intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Chia sẻ: Trang Thùy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

643
lượt xem
153
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong chương trình môn Toán ở tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung sáng kiến kinh nghiệm "Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3". Với các bạn chuyên ngành Sư phạm thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

  1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN  CHO HỌC SINH LỚP 3 Tác giả: Lê Thị Thùy Trang Đơn vị công tác: Trường Tiểu học số 2 Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài  1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải  quyết: Trong chương trình môn Toán ở tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò   quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán   học. Như  các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố  hình học...đều có  nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người,   thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải   tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức   tính của con người mới. Có thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm óc  độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện  kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh  mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về  kiến thức, kĩ năng, tư  duy để  giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và  khắc phục những mặt thiếu sót. Chính vì vậy việc đổi mới  phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học   là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất   lượng học toán cho học sinh. 1
  2. Trong khi đó toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn  đó cũng là công cụ  cần thiết cho các môn học khác và để  giúp học sinh nhận   thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả  năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả  năng phát  triển tư  duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện  phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề  có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí  thông minh, tư  duy độc lập sáng tạo, linh hoạt...góp phần giáo dục ý trí nhẫn   nại, ý trí vượt khó khăn. Từ  vị  trí và nhiệm vụ  vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề  đặt ra cho   người dạy là làm thế nào để giờ dạy ­ học toán có hiệu quả cao, học sinh được  phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán  học. Vậy giáo viên phải có  phương pháp dạy học như thế  nào? Để  truyền đạt  kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.  Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập  trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng  chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế  nào để  khắc sâu kiến thức cho học   sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu   kiến thức.  Xuất phát từ cuộc sống hiện tại, đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá,   thông tin...đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ dám làm năng động chủ  động sáng tạo có khả  năng để giải quyết vấn đề. Để  đáp ứng các yêu cầu trên  trong giảng dạy nói chung, trong dạy học toán nói riêng đạc biệt là trong giải  toán có lời văn cần phải vận dụng linh hoạt các  phương pháp dạy học để nâng   cao hiệu quả dạy ­ học.  Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang  thực hiện yêu cầu đổi mới  phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích   2
  3. cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp " nhẹ  nhàng, tự  nhiên, hiệu   quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có  phương pháp và hình thức dạy   học để  nâng cao hiệu quả  cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí   của lứa tuổi tiểu học và trình độ  nhận thức của học sinh. Để  đáp ứng với công   cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng.      Trong quá trình dạy toán nói chung và  dạy học sinh giải toán có lời văn nói   riêng, mỗi giáo viên phải luôn cố  gắng phấn đấu   không ngừng tìm tòi nghiên  cứu tìm ra những phương pháp giảng dạy mới nhất, hiệu quả nhất. Hướng dẫn   giảng dạy như thế nào để phát huy được tính tích cực và linh hoạt của tất cả các   đối tượng học sinh, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng để có vào các  tình huống khác nhau, khắc sâu được kiến thức cho các em, giúp các em hiểu  được mình để tự làm chủ kiến thức toán học, biến những kiến thức thầy cô dạy  thành những kiến thức của mình. 2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:   ­ Giúp học sinh lập kế hoạch giải bài toán có lời văn một cách dễ dàng. ­ Hình thành và rèn kĩ năng giải toán có lời văn ­ Từng bước hình thành và phát triển tư duy toán cho học sinh. ­ Làm cơ sở cho học sinh học toán ở các lớp trên. ­ Giáo dục tính cẩn thận, ý thức vận dụng vào thực tế của học sinh. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: ­ Chương trình toán lớp 3 hiện hành. ­ Các tình huống cụ  thể  trong cuộc sống phù hợp với tâm sinh lý và thế  giới quan của học sinh lớp 3. II.Phương pháp tiến hành : 3
  4. 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu,   tìm giải pháp của đề tài: 1.1. Cơ sở lý luận: ­ Căn cứ vào chương trình giáo dục phổ  thông cấp Tiểu học (Quyết định  số  16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ  trưởng Bộ  Giáo dục và Đào  tạo). ­ Căn cứ vào chương trình chuẩn hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban   hành và chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt đối với môn toán lớp 3. ­ Học sinh tiểu học do đặc thù tâm lý lứa tuổi do đó đòi hỏi tính trực quan  sinh động rồi mới đi đến tư  duy trừu tượng, hình thành nên tư  duy logic hiệu  quả nhất là rất cần thiết. ­ Tâm lý học của lứa tuổi học sinh tiểu học cần có yếu tố  trực quan sinh   động để đi đến yếu tố trừu tượng cơ bản. 1.2. Cơ sở thực tiễn Kế  hoạch bài soạn của giáo viên còn sơ  sài hoặc bỏ  qua khâu hướng dẫn. Giáo  viên chỉ  soạn qua loa. Hay chỉ truyền thụ những kiến thức sẵn có để  cung cấp   cho học sinh.       Giáo viên còn lúng túng khi đặt câu hỏi để hướng dẫn học sinh giải.      Truyền đạt của giáo viên khi hướng dẫn giải không rõ ràng, khó hiểu.      Chưa đúc kết được kinh nghiệm hướng dẫn giải. Mà cứ hướng dẫn theo bài  bản sư  phạm của môn toán  ở  Tiểu học. Làm học sinh trung bình, yếu, kém,  không thể tiếp thu được để giải bài toán.      Giáo viên  chỉ dừng lại  ở mức độ  giải các bài toán trong chương trình, chưa   chú trọng đến kỹ năng giải toán nhận dạng các bài toán và cách giải từng dạng   toán, cũng như việc vận dụng phương pháp dạy học còn hạn chế, chưa phát huy  hoạt động nhóm, phát huy tính tích cực, độc lập của từng học sinh… 4
  5.      Trong khâu lập kế hoạch giải bài toán (thực chất là phân tích đề bài, tìm các   bước giải) thì giáo viên ít khi phân tích từ đáp số (nội dung phải đi tìm để trả lời   cho câu hỏi cần giải quyết của bài toán), dần đi đến các dữ kiện, số liệu đã cho  ở đầu bài, Vì cách dạy ít hiệu quả  trong việc giúp đỡ  học sinh  phát triển năng   lực tư duy, óc phân tích cấu trúc vấn đề tìm ra đường lối giải quyết vấn đề cho  phù hợp.      Còn một số giáo viên  chỉ theo bài giải có sẵn ở trong sách mà nêu các bước  giải toán, dùng phương pháp thuyết trình, rập khuôn theo bước đó, điều này làm  hạn chế  phát triển tư duy toán học  ở  học sinh. Các em chỉ  biết rập khuôn máy   móc để giải các bài toán tương tự mà không hiểu tại sao phải làm như vậy cũng   như không suy nghĩ tìm tòi cách giải khác của bài toán. Học sinh đọc cho qua loa, không cần suy nghĩ giải như thế nào? Đưa ra đề  toán học sinh còn chưa được tập trung, không đọc kỹ  đề  để  hiểu  yêu cầu bài tập làm gì? Giải toán có lời văn học sinh chưa biết cách để thể hiện bài giải, khó nhận ra  đâu là đơn vị, lời giải của bài toán Học sinh không cảm thụ được đề  toán yêu cầu làm gì? và phải làm như  thế  nào?      Một số em khi gặp đề toán phức tạp hơn thì đã biết biến đổi dạng đã học để  giải bài toán một cách tốt hơn. Tuy nhiên số  học sinh này trong lớp thì không  nhiều chỉ ở các em học sinh khá giỏi mới làm được.      Đa số khi gặp các dạng bài toán giải hơi khác một chút thì các em đã không   biết biến đổi đưa về dạng cơ bản hoặc tìm ra cách giải  bằng các bước cơ bản   đã học.      Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán cũng hạn chế,   chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các   dạng toán, lựa chọn phép tính cũng sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm  5
  6. lời giải thích hợp với các phép tính. Một số  em tiếp thu bài một cách thụ  động,   ghi nhớ  bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế  phải có  phương pháp khắc sâu kiến thức.      Mặt khác học sinh không tích cực tư duy sáng tạo để tìm nhiều cách giải khác   nhau, từ  tìm ra con đường ngắn nhất, cách giải hay nhất. Tóm lại học sinh không nhận ra được  yêu cầu cốt lõi ở bài toán có lời văn  và nếu thể  hiện thì còn nhiều yếu tố  như: trình bày bài giải, cách thể  hiện bài  giải, cách nhận ra  phép tính cần làm để đáp ứng câu hỏi của bài, cách tìm ra đơn   vị, đáp số của bài… Từ đó học sinh không giải được hoặc giải không hoàn chỉnh   được bài toán có lời văn . ­ Tình hình thực tế giải các bài toán có lời văn trong môn toán của một bộ  phận  học sinh còn nhiều hạn chế. ­ Kỹ năng phân tích đề và lập kế hoạch giải toán có lời văn còn lúng túng. ­ Khả  năng nắm bắt các dạng còn lơ  mơ, chưa có chiều sâu. Học sinh   chưa có một phương pháp tư  duy logic để  giải quyết các dạng bài toán có lời  văn phức tạp.  2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp: 2.1.Các biện pháp tiến hành: Áp dụng các biện pháp sau: ­ Nghiên cứu, tham khảo tài liệu. ­ Tìm hiểu đối tượng học sinh. ­ Thực hành, phân tích kết quả. ­ So sánh đối chiếu. 2.2. Thời gian tiến hành: ­ Đề  tài này được áp dụng trong các giờ  dạy toán  ở  lớp 3A trường Tiểu  học Hoài Hảo từ tháng 9/ 2012 6
  7. B. NỘI DUNG I.Mục tiêu :   ­ Nghiên cứu, đọc tài liệu, tìm phương pháp giải từng bài toán phù hợp  với từng dạng.  ­ Giúp học sinh khắc phục dần những tồn tại của việc giải quyết các bài  toán có lời văn. ­ Định hướng phương pháp dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh  trong lớp. ­ Đổi mới phương pháp cách tổ chức dạy học về nội dung giải bài toán có  lời văn nhằm giúp học sinh nắm được phương pháp làm các bài toán có lời văn  một cách chính xác, khoa học, nhanh. ­  Một số bài học kinh nghiệm cần lưu ý khi thực hiện. II. Mô tả giải pháp của đề tài: 1. Thuyết minh tính mới: ­ Giáo viên: Thực tế  hiện nay còn có nhiều giáo viên khi dạy học thường   áp đặt các em qua nhận biết một số  kiến thức về  giải toán. Việc dạy học chủ  yếu thường dựa vào tài liệu có sẵn. Vì vậy giáo viên thường làm việc một cách  máy móc và thường ít quan tâm đến việc phát huy tính tích cực tự  giác học tập   của học sinh nhất là với đối tượng học sinh trung bình, yếu.      ­Học sinh: Học sinh học tập một cách thụ  động, chủ yếu chỉ nghe giảng,   ghi nhớ và làm theo mẫu. Do đó việc học tập thường ít hứng thú, nội dung các  hoạt động học tập thường đơn điệu nghèo nàn, ít quan tâm đến phát triển năng  lực cá nhân của học sinh.     Việc dạy­ học như vậy đang cản trở rất lớn đến khả năng phát triển năng lực   toán học  ở học sinh, cản trở việc đào tạo những người lao động, năng động, tự  7
  8. tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích  ứng với những đổi mới   diễn ra hàng   ngày.      Chính vì thế nên khi dạy giải toán có lời văn cần chuyển sang phương pháp   dạy học mới nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, tạo điều kiện  cho giáo viên và học sinh đều tham gia tích cực vào quá trình dạy học để  khỏi  mắc phải những sai lầm trên.         Nắm rõ tầm quan trọng của việc  “ Đổi mới phương pháp” tôi đã chọn và  nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp   3”  để  đưa ra cách hướng dẫn học sinh các cách giải của một bài toán đúng và  khắc phục những hạn chế thường mắc phải trong quá trình giải toán góp phần   nâng cao chất lượng học toán hiện nay. Sau đây là kinh nghiệm  “ Đổi mới   phương pháp, nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”   mà tôi áp dụng trong quá trình giảng dạy bước đầu đạt được hiệu quả một cách   rõ rệt góp phần nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh.  * Những biện pháp và giải pháp cụ thể áp dụng có hiệu quả để nâng  cao chất lượng khi dạy các bài toán có lời văn cho học sinh  lớp 3: 1.1. Định hướng phương pháp dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh   trong lớp: Việc dạy học giải toán  nhằm giúp học sinh biết vận dụng những kiến  thức   về  toán, được rèn luyện thực hành với những yêu cầu thể  hiện một cách đa  dạng, phong phú. Nhờ  việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn  luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những  phẩm chất cần thiết của người lao động mới. 8
  9. Giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: Xác lập được mối quan  hệ giữa các dữ liệu , giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán:  chọn được phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Các bài toán số  học được phân chia thành các bài toán đơn và khối các bài  toán hợp.  Bài toán được giải bằng một bước tính gọi là bài toán đơn;  bài toán  được giải bằng một số bước được gọi là bài toán hợp. Hình thành và rèn luyện kỹ  năng: thực hành, đọc, viết, đếm, so sánh các số,   giải một số  dạng bài toán đơn về  cộng trừ, bước   đầu diễn đạt bằng lời…  Những nội dung có quan hệ đến đời sống thực tế của học sinh. Giáo dục học sinh: chăm chỉ, tự  tin, cẩn thận, ham hiểu biết và hứng thú  trong học tập toán Thông qua các hoạt động dạy học giải toán có lời văn , giáo viên tiếp tục giúp   học sinh: Phát triển các năng lực tư duy (so sánh, lựa chọn, phân tích , tổng hợp,   trừ  tượng hoá, khái quát hoá); Pháp triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận  xét các số  liệu thu thập  được, diễn đạt gọn, rõ, đúng các thông tin , cẩn thận,   chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập  và thực hành toán.  Quá trình dạy học toán lớp 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành  phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ  động,   khoa học, sáng tạo cho học sinh. Để làm được  như  vậy, sách giáo khoa và các tài liệu hướng dẫn giảng dạy   cần giúp Gv tổ chức các hoạt động học tập, thường xuyên tạo ra tình huống có  vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự  phát hiện và giải quyết vấn đề  bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ vấn đề đó, huy động các kiến thức và  công cụ  đã có để  tìm con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong   quá trình giải quyết vấn đề, diễn  đạt và các bước đi trong cách giải, tự kiểm tra   lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải.  Đó là những cơ  hội để  rèn luyện ngôn ngữ  toán học và tập dượt cho học sinh  9
  10. suy luận, hình thành phương pháp học tập và làm việc khoa học, giúp học sinh  tự pháp hiện và chiếm lĩnh tri thức mới, tự kiểm tra và tự khẳng định những tiến   bộ của mình.  1.2. Đổi mới phương pháp cách tổ chức dạy học về nội dung giải bài toán có   lời văn: Dạy học toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát  triển trình độ tư duy ở học sinh (phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét,   so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra qui tắc  ở  dạng khái quát nhất định...)   Tuy  nhiên để  đạt hiệu cao, người giáo viên phải biết tổ  chức, hướng dẫn cho học   sinh (cá nhân, nhóm, cả  lớp ...)  hoạt động theo chủ  đích với sự  trợ  giúp đúng   mức của giáo viên,   của sách giáo khoa và của đồ  dùng   dạy học,   để  mỗi cá  nhân học sinh  “khám phá”  tự  phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc  biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức có liên quan đã học,   với kinh nghiệm bản thân (đã học được ở trường, trong đời sống …) Với đặc trưng của mạch kiến thức này, cần lưu ý một số  điểm mang  tính  phương pháp, cách tổ chức dạy học. Cụ thể là: Điều chủ yếu khi giải toán có lời văn là dạy học sinh  biết cách giải bài toán  (phương pháp giải toán)  Giáo viên không làm thay, không được áp đặt cách giải.  Cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán (tập trung vào ba bước:   Tóm tắt bài toán để biết bài toán cho gì ?, hỏi gì ?, yều cầu gì?). Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ liệu  của đề  bài (giả thiết) với yêu cầu của bài  (kết luận) để tìm phép tính tương ứng. Trình bày bài giải,  viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số. Trong giải toán,  giáo viên cần khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải và  biết so sánh,  lựa chọn cách giải tốt. Dần dần, hình thành cho học sinh thói quen  không bằng lòng với kết quả đạt được và có lòng mong muốn tìm giải pháp tốt  10
  11. cho bài làm của mình. Vì vậy, điều đáng quan tâm không phải là học sinh làm  được nhiều bài và giáo viên cung cấp thêm nhiều bài tập cho học sinh mà chính   là giáo viên cùng học sinh khai thác được các tiềm năng trong các bài tập có sẵn   trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi ý kiến về  các cách   giải, qua củng cố, khắc sâu kiến thức bài học.   *  Biện pháp giúp đỡ học sinh. Để đạt mục đích trên, giáo viên phải thực hiện các yêu cầu sau: ­ Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc   phép tính, các thuật ngữ,.. (chuẩn bị cho học giải toán) ­ Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải. ­ Rèn luyện kĩ năng giải toán. ­ Hoạt động  nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật   ngữ: ­ Bài toán có lời văn nêu các vấn đề thường gặp trong đời sống các vấn đề đó   gắn liền với nội dung (khái niệm, cấu trúc, thuật ngữ) toán học, do vậy giáo  viên cần cho học sinh nắm vững khái niệm, thuật ngữ    ­ Việc giải toán có lời văn, giáo viên giúp học sinh hình thành bước đầu về  cách trình bày dạng bài toán có lời văn, biết giải các bài toán đơn về  thêm bớt   (giải bằng một phép cộng hoặc phép trừ, nhân chia) trình bày bài giải gồm: câu   văn thể hiện lời giải, phép tính, đáp số. ­  ở  lớp 3, học sinh cần nắm rõ thế  nào là bài toán hợp, giải bằng hai phép   tính, giải bài hợp khác với bài toán đơn (giải bằng một phép tính  ở lớp 1, lớp 2  như  thế  nào? Trên cơ  sở  cách giải bài toán đơn mà chuyển sang hình thành các  bước giải của bài hợp (Bài toán đơn có một bước giải, bài toán hợp có hai bước  giải mà trong đó mỗi bước giải có câu lời giải và phép tính tương ứng) Giải bài   toán hợp cần chú ý: 11
  12. + Khi tóm tắt bài toán, giáo viên cho học sinh đọc kĩ bài toán.  Điều này hết  sức cần thiết nhằm làm rõ giả thiết (bài toán cho gì ?) và kết luận (bài toán hỏi   gì ? yều cầu gì ?)  Có thể tóm tắt bằng lời văn hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng. Từ  đó học sinh có thể tìm mối quan hệ giữa “cái đã biết và cái chưa biết” đó là cầu   nối để tìm cách giải quyết một cách hợp lí. Tuy nhiên không nhất thiết phải viết   phần tóm tắt vào phần trình bày lời giải.  + Khi trình bày lời giải, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ quy trình phải   làm: Viết được câu lời giải và phép tính tương ứng. Cần kiên trì để học sinh tự  diễn đạt câu trả lời bằng lời trước khi viết câu lời giải. Có thể chấp nhận cách   diễn   đạt   tuy  “vụng   về”  nhưng   đúng,   rồi   giáo   viên   uốn   nắn   sửa   dần.   Cái  “khó”của việc giải toán có lời văn trong toán lớp 3 đối với học sinh chính là   trinh bày (viết) bài giải. Điều này đòi hỏi giáo viên không sốt ruột, vội vàng làm  thay học sinh mà phải cho học sinh tự luyện viết câu lời giải nhiều.  * Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải: ­ Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nôi dung bài toán bằng các thao tác: +  Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm­ đọc bằng mắt). + Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để  tìm hiểu nội dung, nắm bắt   bài toán cho biết cái gì, bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? ­  Tìm cách giải bài toán bằng các thao tác:       + Tóm tắt bài toán (tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ  đồ). Hoạt động này thường được tiến hành theo các bước sau :  +  Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt. + Lập kế  hoạch giải bài toán: Xác định trình tự  giải bài toán, thông thường  xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho. Xác lập mối qua hệ  12
  13. giữa các điều kiện đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép  tính số học thích hợp. ­ Thực hiện cách giải và trình bày lời giải bằng các thao tác: +  Thực hiện các phép tính đã xác định (có thể viết phép tính sau khi viết câu   lời giải và thực hiện phép tính). +  Viết câu lời giải. +  Viết phép tính tương ứng . +  Viết đáp số. ­   Kiểm tra bài giải: Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải,  kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu bài toán.    Ví dụ: Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải bài toán sau: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ   hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch hai   thửa ruộng được bao nhiêu kilôgam cà chua? ­ Cho học sinh tìm hiểu thuật ngữ  “thu hoạch” nghĩa là gì? (đồng nghĩa   với việc hái cà chua để sử dụng). Thuật ngữ  “ở thửa ruộng thứ hai được nhiều   gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất”. ­ Nắm bắt nội dung bài toán: + Biết số  cà chua  ở  thửa ruộng thứ  nhất 127 kg và số  cà chua  ở  thửa  ruộng   thứ hai nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. ­ Tìm cách giải bài toán: + Tóm tắt bài toán: Bước đầu học sinh mới giải toán, giáo viên làm mẩu  và hướng dẫn học sinh tóm tắt, các bài tập kế tiếp giáo viên chỉ định, hướng dẫn   kiểm tra học sinh tự tóm tắt (tóm tắt bằng lời, hoặc tóm tắt bằng hình vẽ). + Tóm tắt  gắn gọn  làm nổi bật yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm . 13
  14. Cách 1:  Thửa 1 : 127 kg cà chua.                Thửa 2 : Gấp 3 lần thửa 1  ? kg cà chua    Cách 2 :  Thửa 1 :                             Thửa 2 :                                        ? kg cà chua       + Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề  toán mà  nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của từng   em). + Lập kế hoạch giải toán ­ Xác định bài toán theo cách thông thường: + Tìm số  cà chua  ở  hai thửa ruộng, cần biết những yếu gì? (Biết số  cà  chua ở từng thửa ruộng là bao nhiêu kilôgam?). + Số  kilôgam cà chua  ở  từng thửa ruộng đã biết chưa? (Biết số  kilô gam   cà chua ở thửa thứ 1 là 127 kg, còn số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ 2 chưa   biết). + Vậy phải tìm số kilôgam cà chua ở thửa thứ 2.  ­  Tình tự giải: + Trước hết tìm số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ hai. + Sau đó tìm tìm số cà chua ở hai thửa ruộng. + Xác lập mối quan hệ  giữa các yếu tố  và tìm đúng phép tính thích hợp:   Tìm số cà chua ở thửa ruộng thứ 2 ?     + Biết số cà chua ở thửa  thứ 1 là 127 kg .     + Biết số cà chua ở thửa thứ 2 nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa thứ 1.     +  Vậy số kilôgam cà chua ở thửa thứ 2 bằng số kilôgam cà chua ở thửa thứ 1   nhân với 3. 14
  15. Tìm số cà chua ở hai thửa ruộng ? Biết số cà chua ở thửa 1 : 127kg   Biết số cà chua ở thửa thứ 2  :  (127x 3) kg Vậy số cà chua ở hai thửa ruộng bằng tổng số kilôgam cà chua ở hai thửa ruộng. Thực hiện cách giải và trình bày: Giáo viên cho học sinh thực hiện các phép tính trước ở  ngoài nháp sau đó  trình bày bài giải hoặc viết câu lời giải và phép tính tương ứng, thực hiện phép  tính, viết kết quả.      Số kilôgam cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai là :                           127  x 3   =  381  (kg)      Số kilôgam cà chua thu hoạch ở hai thửa ruộng là :                                   127 +  381  =  508  (kg)                                                         Đáp số:    508 kg .  Kiểm tra bài giải:    Kiểm tra tóm tắt, câu lời giải, phép tính, bằng cách đọc lại, làm lại phép  tính…  ­ Tổ chức rèn kĩ năng giải toán  + Sau khi học sinh đã biết cách giải toán (có kĩ năng giải toán), để  định hình  kĩ năng  ấy, giáo viên rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. Rèn kĩ năng giải toán,  nghĩa là cho học sinh vận dụng kĩ năng vào giải các  bài toán khác nhau về hình   thức. Giáo viên có thể rèn kĩ năng từng bước hoặc tất cả các bước giải toán. Ví dụ : Rèn kĩ năng tìm hiểu nội dung bài toán bằng các thao tác:           + Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt).           + Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để tìm hiểu nội dung của   các bài toán cụ thể ở sách giáo khoa. Tóm lại để giải bài toán có lời văn học sinh cần nắm các yếu tố sau. Tìm hiểu bài toán:   15
  16. ­ Bài toán cho biết gì? ­ Bài toán hỏi gì? (Tức là bài toán đòi hỏi phải tìm gì?) Giải bài toán:     ­ Thực hiện phép tính để tìm điều chưa biết nêu trong câu hỏi ­ Trình bày bài giải: + Nêu câu lời giải + Phép tính để giải bài toán + Đáp số   2. Khả năng áp dụng: 2.1. Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả: Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã vận dụng vào việc dạy học toán có lời văn cho  học sinh lớp 3 do mình phụ trách từ tháng 9/ 2012 đến nay. Qua một thời gian áp  dụng sáng kiến trên học sinh lớp 3A của tôi đã có tiến bộ  rõ rệt trong giải toán   có lời văn nói riêng và trong môn toán nói chung. Các em không còn ngại khi gặp   bài toán có lời văn nữa mà còn ham thích giải toán có lời văn cũng như biết tìm ra   được nhiều cách giải khác nhau trong một bài toán có lời văn, học sinh nắm   vững cấu trúc và phương pháp của từng dạng toán đã học, biết trình bày lời giải  một cách chính xác, ngắn gọn. 2.2. Có khả năng thay thế giải pháp hiện có: Những giải pháp trên có thể vận dụng trong các tiết học toán, đặc biệt là  dạy các bài toán có lời văn, giúp học sinh nắm chắc cách giải, tạo sự hứng thú,  yêu thích học toán, nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập. 2.3 Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành: 16
  17. ­ Kết quả nắm bắt kiến thức của học sinh được nâng lên rõ rệt. ­ Những giải pháp trên phát huy được tính tích cực, chủ  động tìm hiểu  kiến thức của học sinh, các em có hứng thú thi đua học tập. ­ Đề  tài được áp dụng rộng rãi cho tất cả  các đối tượng học sinh trong   lớp, đặc biệt là các em học sinh yếu, học sinh chưa bền vững về kiến thức. Sau khi thực hiện và áp dụng các giải pháp trên, kết quả đạt được là học   sinh đã thích học môn toán nói chung và các bài toán có lời văn nói riêng. Đặc   biệt các em thực hiện giải các bài toán có lời văn một cách dễ  dàng, không  còn lo sợ khi gặp dạng toán này nữa. 3. Lợi ích kinh tế ­ xã hội:  Qua quá trình áp dụng giải pháp, bản thân tôi nhận thấy nhiều học sinh  làm thành thạo dạng toán này, chất lượng giải toán có lời văn từng bước được  cải thiện và nâng cao, góp phần kích thích ý thức học tập của học sinh.  Qua ba năm tiến hành thực nghiệm trên đối tượng là học sinh lớp 3A trường   Tiểu học số 2 Hoài Hảo, kết quả như sau:  Năm học                Sĩ số 2012­2013 Dạy học thông thường 2013­2014 Dạy học theo SKKN 2014­2015 Dạy học theo SKKN 2015­2016 Dạy học theo SKKN 17
  18. C.KẾT LUẬN 1. Những điều kiện kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp. ­ Đi từ bài dễ đến bài khó để các em dễ nắm bắt kiến thức hơn. ­ Chia loại toán có lời văn này thành các dạng toán nhỏ. ­ Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nắm được phương pháp giải từng   dạng của bài toán có lời văn. ­ Tìm các bài toán điển hình cho dạng đó để  hướng dẫn các em tìm ra   phương pháp giải chung. ­ Giáo viên giúp cho học sinh lập được kế hoạch giải các bài toán cụ thể.      ­ Tuỳ theo tình hình thực tế của lớp, giáo viên có thể  thông qua việc dạy   học toán để khắc sâu kiến thức. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm cần  thiết, theo hướng đổi mới hiện đại hoá hiện. Học sinh chủ động trong các hoạt  động, giáo viên chỉ  hướng dẫn giúp đỡ  các em. Đối với học sinh yếu giáo viên  cần ân cần giúp đỡ,   nhắc nhở, khen ngợi kịp thời. Khi giảng dạy luôn theo   hướng đổi mới lấy học sinh làm trung tâm, học sinh học theo hướng tích cực.   Với việc thực hiện chương trình như  hiện nay thì kinh nghiệm này có thể  vận  dụng rộng rãi  ở tất cả các lớp và các đối tượng học sinh. 3. Đề xuất kiến nghị. Qua quá trình nghiên cứu và tổ chức thực hiện sáng kiến, để dạy giải toán   có lời văn ở lớp 3 nói riêng và giải toán có lời văn trong chương trình toán Tiểu   18
  19. học nói chung đạt kết quả cao bản thân tôi có một số kiến nghị và đề xuất như  sau: 3.1.Đối với Giáo viên: Để  việc dạy học có kết quả, cần đảm bảo tính khoa học, chính xác và  tính sư  phạm, đòi hỏi mỗi giáo viên không ngừng tự  học, tự  bồi dưỡng, tìm   hiểu, nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học toán, tự hoàn thiện và nâng  cao những tri thức cần thiết, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, biết phát  huy năng lực tiếp thu của học sinh và động viên tinh thần học tập của các em kịp  thời đúng lúc, chuẩn bị   đồ  dùng dạy học phù hợp nội dung bài học. Tránh tạo   mặc cảm yếu kém  ở  các em mà bằng mọi cách phải tạo được niềm tin  ở  khả  năng mình. Ngoài ra người giáo viên phải thật sự thương yêu và gần gũi các em,  luôn tìm phương pháp giảng dạy hết sức cụ  thể, ngắn gọn để  các em dễ  nắm,  dễ nhớ, dễ làm. Chú trọng rèn kỹ năng đọc viết và kỹ thuật tính cho các em càng   nhiều càng tốt.      Người giáo viên cần phải nắm vững nội dung chương trình, bản chất của   bài toán, dạng toán, mối tương quan giữa các dữ  kiện của bài toán. Huy động   được những kiến thức vốn có của học sinh để  tự  các em chiếm lĩnh được nội  dung kiến thức của bài học một cách độc lập, phát huy vai trò hoạt động cá nhân  của học sinh trong quá trình giải toán. Tổ chức học sinh luyện tập theo từng mức độ dễ, khó khác nhau nâng dần   khả năng phát triển của các bài toán, rèn phương pháp suy nghĩ độc lập, tự chủ,   tư  duy sáng tạo. Đưa ra những bài toán có nội dung giải quyết các vấn đề  gắn  liền với thực tiễn để gây hứng thú cho học sinh trong quá trình giải toán. Khi sử  dụng sáng kiến kinh nghiệm đặt yêu cầu cao đối với công tác dạy học, chất  lượng được nâng lên rõ rệt và hạn chế  rất nhiều số  lượng học sinh yếu  ở nội   dung này, chất lượng giải toán có lời văn đạt hiệu quả rõ rệt.  19
  20. 3.2. Đối với học sinh: Cần chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa và các dồ dùng học tập. Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Nếu như sáng kiến kinh nghiệm  trên được phổ biến và được thực hiện ở  các khối lớp thì chất lượng bộ  môn còn được cải thiện nhiều hơn và như  vậy  sáng kiến kinh nghiệm  có hiệu quả thực tế cao hơn.  Người giáo viên phải kiên trì vượt qua những khó khăn  “Tất cả  vì học   sinh thân yêu”.  Luôn tham gia học hỏi trau dồi kinh nghiệm. “Thầy dạy tốt trò   học tốt”. Do đó người giáo viên cần nắm vững phương pháp giảng dạy.  Chuẩn   bị tốt cho tiết dạy và áp dụng một cách nhuần nhuyễn linh hoạt. Giáo viên phải  luôn quan tâm giúp đỡ học sinh yếu, uốn nắn sửa sai kịp thời động viên khích lệ  học sinh “Vừa học vừa chơi, vừa chơi vừa học”. Bên cạnh cần có sự thống nhất  trong tổ  chuyên môn, tích cực tham gia chuyên đề  do tổ, trường tổ  chức nhằm   góp phần nâng cao chất lượng.                                                                        Hoài Hảo, ngày 15  tháng 10  năm   2015 Người viết                                                                  Lê Thị Thùy Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2