intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4 trong mô hình trường học mới VNEN

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

68
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm: Phát huy tính chủ động, tích cực tạo hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình học; hình thành một số kĩ năng cơ bản cho học sinh như: Tự học, giao tiếp và hợp tác, điều hành nhóm; nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học theo mô hình trường học mới VNEN.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4 trong mô hình trường học mới VNEN

  1. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tôi rất tâm đắc một câu nói: “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến  thức   mà   đó   là   công   việc   của   người   khơi   dậy   ngọn   lửa   tâm   hồn”   (Uyliam  Batơdit). “Ngọn lửa tâm hồn” ở đây chính là niềm đam mê học tập, sự thích thú  tìm tòi kiến thức, sự  hăng say, tích cực khi được đến trường. Hiểu được điều   này, tôi nhận thấy vai trò của bản thân là rất quan trong việc truyền niềm đam   mê hứng thú học tập cho học sinh. Năm học 2014 – 2015 là năm thứ  4 trường tôi thực hiện dạy và học theo  Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). Cũng như hầu hết các thầy cô giáo   khác, trong những năm học qua tôi luôn trăn trở, tìm tòi, từng bước hoàn thiện  các phương pháp dạy học hiệu quả nhất. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ là   con đường giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực  của người học, mỗi môn học đều phải có một phương pháp giảng dạy phù hợp  và phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện và đây cũng chính là một trong những  yếu tố, động lực không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học  sinh hiện nay. ̣ ̣         Măt khac, hiên nay ph ́ ương phap day hoc truyên thông “Th ́ ̣ ̣ ̀ ́ ầy đọc – Trò  ̣ ̣ ́ ưng đ chép” thu đông không đap  ́ ược lôi t ́ ư  duy sang tao, năng đông va tich c ́ ̣ ̣ ̀ ́ ực   ̉ ̣ cua hoc sinh. Dù có bắt học sinh ngồi ngay ngắn nhưng nếu không thích thú, các   em không thể học tốt được. Nhiệm vụ đặt ra cho giáo viên lúc này không phải là  sẽ giảng bài như thế nào cho hay, truyền đạt kiến thức như thế nào cho học sinh   hiểu nhanh nhất. Mà nhiệm vụ quan trọng của giáo viên lúc này sẽ là hướng dẫn   học sinh như  thế  nào để  các em tự  khám phá, chiếm lĩnh kiến thức hiệu quả  nhất. Làm sao khơi dậy được hứng thú, đam mê trong học tập cho các em. Để  mỗi tiết học diễn ra thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức   một cách tự nhiên, không ép buộc nặng nề. Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 1           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  2. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu đưa ra   những biện pháp cần thiết để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh   tích cực, chủ  động hơn trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Đó chính là lí do tôi  chọn đề tài nghiên cứu là: Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực,   tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4 trong mô hình trường học mới   VNEN. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a. Mục tiêu ­ Phát huy tính chủ động, tích cực tạo hứng thú học tập cho học sinh trong   quá trình học. ­ Hình thành một số kĩ năng cơ bản cho học sinh như: Tự học, giao tiếp và  hợp tác, điều hành nhóm,… ­  Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả  dạy học theo mô hình trường   học mới VNEN. b. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục tiêu trên, tôi phải thực hiện các nhiệm vụ sau: ­ Tìm ra giải pháp để sử dụng hiệu quả các công cụ học tập trong mô hình  trường học mới VNEN  nhằm tạo hứng thú cho học sinh. ­ Tìm ra các hình thức tổ  chức dạy học tích cực phù hợp với từng dạng   bài, với từng đối tượng học sinh của mình. ­ Tìm ra các cách làm để phát huy tính tự giác, tích cực cho học sinh trong  quá trình học, phát huy vai trò của Hội đồng tự quản.  3. Đối tượng nghiên cứu ­ Các biện pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học  tập cho học sinh lớp 4 theo mô hình VNEN. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 2           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  3. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Giới hạn: Nghiên cứu các biện pháp dạy học để  phát huy tính tích cực,  tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4. ­  Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4D, trường Tiểu học Lý Tự  Trọng,  năm học 2014 ­2015. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này tôi sử dụng linh hoạt các phương pháp sau: ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp ­ Phương pháp thực hành, thực nghiệm ­ Phương pháp so sánh đối chiếu. ­ Phương pháp quan sát II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận. Tại Hội nghị  Trung  ương VI – Khóa IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Phải tập   trung vào nâng cao chất lượng và hiệu quả  giáo dục. Vì giáo dục tạo ra nguồn  lực con người có chất lượng phát triển toàn diện mới đảm bảo cho mục tiêu  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.   Đảng ta cũng xác định: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”.   Đi lên bằng giáo dục giờ đã trở  thành chân lí của thời đại. Trong hệ  thống giáo  dục quốc dân, tiểu học là cấp học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó là cấp   học nền tảng cơ  bản nhất tác động đến toàn xã hội. Do vậy, quán triệt Nghị  quyết Trung ương II của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ giáo dục và Đào  tạo đã chỉ  thị  rõ nhiệm vụ  cụ  thể  cho các ngành học, cấp học. Với quan điểm   như trên, giáo dục nước ta đang trên bước đường đổi mới toàn diện và sâu sắc.  Chính vì vậy, Mô hình trường học mới VNEN được đưa vào thí điểm dạy  học trong một số trường tiểu học của cả nước. Mô hình trường học mới VNEN  dựa trên kết quả  và thành tựu đổi mới Giáo dục Quốc tế. Vận dụng cách làm  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 3           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  4. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  của Giáo dục Colombia một cách sáng tạo, phù hợp với mục tiêu và đặc điểm  của Giáo dục Việt Nam. Mô hình này đã tăng cường sự tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa   học sinh với học sinh. Tạo không khí học tập nhẹ  nhàng, thân thiện. Học sinh  học không thụ  động mà bắt buộc phải trao đổi hợp tác với bạn bè, thầy cô, tự  tìm tòi khám phá để chiếm lĩnh kiến thức mới trong quá trình học tập. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi ­ Mô hình VNEN khi áp dụng tại trường tôi được rất nhiều sự  quan tâm,  hỗ  trợ  của cộng đồng; sự  chỉ  đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, của   Phòng giáo dục và đào tạo. Đặc biệt được sự quan tâm, ủng hộ của cha mẹ học  sinh. ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng là trường chuẩn quốc gia có các thiết bị,  đồ dùng phục vụ cho dạy học tương đối đầy đủ, môi trường học tập thân thiện   với học sinh. ­ Đa số học sinh được nhà trường cũng như cha mẹ học sinh quan tâm tạo   mọi điều kiện thuận lợi nhất để  học tập tốt như  việc mua sắm sách vở, giấy  bút, đồ dùng,… đầy đủ. Mặt khác, các em ngoan ngoãn, biết nghe lời thầy cô và  biết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. ­ Đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa, có trình độ chuyên môn, có năng lực.   Đa số giáo viên đều nhiệt tình, hăng say với công việc, có tinh thần trách nhiệm  cao, luôn tìm tòi sáng tạo những cái hay, cái mới áp dụng vào dạy học để không  ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.  ­ Sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ thông tin tạo ra nhiều ứng dụng   tiện lợi để giáo viên áp dụng vào thực tế dạy học đem lại hiệu quả cao. * Khó khăn Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 4           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  5. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Bên cạnh những thuận lợi trên, khi thực hiện đề  tài này tôi gặp phải một   số khó khăn như sau:  ­ Về diện tích phòng học thiết kế theo chuẩn diện tích lớp học hiện hành   nên khi sắp sếp bàn ghế  theo mô hình VNEN thì không gian lớp học chật chội   chưa thoải mái để  học sinh và giáo viên di chuyển; chưa có không gian để  tổ  chức các trò chơi vận động, trò chơi tập thể trong lớp học.  ­ Đồ  dùng dạy học thì nhiều nhưng vẫn chưa đáp  ứng được nhu cầu sử  dụng do nhiều đồ dùng không phù hợp với thực tế dạy học. ­ Vẫn còn thiếu một số  phòng học chức năng cho học sinh như phòng thí  nghiệm, dụng cụ thí nghiệm dùng cho môn Khoa học, Tự nhiên xã hội… ­ Ngoài ra một số học sinh có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, con em   đồng bào dân tộc thiểu số luôn thiếu sự quan tâm của gia đình tới việc học, mua  sắm đồ dùng, sách vở chưa đầy đủ. Điều này cũng gây ra khó khăn cho giáo viên   và học sinh khi dạy và học. ­ Cuối cùng khó khăn lớn nhất tôi gặp phải đó là một số  học sinh có thái  độ  học tập thờ   ơ, chưa tích cực. Nhiều em nhút nhát, chưa mạnh dạn khi tham  gia các hoạt động học tập.  2. 2. Thành công, hạn chế * Thành công ­ Thời gian áp dụng mô hình VNEN vào trường tôi đã là năm thứ  4 nên  giáo viên và học sinh đã tương đối thành thạo với cách dạy – cách học; Nhận  thức của cha mẹ học sinh về hiệu quả của mô hình này cũng được nâng lên rõ  rệt. ­ Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, các hoạt  động chuyên môn bổ ích nên giáo viên được chia sẻ, rút kinh nghiệm và học hỏi  lẫn nhau. Từ đó có những hình thức, phương pháp dạy học mới được áp dụng có  hiệu quả vào thực tế. * Hạn chế Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 5           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  6. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Chất lượng giáo dục trong lớp không đồng đều, có những học sinh tiếp  thu bài nhanh, có nhiều học sinh khả năng tư duy và khả năng tiếp thu chậm, đòi  hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian cho những học sinh này, làm gián đoạn  hoạt động của cả lớp.  ­ Việc đầu tư  chuẩn bị  đồ  dùng dạy học, hay nghiên cứu tìm tòi những  cách dạy hay thường mất nhiều thời gian công sức nên được ít giáo viên chú  trọng quan tâm. 2. 3. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh ­ Mô hình VNEN phù hợp với khả năng nhận thức và kích thích được tâm  lí ưa thích khám phá, tìm tòi của lứa tuổi học sinh tiểu học. ­ Mối quan hệ  gần gũi, trao đổi thông tin qua lại giữa thầy – trò, bạn –  bạn giúp cho các hoạt động học diễn ra thoải mái, tự nhiên và nhẹ nhàng. ­ Học sinh được bày tỏ ý kiến của cá nhân, mạnh dạn trong giao tiếp. Từ  đó, giúp giáo viên hiểu và nắm được những điểm mạnh, điểm yếu của từng học  sinh để có biện pháp khắc phục kịp thời. ­ Mối quan hệ  giữa Học sinh – Nhà trường – Gia đình – Cộng đồng trở  nên khăng khít hơn. * Mặt yếu  ­ Việc trang trí lớp học mất nhiều thời gian và công phu; một số  công cụ  học tập chỉ mang tính hình thức, giáo viên – học sinh chưa sử dụng hết hiệu quả  của những công cụ học tập đó. ­ Việc đầu tư rèn luyện kĩ năng cho Hội đồng tự quản của lớp, các nhóm  trưởng mất nhiều công sức nên không phải giáo viên nào cũng chú trọng vào  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 6           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  7. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  việc này. Do vậy, Hội đồng tự quản của nhiều lớp vẫn chưa phát huy được vai  trò và nhiệm vụ của mình, cho dù các em có tố chất. ­ Kĩ năng quản lí hoạt động học, giao nhiệm vụ  của giáo viên, Hội đồng   tự  quản không tốt sẽ  dẫn đến tình trạng học sinh ngồi chơi, không làm việc  trong các tiết học. 2. 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động gây ra thực trạng Bên cạnh những thuận lợi và thành công mà mô hình này mang lại vẫn còn  tồn tại những hạn chế, yếu kém. Theo tôi là do những nguyên nhân cơ bản sau: * Về phía học sinh ­ Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nên các em còn ham chơi; một số em lại   quá nhút nhát, chưa dám thắc mắc với thầy cô giáo khi không hiểu bài. ­ Ý thức tự giác học tập của nhiều học sinh chưa cao:  Thờ  ơ với các giờ  học trên lớp, không thực hiện các Hoạt động ứng dụng khi ở nhà. ­ Cảm thấy mặc cảm, tự ti khi hoàn thành chưa tốt các nhiệm vụ học tập,   lâu dần thành thói quen im lặng, không mạnh dạn khi hoạt động. * Về phía giáo viên         ­ Một số giáo viên chưa xác định rõ tác dụng của công cụ lớp học, cho nên  trong quá trình dạy học còn xem nhẹ cộng cụ lớp học. Dạy xong bài, xong chủ  đề  là thôi, không dùng công cụ  lớp học để  cho học sinh củng cố  kiến thức và   thể hiện năng lực của mình.         ­ Giáo viên chưa khai thác được vốn sống, vốn kinh nghiệm, vốn kiến   thức có sẵn của học sinh trong quá trình dạy học. ­  Vận dụng các phương pháp dạy học cũng như  hình thức dạy học chưa  phù hợp, chưa khơi dậy được tính tích cực, hứng thú học tập của học sinh với lí  do nói ít hoặc không giảng bài thì học sinh không hiểu.         ­ Một số giáo viên chưa đầu tư  chuẩn bị bài chu đáo nên chưa nắm chắc  những những yêu cầu kiến thức của từng bài dạy. Viêc dạy học còn dàn trải,  còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện. Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 7           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  8. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến từng đối tượng học  sinh nhất là học sinh tiếp thu bài chậm. Bên cạnh đó, chưa theo dõi sát sao và xử  lý kịp thời các biểu hiện lười học của học sinh. ­ Một số giáo viên ngại chuẩn bị đồ dùng, thiết kế trò chơi khi dạy học vì  vừa tốn kém vừa mất nhiều thời gian.  * Về phía gia đình học sinh   ­ Bên cạnh đó, một nguyên nhân không nhỏ  có  ảnh hưởng sự  tích cực,   hứng thú trong học tập cho học sinh là do một số  phụ huynh thiếu quan tâm sát   sao đến việc học của các con; chưa động viên, khuyến khích các con kịp thời. ­ Một số học sinh hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên thiếu sách vở, đồ  dùng  phục vụ cho việc học. Nhiều học sinh cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở  nhà với ông bà hoặc anh chị nên thiếu sự quan tâm yêu thương, các em thiếu tự  tin, chán nản và học hành sa sút… * Nguyên nhân khác Thời gian học tập của học sinh Tiểu học tương đối nhiều 9 buổi/ tuần,   khối lượng nội dung kiến thức lớn với nhiều môn học nên thời gian vui chơi của  các em không nhiều. Điều này làm cho các em cảm thấy việc học nặng nề và  mệt mỏi. Do một số  học sinh là người dân tộc thiểu số  nên vốn tiếng Việt chưa   thành thạo ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu và giao tiếp với bạn bè và thầy cô,   tạo ra tâm lí thiếu tự tin. Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến kết quả học   tập của học sinh. Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng học sinh chưa   chủ động, tích cực khi tham gia các hoạt động học tập, việc học vẫn chưa phải   là niềm vui đối với các em như  câu khẩu hiệu:  “Mỗi ngày đến trường là một   ngày vui”. 2. 5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 8           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  9. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Địa bàn của trường đóng thuộc vùng nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu  của người dân từ  nông nghiệp, một số  ít buôn bán nhỏ, đời sống kinh tế  vẫn  trong tình trạng gặp nhiều khó khăn, trình độ  văn hóa, nhận thức của nhân dân  không đồng đều, nhiều phụ  huynh vẫn chưa thực sự  chú trọng quan tâm đến   việc học của con cái.            ­ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo  dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng. Đặc biệt, khi chúng ta tiến hành  đổi mới chương trình và sách giáo khoa thì vấn đề  đổi mới phương pháp dạy  học đã trở  thành một yêu cầu cấp thiết. Phong trào đổi mới phương pháp dạy  học đã diễn ra rộng khắp trong ngành giáo dục toàn quốc. Tuy nhiên việc đổi  mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới đang thử nghiệm chưa  được thực hiện một cách đồng bộ   ở  các trường học, cấp học, các vùng miền   trong cả nước.          ­ Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo, dân chủ, thân thiện, đổi mới   các hoạt động giáo dục, đủ  các điều kiện cho việc triển khai chủ  trương thực  hiện việc làm đổi mới của nhà trường.          ­ Nhà trường đã chỉ  đạo tốt công tác bồi dưỡng giáo viên theo hướng tự  học, tự  bồi dưỡng, tự  làm đồ  dùng dạy học, chia sẻ  và học hỏi kinh nghiệm   đồng nghiệp qua sinh hoạt chuyên môn ở tổ, trường, cụm. Giáo viên hướng dẫn  học sinh sử  dụng tài liệu Hướng dẫn học để  tự  học, tự  đánh giá; tổ  chức cho   học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kĩ năng mới thông qua quá  trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hỗ trợ và hướng dẫn học sinh khi  cần thiết.         ­ Trong thực tế  vẫn còn có hiện tượng giáo viên chưa thực sự  đổi mới   phương pháp dạy học, họ  chỉ  cố  gắng để  học sinh ghi nhớ  bài học một cách  máy móc, thậm chí áp đặt một cách cứng nhắc. Kiểu dạy học phổ  biến trong   nhiều môn học hiện nay vẫn là giáo viên truyền thụ những nội dung được trình  bày trong sách giáo khoa, học sinh nghe và ghi nhớ một cách thụ động.  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 9           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  10. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN          ­ Một số giáo viên còn lúng túng khi thực hiện dạy học theo phương pháp  dạy học tích cực. Họ  chưa thấy hết tầm quan trọng của việc rèn cho học sinh  phương pháp tự học và học theo nhóm. Vì vậy có những bài tập có liên quan đến  kiến thức mới họ  còn làm thay cho học sinh vì họ  sợ  học sinh không hiểu bài.   Thói quen trước đây giáo viên giảng giải, thuyết trình vẫn còn. Với cách dạy   như trên không rèn được cho học sinh thói quen tự học và học theo nhóm, các em  luôn có thói quen chờ  đợi, không tự  mình suy nghĩ, tìm tòi để  phát hiện ra kiến   thức mới.         ­ Một số nhóm trưởng chưa mạnh dạn tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt   động. Đầu năm học 2014 ­ 2015, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4D gồm   30 học sinh, trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số. Bước vào đầu năm học, tôi  tiến hành khảo sát chất lượng để  phân loại đối tượng học sinh. Chất lượng   khảo sát đầu năm chính là cơ  sở  để  giáo viên có những tác động phù hợp trong   quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng về sau. Kết quả khảo sát môn Toán và Tiếng Việt như sau:  Tổng  Điểm dưới 5 Điểm 5, 6 Điểm 7, 8 Điểm 9, 10 số HS SL % SL % SL % SL % 30 8 26.6 14 46.6 5 16.6 3 10.2   Chất lượng khảo sát đầu năm rất thấp. Qua một thời gian hè vui chơi, các  em phần nào đã quên đi kiến thức của lớp 3. Trước thực trạng này, tôi nhận  thấy mình cần phải có những việc làm cụ thể để cải thiện chất lượng và nâng   cao ý thức học tập của học sinh.  3. Giải pháp, biện pháp 3. 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Tôi đưa ra các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể như sau:  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 10           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  11. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Đầu tư vào việc trang trí lớp học, sử dụng có hiệu quả các công cụ học  tập nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết dạy. ­ Phát huy tốt vai trò của Hội đồng tự  quản và nhóm trưởng tạo ra môi  trường học tập sôi nổi, thoải mái. ­  Đầu tư  nội  dung và hình thức cũng  như  phương pháp dạy học  theo  hướng tích cực trong các tiết dạy nhằm kích thích hứng thú học tập cho học  sinh. 3. 2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp, giải pháp a. Sử dụng có hiệu quả các công cụ học tập nhằm phát huy tính chủ  động, tích cực của học sinh Đầu năm học mỗi giáo viên dạy mô hình VNEN đều tiến hành trang trí lớp  học một cách công phu và tương đối đầy đủ  các công cụ  học tập trong lớp.   Nhưng phần lớn các công cụ  đó là để  “trang trí” chứ  chưa phát huy được hiệu   quả  trong quá trình dạy học. Tôi mạnh dạn nêu ra cách sử  dụng của mình đối  với từng công cụ để mọi người tham khảo. Sau khi thành lập Hội đồng tự quản lớp học xong, tôi tiến hành tập huấn  một buổi giới thiệu và hướng dẫn cách sử  dụng công cụ  lớp học cho mỗi học  sinh đều hiểu: Trong mô hình trường học mới cần phải có công cụ  lớp học và   công cụ  lớp học là Góc học tập: Góc Tiếng Việt, Góc Toán, Góc Khoa học ­  Lịch sử  ­ Địa lí; Góc cộng đồng; Góc thư  viện; Góc thiên nhiên; Góc sinh nhật;  Sơ đồ cộng đồng; Hộp thư bạn bè…. ­ Hộp thư  bè bạn: Là chiếc cầu nối để  các em có thể trao đổi thông tin  về  học tập, về  những điều chưa biết, những dòng cảm xúc, suy nghĩ. Góc nhỏ  ấy luôn là nơi tạo nên hiệu  ứng sôi nổi tới các em học sinh. Sau mỗi tiết học,  những lá thư với dòng chữ còn hơi nguệch ngoạc nhưng chất chứa bao tình cảm  sâu lắng, những mảnh giấy nhỏ bé, rồi cả hình vẽ  ngộ nghĩnh đáng yêu về  bạn   bè trong lớp được gửi vào những phong thư nhỏ.  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 11           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  12. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Sau những tiết học hay buổi học, tôi lại cho các em viết suy nghĩ của mình   và bỏ vào hộp thư. Chính vì được chia sẻ mà các em thấy yêu thương nhau, hiểu  nhau hơn. Cô cũng hiểu trò hơn. Hộp thư bè bạn còn được tôi sử dụng vào dạy bài văn viết thư. Sau các bài  học về cách viết một bức thư. Tôi cho học sinh thực hành viết một bức thư nói  về mơ ước của em với bạn thân của mình. Sau khi viết xong, tôi yêu cầu các em   bỏ  vào phong bì ghi tên bạn, tiếp đến bạn sẽ  lấy bức thư  đó đọc cho các bạn   trong lớp nghe. Các em rất thích thú với những hoạt động như thế.  ­  Sơ   đồ   cộng   đồng:  Ngay   từ   đầu   năm   học,   khi   được   nhận   lớp   chủ  nhiệm, tôi đã tìm hiểu về nơi ở của học sinh. Trong buổi sinh hoạt lớp đầu tiên,  tôi cùng với học sinh bắt tay vào thiết kế sơ đồ. Chính các em tự tay làm những  ngôi nhà của mình bằng giấy màu viết tên lên và dán vào sơ  đồ. Điều này tạo   cho các em một niềm hứng thú mới, đó là giới thiệu về vị trí của nhà mình, bạn   ở gần nhà mình cho cả lớp biết.  Khi dạy những bài về địa phương, tôi lại có cơ  sở để  hướng dẫn cho các  em một cách cụ  thể  như  vị  trí của nhà sinh hoạt cộng đồng các thôn, nhà cộng  đồng của Buôn Rung dựa trên sơ đồ đó. Hay khi trong lớp có bạn bị ốm, các em  nhìn vào sơ  để  biết được vị  trí nhà của bạn để  đến động viên, thăm hỏi bạn.  Chính điều này tạo ra mối liên kết giữa các thành viên trong lớp tôi trở nên khăng  khít hơn. Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 12           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  13. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Sơ đồ cộng đồng lớp 4D­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng  ­ Góc cộng đồng: Là nơi để  tôi và học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn  hóa lịch sử  của địa phương, dân tộc, các tác phẩm thơ  ca hò vè, trò chơi dân   gian….Các sản phẩm của địa phương làm ra theo chủ điểm, mạch kiến thức của  các môn học như hạt lúa, hạt cà phê, hạt tiêu, hay các nhạc cụ  đân tộc như  đàn  Tơ  –rưng, đàn đá, sáo trúc, …. Chính hoạt động này kích thích các em hứng thú  tìm tòi, sưu tầm, giới thiệu và qua đó cũng sẽ giúp các em thêm yêu văn hóa, lịch   sử truyền thống một cách tự nhiên, bền vững. Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 13           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  14. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Góc cộng đồng lớp 4D Ví dụ: Khi học bài “Tây Nguyên” – Môn Địa lí.  Tôi yêu cầu học sinh về  sưu tầm các nông sản của địa phương mình có. Hôm sau mỗi học mang một loại   nông sản đến lớp như: đậu đen, đậu xanh, lạc, lúa, ngô, ca cao, cà phê, tiêu,   điều,… Thông qua hoạt động này, tôi nhận thấy ý thức của học sinh về  trách  nhiệm của bản thân trong việc giới thiệu các sản phẩm của địa phương mình  được nâng lên rõ rệt. Thông qua Góc cộng đồng, tôi lồng ghép những bài học liên quan đến   những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là nền văn hóa của người đồng  bào Ê – đê. Trong lớp tôi có học sinh người đồng bào Ê­ đê nên khi được giới  thiệu về văn hóa của dân tộc mình các em rất tự hào và hãnh diện. Điều này làm  tăng sự tự tin khi giao tiếp, khi học tập cho các em.  ­ Góc thiên nhiên:  Hưởng  ứng phong trào “Xây dựng trường học thân  thiện – Học sinh tích cực”. Mỗi lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN   đều dành một góc nhỏ xây dựng Góc thiên nhiên trong lớp nhằm tạo môi trường  lớp học thân thiện hơn. Ngoài ra, Góc thiên nhiên còn rèn cho các em có kỹ năng   sống hằng ngày. Các em biết chăm sóc, bảo vệ  cây xanh, ích lợi của cây xanh.  Góc thiên nhiên do chính các em tự  trồng vào các chậu nhựa, những cái chai lọ  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 14           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  15. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  vứt đi các em cắt và trồng cây phù hợp mang đến. Sản phẩm của các em do  chính các em chăm sóc thì các em sẽ biết bảo quản và giữ gìn. Cũng chính từ góc   thiên nhiên sẽ vận dụng vào việc tìm hiểu một số kiến thức liên quan.  Thông qua Góc thiên nhiên tôi vận dụng để  dạy những bài học liên quan   trong Môn Khoa học như bài Nước cần cho sự sống, Sự trao đổi chất của thực   vật,.. Có cây cối để  các em quan sát trực tiếp sẽ  giúp các em hứng thú hơn khi   học và thích tìm hiểu hơn khi hoạt động. Mặt khác, giáo dục cho các em ý thức   bảo vệ và chăm sóc những cây do chính tay mình mang đến trưng bày.         ­ Thư  viện lớp học:   Là tủ  sách thân thi ện có sự  đóng góp củ a phụ  huynh, học sinh, giáo viên, có sự  giúp đỡ  củ a nhà trườ ng và đị a phươ ng tạ o   điều ki ện cho các em ham đọ c sách, m ở  r ộng hi ểu bi ết, phát triển khả  năng   cho các em. Rèn kĩ năng sống có trách nhi ệm, có ý thứ c b ảo qu ản tài sả n  chung,   có   thói   quen   s ống   g ọn   gàng,   ngăn   nắp.   Ngoài   việc   đọ c   sách   tăng  thêm vốn tri th ức, h ọc sinh còn tham gia các hoạt độ ng giớ i thi ệu quy ển  sách c ủa em do giáo viên ph ụ  trách lớp hướ ng dẫn, giúp các em tự  tin h ơn,   Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 15           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  16. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  diễn đạ t tố t h ơn.  Đây là mộ t trong nh ững kĩ năng số ng r ất cần thi ết cho  họ c sinh sau này.   Góc thư viện lớp 4D b. Đổi mới phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học theo hướng   tích cực Khác với cách dạy truyền thống “Thầy giảng – trò nghe”, phương pháp  dạy học hiện tại là “Thầy hướng dẫn – Trò tự  tìm tòi khám phá để  chiếm lĩnh  kiến thức”. Phương pháp mới này kích thích tính chủ động, khả năng tìm tòi, tư  duy sáng tạo cho người học. Từ đó, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu hơn. Vai  trò của người giáo viên phải là người hướng dẫn, định hướng, giúp đỡ  kịp thời  để các học sinh đi đúng mục tiêu, nội dung trọng tâm của bài học. Để thực hiện   tốt những biện pháp này tôi đã thực hiện những việc sau đây: Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 16           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  17. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  * Đầu tư  lựa chọn nội dung phù hợp và tổ  chức tốt các hoạt động  khởi động Để bắt đầu mỗi tiết học, tôi thường nghiên cứu kĩ nội dung bài học và lựa  chọn một hình thức khởi động phù hợp. Hoạt động khởi động là cầu nối hướng   tâm thế  của các em vào hoạt động chính, tạo hứng thú cho các em khi bắt đầu  tiết học. Thông qua trò chơi khởi động tạo ra tình huống có vấn đề để kích thích   sự tò mò cho học sinh. Tôi thường thiết kế hoạt động khởi động như sau: ­ Bước 1: Nghiên cứu nội dung tiết học ­ Bước 2: Lựa chọn nội dung và hình thức khởi động ­ Bước 3: Chuẩn bị đồ dùng cần thiết cho hoạt động ­ Bước 4: Tập huấn cho Hội đồng tự quản ­ Bước 5: Áp dụng vào tiết dạy Ví dụ: Khi dạy môn Khoa học, bài Tính chất của không khí,  tôi cho học  sinh khởi động bằng hoạt động Thi bơm bóng, tôi chuẩn bị  bóng bay với nhiều  hình dạng khác nhau, HĐTQ yêu cầu hai đội chơi trong thời gian 2 phút, đội nào  bơm được nhiều bóng sẽ giành chiến thắng. Thông qua hoạt động khỏi động đó,  tôi dẫn dắt để bước vào Hoạt động cơ bản. Sau khi được chơi, học sinh rất thoải mái, vui vẻ, vừa thắc mắc tại sao   bóng bay lại có nhiểu hình dạng như vậy? Để đi tìm câu trả lời, các em sẽ thích  thú khi học bài. Khi dạy môn Đạo đức, bài Tôn trọng luật giao thông (Tiết 1), trước khi  vào hoạt động chính, tôi cho cả lớp chơi trò chơi “Nhanh tay, nhanh mắt”. Tôi in   một số biển báo giao thông yêu cầu các đội chơi quan sát và trả  lời tên của các   biển báo giao thông đó. Các đội thi nhau trả lời, tạo ra không khí rất sôi nổi. Sau   khi chơi, tôi dẫn dắt để các em bước vào bài học mới.  * Áp dụng trò chơi học tập vào các tiết học Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 17           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  18. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  Trong quá trình dạy học, việc sử dụng trò chơi học tập có nhiều tác dụng  như:      ­ Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ  học, làm cho giờ  học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức  nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập. ­ Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình. ­ Thông qua trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích   thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử  lý thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng   trong cuộc sống. Khi dạy học, tôi thường áp dụng trò chơi phần củng cố  cuối tiết học.  Cuối mỗi tiết học, thay vì hỏi lại kiến thức tôi thường biến hoạt động củng cố  thành một số trò chơi bổ ích, vừa khắc sâu kiến thức cho các em vừa tạo không  khí học tập vui tươi, sôi nổi.Tôi thường sử dụng trò chơi như sau:  + Ô chữ kì diệu: Trò chơi này có thể áp dụng cho nhiều môn học như Lịch  sử ­ Địa lí, Khoa học, Tiếng Việt ,….  + Ong tìm chữ: Áp dụng khi dạy môn Tiếng Việt + Ai nhanh – Ai đúng: Trò chơi này áp dụng được với nhiều môn học;  ở  những bài cụ  thể, tôi thay đổi nội dung của câu hỏi còn giữ  nguyên hình thức  chơi.  Ví dụ: Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào? Chúng có vai   trò gì đối với sự cháy và sự sống ?  (Khoa học 4), tôi sẽ sử dụng trò chơi  Ô chữ   kì diệu, tôi tiến hành thiết kế ô chữ theo các bước cơ bản như sau:  ­ Bước 1: Chuẩn bị nội dung câu hỏi, tương ứng với nó là số  hàng ngang  ghi câu trả lời. ­ Bước 2: Tiến hành làm ô chữ. ­ Bước 3: Hướng dẫn cách điều hành các bạn chơi trò chơi cho HĐTQ. Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 18           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  19. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  ­ Bước 4: Áp dụng trò chơi vào cuối tiết học.  K H Í Ô X I  C H Ế T  Ô N H I Ê M  N I T Ơ  T R O G S Ạ C H  K H Í N T Ơ  T H O Á N G  C A C B Ô N Í C + Hàng 1: (6 ô chữ) Trong không khí, khí gì duy trì sự cháy ? ( khí ô –xi) + Hàng 2: (6 ô chữ) Nếu không được cung cấp không khí thì thực vật động   vật sẽ như thế nào ? (chết) + Hàng 3: Trong không khí có nhiều bụi bẩn, vi khuẩn ta nói không khí bị  gì? (ô nhiễm) + Hàng 4: Trong các thành phần của không khí, khí nào chiếm nhiều nhất?   (ni –tơ) + Hàng 5: Để cơ  thể khỏe mạnh, chúng ta cần giữ gìn bầu không khí nơi   mình ở như thế nào ? (trong sạch) +…… +  Hàng dọc: Từ “không khí” Ô chữ trên đã khái quát những kiến thức cơ bản của toàn bài, giúp học sinh  ghi nhớ lâu hơn. c. Chuẩn bị  đầy đủ  đồ  dùng, dụng cụ  thí nghiệm, vật thật kết hợp   sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học Trong một tiết học muốn gây được sự  thích thú cho học sinh thì việc  chuẩn bị kĩ về đồ dùng dạy học rất quan trọng. Giáo viên chuẩn bị  đồ  dùng dạy học kĩ thì chúng ta sẽ  khai thác được   trọng tâm của bài. Trong một giờ  học giáo viên cần chuẩn bị  đồ  dùng dạy học  cho từng   môn đảm bảo yêu cầu đẹp, đúng trọng tâm của từng bài để  sát với  thực tế  và phong phú hơn. Dạy trên những gì học sinh nhìn thấy như  hình vẽ,  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 19           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
  20. Một số kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực, tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 4  trong mô hình trường học mới VNEN  tranh  ảnh cả  lời nói diễn cảm có hình  ảnh có tính trực quan. Sử  dụng đồ  dùng  dạy học giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh cụ thể. Ngoài ra còn tác động đến  xúc cảm của học sinh bằng việc sử dụng đồ  dùng dạy học giáo viên cung cấp   kiến thức từ khái quát đến chi tiết, tạo cảm hứng để học sinh suy nghĩ tìm tòi ý   tưởng mới của bài. Để  phát huy tối đa hiệu quả  của đồ  dùng dạy học giáo viên cần nghiên  cứu mục tiêu của bài để chuẩn bị đồ  dùng dạy học đảm bảo rõ nội dung, tránh   trùng lặp. Sử  dụng đồ  dùng dạy học đúng lúc đúng chỗ, không lạm dụng. Kết  hợp nhịp nhàng giữa lời giảng và động tác chỉ  đồ  dùng dạy học phải rõ ràng,   mạch lạc để cho việc lĩnh hội của học sinh được đồng thời bằng cả thị và thính  giác. Mỗi bài học khác nhau thì yêu cầu về đồ dùng dạy học là khác nhau vì thế  việc lựa chọn đồ  dùng dạy học phù hợp với mục tiêu của từng tiết học là rất   quan trọng. Đối với môn Lịch sử  & Địa lí, giáo viên thường phải hướng dẫn, mô tả,   hay giải thích dài dòng nhưng học sinh vẫn chưa nắm được nội dung bài học.  Khi dạy môn Lịch sử  & Địa lí, tôi thường dùng bản đồ, lược đồ  cho học sinh  quan sát, khi được quan sát qua lược đồ, bản đồ, các em dễ hình dung ra vị trí địa  lí của các vùng, các thành phố; hay nắm được diễn biến của từng trận đánh. Đối với các môn như  Khoa học tôi luôn tận dụng tối đa hiệu quả  mà đồ  dùng mang lại. Khi dạy môn Khoa học cần có vật thật để  học sinh quan sát, đó  chính là sự minh họa sinh động và gần gũi nhất cho bài dạy. Ngoài ra, giáo viên  cũng cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ thí nghiệm. Thông qua hoạt động thí nghiệm,  học sinh được làm, được chứng kiến từ đó các em sẽ  nắm kiến thức nhanh hơn   và sâu hơn. Ví dụ: Khi dạy bài Gió, bão (Khoa học 4), tôi mượn hộp đối lưu trên thư  viện, sau đó tập huấn cho các nhóm trưởng cách tiến hành thí nghiệm, cách giải   thích cho các bạn hiện tượng xẩy ra. Khi đến tiết dạy, các nhóm trưởng tiến  Người thực hiện: Hoàng Thị Loan 20           Trường Tiểu học Lý Tự  Trọng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1