểm : Lòng yêu  nước của nhân dân ta ngày nay. Đoạn 4 : Câu chủ  đề  : câu kết đoạn. Ý   đoạn văn : phải phát huy lòng yêu nước đó. Luận điểm : Đề  ra nhiệm vụ  phải phát huy lòng yêu nước đó. Từ  việc nắm bắt nội dung mỗi đoạn, chỉ  ra cho học sinh thấy mối   liên hệ giữa các đoạn : đoạn 1 là phần mở bài, đoạn 2,3 là phần thân bài,  đoạn 4 là phần kết bài. Học sinh sẽ hiểu được nội dung văn bản, trình tự  lập luận, bố cục của văn bản.  Việc xác định câu chủ đề của đoạn văn giúp học sinh nắm bắt được  nội dung đoạn văn đó một cách nhanh nhất, chính xác nhất, ngắn gọn  nhất. Tránh được cách học nhồi nhét, học vẹt. Đó chính là  ưu điểm của   biện pháp này. Biện pháp này cũng chính là một cách đổi mới theo quan  điểm dạy và học văn theo thể loại chứ không phải theo tiến trình văn học  sử. 4.3.2. Đối với văn bản miêu tả :  ­ “Văn miêu tả  là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình   dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự  vật, sự  việc, con   người, phong cảnh ... làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người   đọc , người nghe”. (Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, tập 2). 18
  19. ­ Đọc­hiểu một văn bản miêu tả là tìm hiểu xem văn bản đó tái hiện  điều gì (Người, vật, sự vật, việc, hiện tượng, cảnh tượng ....). Điều đó có  đặc điểm gì, được tái hiện như thế nào. ­ Khi đọc­hiểu văn bản miêu tả, cần định hướng cho học sinh tìm  hiểu theo trình tự  : văn bản miêu tả   gì (cảnh, người, vật, việc ...) ? Có   mấy đoạn văn ? Ý của mỗi đoạn văn là gì ? Với câu hỏi văn bản miêu tả  cảnh gì, mục đích là để học sinh có cái nhìn bao quát về văn bản. Câu hỏi  này học sinh có thể  dựa vào đầu đề  của văn bản để  trả  lời. Hai câu hỏi   còn lại mục đích là để  học sinh tìm hiểu ý cụ  thể  của bài. Học sinh sẽ  vận dụng hiểu biết về cách trình bày đoạn văn để tìm hiểu.  Ví dụ  : khi học bài Sông nước Cà Mau (Ngữ  Văn 6, tập 2), sau khi  đọc, cho học sinh tìm hiểu theo các câu hỏi : bài văn tả  cành gì ? (Cảnh   sông nước Cà Mau, như đầu đề văn bản). Có mấy đoạn văn (4 đoạn). Với  câu hỏi : Ý của mỗi đoạn là gì ? Yêu cầu học sinh xác định câu chủ đề để  hiểu được ý chính của mỗi đoạn ( đoạn 1: không có câu chủ  đề  vì đoạn  văn trình bày theo cách song hành. Các câu văn lần lượt miêu tả  về  đặc   điểm của kênh rạch, màu sắc, âm thanh của vùng sông nước Cà Mau. Ý   đoạn văn : cảm nhận chung của nhân vật về đặc điểm của sông nước Cà  Mau). Đoạn 2 : ý chính đoạn văn nằm ở  câu 2: “ Ở đây, người ta gọi tên   đất, tên sông không phải bằng những danh từ mỹ lệ mà cứ theo đặc điểm  riêng biệt của nó mà gọi thành tên”. Đoạn 3 : Câu chủ đề : câu 1. Ý chính:  Cảnh dòng sông Năm Căn. Đoạn 4 : Câu chủ  đề  : câu 1. Ý chính : Cảnh   chợ Năm Căn. Việc tìm hiểu từng đoạn văn theo các bước như  trình bày  ở  trên  giúp học sinh nắm được dàn ý đại cương bài văn, thấy được bố cục, trình  tự  miêu tả. Từ  đó tiếp tục đi sâu tìm hiểu các ý cụ  thể, chi tiết của văn   bản. Hiểu được ý từng đoạn mới có thể  hiểu được nội dung cả  bài. Kỹ  19
  20. năng tìm hiểu đoạn văn như  trên còn giúp học sinh nhanh chóng hiểu bài,   nhớ lâu.  ­ Điều kiện thực hiện: giáo viên phải bố  trí thời gian ngoại khóa  cung cấp kiến thức về  lý thuyết đoạn văn và vận dụng những kiến thức  này vào khâu đọc hiểu trong giờ học văn bản. 5. Biện pháp 5 : Tìm mối liên hệ giữa các đoạn văn để xác định nội   dung của văn bản : ­ Mục tiêu: Học sinh hiểu một văn bản có nhiều phần (đoạn), giữa  các phần (đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ­ Nội dung biện pháp: Một văn bản thông thường có cấu tạo 3 phần   : mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài và kết bài mỗi phần thường tương   ứng với 1 đoạn văn, phần thân bài thường gồm nhiều đoạn văn. Tuy nhiên  trong thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Nhiều văn bản mỗi phần   được cấu tạo bằng nhiều đoạn văn chứ  không phải chỉ  là 1 đoạn văn.  Điều này ta vẫn thường gặp trong các văn bản sách giáo khoa hiện hành   nếu không muốn nói là khá phổ biến. Đặc biệt rõ nét trong các văn bản tự  sự, biểu cảm. Vậy khi đọc­ hiểu các kiểu văn bản này, cần phải thấy   được mối liên hệ giữa các đoạn văn. 5.1. Đối với văn bản tự sự :  ­“ Tự sự” (kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi sự việc,   sự  việc này dẫn đến sự  việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể  hiện một ý nghĩa.” (Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, tập 1) Như  vậy, đặc điểm của văn bản tự  sự  là phải có nhân vật và cốt  truyện. Cốt truyện bao gồm nhiều sự  việc. Sự  việc trong văn tự  sự  là  những lời nói, việc làm, hành động của nhân vật.  ­ Cốt truyện trong văn bản tự  sự  thường gồm một chuỗi sự  việc.   Phải biết tóm tắt  cốt truyện để  nắm các sự  việc. Sự  việc có thể  được  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2