intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

609
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thực tế giảng dạy hiện nay tác giả thấy học sinh còn rất nhiều hạn chế khi tạo lập văn bản nói chung và trong việc viết đoạn văn nói riêng, nhất là với học sinh lớp 9. Với học sinh lớp 9, nhiều em không hứng thú làm dạng bài tập viết đoạn văn mà đây lại là dạng bài tập rèn luyện kĩ năng viết văn cho học sinh, là một khâu quan trọng trong việc tạo lập văn bản. Từ thực tế trên tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9

  1.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9                        PHẦN THỨ NHẤT : ĐẶT VẤN ĐỀ                     I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :                Ngữ văn là bộ  môn có một vị thế vô cùng quan trọng trong chương trình  phổ thông nói chung và chương trình THCS nói riêng. Môn Ngữ văn góp phần   bồi dưỡng và hình thành nhân cách cao đẹp cho học sinh, giúp các em cảm   nhận được những tư tưởng tình cảm trong sáng, đẹp đẽ nhất của con người.     Từ đó giúp các em sống đẹp, sống tốt, sống có ích, rèn luyện cho học sinh ý  thức tự  tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu  nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm như lòng nhân ái,  tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, căm ghét cái xấu, cái ác. Và cũng từ  đó rèn cho các em tính tự lập, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ  trong văn học, nghệ thuật. Ngoài ra học văn còn mở mang tâm hồn, trí tuệ cho  học sinh, góp phần giúp các em hoàn thiện nhân cách.          Để  đạt được những điều trên người giáo viên phải là người vững tay   nghề, tâm huyết với công việc, hàng ngày, hàng giờ  bên trang giáo án giáo  viên phải trăn trở, nghĩ suy chọn phương pháp nào dễ  hiểu, dễ cảm nhất để  học sinh có thể  nắm bắt kiến thức một cách tốt nhất . Việc dạy học là cả  một nghệ  thuật và dạy văn là một bộ  môn mang tính chất nghệ  thuật đặc   biệt, bởi những điêù môn Ngữ văn chuyển tải chủ yếu thông qua phương tiện   ngôn từ, những ngôn từ  được chuyển tải ấy được đi từ   sự  gợi mở  của giáo  viên, sự  tích cực, năng lực cảm thụ  của học sinh. Từ những kiến thức được  tìm hiểu các em biến thành những câu văn, đoạn văn, bài văn của mình và đem  những điều được học ứng dụng vào cuộc sống.        Với học sinh THCS việc học văn thực sự rất quan trọng, tuy nhiên trong   giai đoạn hiện nay, có rất nhiều phương tiện thông tin hiện đại, thông tin đại  1   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  2.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 chúng cập nhật liên tục khiến nhiều học sinh quên lãng sách văn học và cũng  không ham thích môn Ngữ văn. Với môn Ngữ  văn ở  bậc THCS các em được  học ba phân môn là Văn học,Tiếng Việt và Tập làm văn, các em học nhiều  phân môn Văn học và Tiếng Việt nhưng đầu ra lại chủ yếu  là Tập làm văn.   Tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn học   và Tiếng Việt. Vì vậy chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy các em   nắm vững văn bản, biết cách xây dựng các loại văn bản từ  văn bản nghệ  thuật đến các văn bản hành chính. Trong thực tế giảng dạy hiện nay tôi thấy   học sinh còn rất nhiều hạn chế  khi tạo lập văn bản nói chung và trong việc  viết đoạn văn nói riêng, nhất là với học sinh lớp 9. Với học sinh lớp 9, nhiều   em không hứng thú làm dạng bài tập viết đoạn văn mà đây lại là dạng bài tập   rèn luyện kĩ năng viết văn cho học sinh, là một khâu quan trọng trong việc tạo  lập văn bản. Từ thực tế trên tôi mạnh dạn chọn đề tài :  “Rèn luyện kĩ năng   viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9”.       II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH :       Nhiều năm gần đây, trong chương trình Ngữ văn theo tinh thần đổi mới đã  chú trọng đến việc viết đoạn văn của học sinh, ở các khối lớp đều có các giờ  luyện nói, giờ  luyện tập xây dựng bài văn theo thể  loại đã học. Trong giờ  luyện nói  yêu cầu học sinh trình bày các đoạn văn mà các em đã chuẩn bị sẵn   ở nhà,trong giờ luyện tập bao giờ cũng có phần xây dựng đoạn văn trước khi  viết bài hoàn chỉnh. Song thực tế cho thấy các em rất ngại viết văn cũng như  viết các đoạn văn. Ví dụ sau các giờ học giáo viên thường đưa ra những dạng   bài tập yêu cầu các em viết đoạn thì hầu hết các em không hứng thú làm bài,  nhiều em làm theo kiểu bắt buộc chỉ đơn thuần kể  lại tên tác giả, tác phẩm   và nhìn vào phần “Ghi nhớ”(SGK) để ghi lại nội dung chứ tuyệt nhiên không  biết mình đang trình bày đoạn văn theo nội dung nào, trình bày theo cách diễn  2   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  3.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 dịch hay qui nạp...Lại có em viết đoạn văn nhưng lại có nhiều chỗ  xuống   dòng, không đúng yêu cầu cơ  bản về  mặt hình thức mỗi đoạn văn. Với các  em học sinh lớp 8,9, một lợi thế  hơn so với học sinh lớp 6,7 là các em đã   được học bài: “Xây dựng đoạn văn trong văn bản”  ở  lớp 8(Tiết 10), nhưng  hình như  với nhiều em phần lí thuyết này vẫn chưa làm các em hiểu rõ hơn   về  cách xây dựng đoạn văn, từ  những tiết dạy có dạng bài tập này tôi quan   sát, tìm hiểu thấy nhiều học sinh chưa thực hiện tốt thao tác viết đoạn văn dù  giáo viên đã nhắc nhở các em nhiều lần.      Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh làm không tốt dạng bài tập viết   đoạn văn, nhưng theo tôi nguyên nhân chủ yếu là:  ­ HS chưa nắm được rõ ràng khái niệm về  đoạn văn, về  câu chủ  đề  trong   đoạn văn.  ­ HS chưa nắm được các cách trình bày nội dung trong một đoạn văn.  ­ HS chưa biết cách viết đoạn văn theo bố cục 3 phần: mở đoạn, thân đoạn,  kết đoạn.  ­ Chưa định hình cụ thể diện mạo một đoạn văn.  ­ Vốn từ nghèo vì không chịu đọc tài liệu, đọc các tác phẩm văn học.  ­ Lệ thuộc vào các sách văn mẫu.  ­ Chưa chú ý quan sát xung quanh, trí tưởng tượng chưa cao, lười tư duy.      Qua khảo sát thực tế  ở các lớp  9A,   9B trường THCS Lê Đình Kiên năm  học 2009­2010 do tôi trực tiếp giảng dạy khi tôi ch ưa áp dụng đề tài này, kết  quả việc kiểm tra viết đoạn văn của các em như sau:  Phân loại Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém SL % SL % SL % SL % Lớp 9A = 43 3 7% 19 44,2% 17 39,5% 4 9,3% 9B = 46 4 8,7% 20 43,4% 17 37% 5 10,9% 3   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  4.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9   III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:      Phân môn Tập làm văn ở bậc THCS giúp cho HS năm được các thể loại  trong chương trình, đó là: Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Thuyết minh, Nghị luận   và Hành chính. Từ đó, giúp HS biết vận dụng các loại văn bản vào quá trình  học tập và vào đời sống. Với đề tài này tôi mong muốn các em biết cách xây  dựng đoạn văn nói chung và đoạn văn nghị  luận nói riêng, từ  đó các em học   tốt hơn phân môn Tập làm văn, đồng thời có thể ứng dụng những điều được   học vào các môn học khác cũng như vào đời sống.       Với văn nghị  luận, mỗi đoạn văn đều chứa một ý chính, ý chính có thể  đứng ở  đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn, tùy theo đoạn văn viết theo cách  diễn dịch hay qui nạp. Cũng có khi ý chính nằm trong nội dung các câu khi  đoạn văn được triển khai theo cách song hành...Từ  những bài tập viết đoạn  văn nghị luận, giáo viên chú ý rèn luyện cho học sinh lớp 9 kĩ năng diễn đạt   đúng và hay trong làm văn, tập vận dụng một các sáng tạo, tổng hợp những   kiến thức đã tiếp thu qua bộ môn Ngữ văn và cả những kiến thức văn hóa, xã  hội để từ đó các em có thể viết và nói trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.   Thông qua nội dung các đoạn văn còn rèn luyện cho các em một số đức tính  như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì, giúp các em phân biệt đúng, sai,  tốt, xấu...Từ đó nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng tới chân, thiện, mĩ, các   em biết sống tốt hơn, đẹp hơn.   IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:  ­  Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 9.  ­  Phạm vi nghiên cứu: Hướng dẫn HS lớp 9 viết các đoạn văn nghị luận.   ­   Phương pháp nghiên cứu:        Đây là kinh nghiệm của bản thân khi tiến hành giảng dạy, tôi  đã thực  hiện như sau : 4   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  5.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9       ­ Dùng sách giáo khoa, tìm hiểu sách giáo viên, đọc kĩ  thể  loại văn nghị  luận, đọc kĩ các dạng đoạn văn nghị  luận,  từ  đó rút ra kinh nghiệm hướng  dẫn học sinh.     ­ Tham khảo thêm một số bài văn, đoạn văn mẫu về văn nghị luận ở trong  các sách tham khảo, nâng cao để  tìm ra cái chung cơ  bản khi tiến hành làm  dạng bài tập này.    ­ Viết các đoạn văn mẫu cho học sinh tham khảo.              PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ     I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:    Rèn kĩ năng viết đoạn văn là phát huy năng lực và tư  duy cho HS . Để  rèn   luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi HS phải suy nghĩ và yêu cầu diễn   đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng phương tiện ngôn ngữ phù hợp với ý  của đoạn để  hiệu quả  diễn đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn hút, thuyết  phục người đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với các kĩ năng khác trong việc  làm bài văn nghị luận như tìm ý, lập dàn ý, luyện nói, viết bài văn hoàn chỉnh.   Đây là những thao tác , những kĩ năng có khi thực hiện cùng một lúc. Cũng có   khi thao tác dựng đoạn văn được thực hiện riêng đó là khi HS  học các bài xây  dựng đoạn văn hoặc giáo viên ra các bài tập ngắn, bài kiểm tra coa câu yêu  cầu viết đoạn văn.   II. NỘI DUNG THỰC HIỆN: A. NHỮNG DẠNG BÀI TẬP GIÚP HS RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN:     Để HS làm tốt dạng bài tập: Viết đoạn văn nghị luận, trước hết GV phải   cho HS hiểu rõ: Đoạn văn là gì? Có mấy cách trình bày nội dung trong một  đoạn văn?Câu chủ đề là gì?   *Khái niệm đoạn văn: 5   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  6.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9       Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi   đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý  tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.(SGK Ngữ  văn 8­Tập 1­Trang 36­NXB GD 2010)  *Các cách trình bày nội dung trong một đoạn văn:         Nội dung của đoạn văn có thể được trình bày theo nhiều cách khác nhau,   nhưng   thường dùng các cách phổ  biến sau: Diễn dịch, qui nạp, móc xích,  song hành, bên cạnh đó còn có đoạn văn trình bày theo cách tổng­ phân­ hợp,  đoạn văn mang kết cấu so sánh, nhân quả, đòn bẩy... * Từ ngữ chủ đề và câu chủ đề của đoạn văn:      Đoạn văn thường có câu chủ đề và từ ngữ chủ đề. Từ  ngữ chủ đề  là các   từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc từ ngữ được lặp lại nhiều lần nhằm duy   trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn   gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. 1.CỤ THỂ CÁC CÁCH TRÌNH BÀY NỘI DUNG TRONG MỘT ĐOẠN VĂN: a.Đoạn văn diễn dịch:(Có câu chủ đề)      Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ  đề  mang ý nghĩa khái quát   đứng   ở  đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho  câu chủ  đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích,  chứng minh, phân tích, bình luận, có thể  kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc   lộ cảm nhận của người viết. Đoạn văn mẫu:        “Đọc “ Sang thu”(Hữu Thỉnh) ta cảm nhận một mùa thu đẹp, lặng lẽ và   nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn ta. Mùa thu với   hương  ổi nồng nàn, với sương chùng chình nửa đi nửa  ở, với đám mây mùa   6   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  7.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 hạ còn   “Vắt nửa mình sang thu”...Chất hiện thực trong thơ đã hòa hợp với   chất trữ tình. Đằng sau cách kể và tả của tác giả là nhịp đập của con tim lúc   trầm tư, khi rộn rã. Người đọc thấy lòng nôn nao nhớ  nhung xao xuyến về   một miền quê yêu dấu.”( Đoạn văn mẫu tác giả tự viết)   Kết cấu đoạn văn:       Câu 1 mang ý khái quát, các câu còn lại triển khai ý, làm rõ cho câu khái   quát. b. Đoạn văn qui nạp: (Có câu chủ đề)        Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ  ý cụ  thể, chi tiết nhằm   hướng tới ý khái quát nằm cuối đoạn văn. Các câu trên được trình bày bằng  các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh gía chung.   Đoạn văn mẫu :   “Chính Hữu khép lại bài thơ Đồng chí” bằng một hình tượng thơ:                           Đêm nay rừng hoang sương muối                           Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới                           Đầu súng trăng treo.  Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng. Bất chợt chiến sĩ ta có   một phát hiện thú vị  “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ  như  một tiếng reo vui   hồn nhiên mà chứa đựng nhiều ý nghĩa. Trong sự  tương phản giữa súng và   trăng, người đọc vẫn tìm ra được  sự  gắn bó gần gũi. Súng tượng trưng cho   tinh thần tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ  thù xâm lược, trăng tượng   trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng   mạn bay bổng đã hòa quyện vào nhau tạo nên hình tượng thơ  để  đời.” (Bùi  Thị Phương, HS lớp 9B­ Trường THCS Lê Đình Kiên­ Yên Định­Thanh Hóa.  Năm học 2009­2010)     Kết cấu đoạn văn:  7   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  8.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9      Từ câu 1 đến câu 6 phân tích hình tượng thơ ở cuối bài thơ “Đồng chí”, từ  đó khái quát vấn đề  trong câu cuối – câu chủ  đề, thể  hiện ý chính của cả  đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn có kết cấu qui nạp.   c. Đoạn văn song hành :(Không có câu chủ đề)     Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội   dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía  cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đoạn văn.      Đoạn văn mẫu :      “Trong tập “Nhật kí trong tù”(Hồ Chí Minh), có những bài phác họa sơ sài   mà chân thực đậm đà, càng tìm hiểu càng thú vị như  đang chiêm ngưỡng một   bức tranh cổ  điển. Có những bài cảnh lồng lộng sinh động như  những tấm   thảm thêu nền gấm chỉ vàng. Cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ tới   những bức tranh sơn mài thâm trầm, sâu sắc.” (Lê Thị  Tú An, HS lớp 9C­  Trường THCS Lê Đình Kiên­ Yên Định­ Thanh Hóa. Năm học 2005­2006)    Kết cấu đoạn văn:      Các câu trong đoạn văn có vai trò ngang nhau cùng triển khai một nội dung   đó là: vẻ đẹp của các bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” của Bác .   d. Đoạn văn móc xích:    Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau  và thể  hiện cụ  thể  bằng việc lặp lại một vài từ  ngữ  đã có  ở  câu trước vào  câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề.    Đoạn văn mẫu :      “Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ  thì phải trồng cây gây rừng.   Trồng cây gây rừng thì phải coi trọng chăm sóc bảo vệ để  vừa có gỗ  vừa có   có nhiều cây xanh bóng mát. Nhiều cây xanh bóng mát thì cảnh quan thiên   nhiên đẹp, đất nước có hoa thơm cỏ ngọt bốn mùa, thêm nữa còn có lâm sản   8   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  9.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 để  xuất khẩu. Nước sẽ  mạnh, dân sẽ  giàu, môi trường sống sẽ  được bảo   vệ.”( Đoạn văn mẫu tác giả tự viết)      Kết cấu đoạn văn:      Các ý trong đoạn văn tiếp nối nhau thể hiện chủ đề về việc trồng cây xanh   vừa bảo vệ cảnh quan thiên nhiên,bảo vệ môi trường vừa góp phần phát triển  kinh tế.      * Ngoài 4 cách trình bày nội dung trong một đoạn văn thường gặp như  :  diễn dịch, qui nạp, song hành và móc xích, trong quá trình giảng dạy giáo viên  có thể cung cấp thêm bài tập về các đoạn văn có các cách trình bày nội dung  khác với 4 cách trên. Cụ thể như sau :     e. Đoạn tổng­phân­hợp: (Có câu chủ đề ở đầu và cuối đoạn văn)         Đoạn tổng­phân­hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở  đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai  ý  khái quát.   Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những   câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân  tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ...để từ đó đề xuất nhận  định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, nâng cao vấn đề.    Đoạn văn mẫu:        “Đồng chí”(Chính Hữu) mang vẻ  đẹp riêng của anh bộ  đội những ngày   đầu kháng chiến chống Pháp. Đó là vẻ đẹp mộc mạc, giản dị nhưng hết sức   thiêng liêng. Số  phận của các anh gắn bó sâu sắc với số  phận chung của cả   dân tộc. Bài thơ  hòa chung vào dàn đồng ca hào hùng của văn học thời kì   mới­ thời kì của chủ  nghĩa yêu nước và chủ  nghĩa anh hùng cách mạng. Bài   thơ  là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, cao cả  và thiêng liêng.”( Nguyễn Thị  Thu Hà, HS lớp 9C­ Trường THCS Lê  Đình Kiên – Yên  Định – Thanh Hóa.  Năm học 2005­2006) 9   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  10.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9     Kết cấu đoạn văn:     ­ Câu đầu : ý khái quát bậc một.(Tổng)   ­ Hai câu tiếp : Triển khai ý khái quát.(Phân)   ­ Câu cuối : Nâng cao,mở rộng, khẳng định lại vấn đề.(Hợp)     g. Đoạn văn so sánh :      Đoạn văn so sánh có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau   giữa các đối tượng, các vấn đề...để  tữ  đó thấy được chân lí của luận điểm  hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có 2 kiểu so sánh khi viết đoạn  văn la: so sánh tương đồng và so sánh tương phản.   + So sánh tương đồng : Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một  ý tưởng VD: So sánh các tác giả, các đoạn thơ, đoạn văn có nội dung tương  tự nhau.  Đoạn văn mẫu :           “Ngày trước ông cha ta có câu”Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ  Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ  XX cũng viết :”Đường đi không  khó   vì  ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này vào   những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ   Hồ  Chí Minh cũng đề  cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài   thơ”Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới thành   công”. Câu thơ  thể  hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ  Chí Minh đồng   thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta.”(Phân tích văn thơ Chủ   tịch Hồ  Chí Minh­Lê Bá Hán­ Công ty sách và thiết bị  trường học Nghệ  Tĩnh­1988)    Kết cấu đoạn văn:       Câu 1,2 có nội dung tương đương với câu thơ  của Hồ  Chí Minh. Đây là   10   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  11.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 đoạn  văn có kết cấu so sánh tương đồng.   + So sánh tương phản : Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung,  ý tưởng VD: những hình  ảnh thơ  văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc  sống...tương phản nhau.    Đoạn văn mẫu :          “Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học tập để   thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo   đức, lễ  nghĩa, vốn là giá trị  cao quí nhất trong các giá trị  của loài người.   Những người luôn hợm mình, tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có   hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy   của người xưa : “Tiên học lễ, hậu học văn”.( 150 bài tập rèn luyện kĩ năng   dựng đoạn văn­ Nguyễn Quang Ninh – NXB Giáo dục1998)     Kết cấu đoạn văn:             Nội dung của đoạn văn nói về  quan niệm của việc học : học để  làm   người. Câu 1,2 nêu nội dung trái ngược với quan niệm , câu 3 nêu quan niệm.   h. Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy, bắc cầu:        Đoạn văn kết cấu đòn bẩy, bắc cầu là đoạn văn mở  đầu nêu một nhận  định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ  văn, những dẫn chứng gần  giống hoặc trái với ý tưởng (Chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở  để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.    Đoạn văn mẫu :    “Hình ảnh con người mới Việt Nam đã đi vào văn học với muôn hình nhiều   vẻ, lung linh sắc màu. Đó là những con người bình dị  mà vĩ đại, giản dị  mà   cao thượng. Đó có thể là những người hăng say lao động, làm chủ công việc,   làm chủ  cuộc đời trong “Đoàn thuyền đánh cá”(Huy Cận), hay những con   người “Lặng lẽ dâng cho đời” một phần sức lực nhỏ bé cho đất nước trong   11   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  12.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 “Mùa xuân nho nhỏ”(Thanh Hải). Và ta hãy dừng lại chiêm ngưỡng vẻ  đẹp   của những con người vô danh, âm thầm, lặng lẽ cống hiến sức mình cho công   cuộc xây dựng và bảo vệ  Tổ  quổc trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của   Nguyễn Thành Long.”     ( Đoạn văn mẫu tác giả tự viết)       Kết cấu đoạn văn:       Câu 1,2 giới thiệu chung về hình  ảnh con ngưòi mới Việt Nam trong văn   học. Các câu tiếp theo làm điểm tựa, làm cầu nối để  giới thiệu về  vẻ  đẹp  của những nhân vật trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ở câu cuối đoạn văn.     Lưu ý:   ­ Sau khi đưa các phần lí thuyết và giới thiệu các đoạn mẫu cho HS, GV ra   các bài tập yêu cầu các em luyện các dạng đoạn văn đã được học, sau đó cho   các em trình bày và yêu cầu các em khác nhận xét, sữa chữa, GV nhận xét,  uốn nắn để các em viết đoạn văn tốt hơn.    ­ Ngoài các kiểu kết cấu đoạn văn được giới thiệu  ở  trên còn có một số  kiểu đoạn văn được xây dựng theo kết cấu khác, song với HS THCS theo tôi   chỉ  cần đưa ra những dạng đoạn văn theo kết cấu như  trên để  học sinh dễ  nhận biết và dễ vận dụng vào quá trình làm bài văn nghị luận.   2. CÁC DẠNG BÀI TẬP VỀ CÂU CHỦ ĐỀ VÀ ĐOẠN VĂN:   a. Bài tập nhận diện câu chủ đề :      GV đưa ra các dạng bài tập nhận diện câu chủ đề, Ví dụ bài tập sau :    Bài tập:   Hai đoạn văn sau có câu chủ đề đứng ở những vị trí khác nhau .   Em hãy xác định câu chủ đề ở 2 đoạn văn?      Đoạn 1:     “Tất cả những đau thương ấy là vì đâu? Nguyễn Du cho rằng tại trời, tại   số mệnh. Nhưng số mệnh ở đây lại hiện ra dưới hình thức những con người,   12   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  13.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 bọn người ấy khá đông, đó là thằng bán tơ,Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư,   bọn  Ưng, Khuyển, tổng đốc Hồ  Tôn Hiến...Đày đọa Kiêù không phải chỉ  có   một người như  trường hợp Thạch Sanh. Đày đọa Kiều là cả  một xã hội.” (  150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn­ Nguyễn Quang Ninh – NXB  Giáo dục1998)     Đoạn 2:        “Nghệ  thuật trong “Nhật kí trong tù” rất phong phú. Có bài là lời phát   biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay. Có bài lại dùng lối ngụ ngôn rất thâm thúy. Có   bài tự  sự, có bài trữ  tình hay vừa tự  sự  vừa trữ  tình. Lại có bài châm biếm.   Nghệ thuật châm biếm cũng nhiều vẻ: khi là tiếng cười mỉa mai, khi là tiếng   cười phẫn nộ. Cũng có khi đằng sau nụ cười là nước mắt.”( 150 bài tập rèn   luyện kĩ năng dựng đoạn văn­ Nguyễn Quang Ninh – NXB Giáo dục1998)      Cho HS nhận diện ở đoạn 1 câu chủ đề nằm ở cuối đoạn văn.(Đoạn văn   qui nạp). Trong đoạn 2 câu chủ đề đứng ở đầu đoạn văn.(Đoạn diễn dịch)   b. Bài tập viết đoạn văn triển khai câu chủ đề đã cho :   Bài tập :  Cho các câu chủ đề  sau, hãy triển khai thành các đoạn văn và cho  biết đoạn văn được trình bày theo cách nào?  Câu 1: Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy.  Câu 2: Nếu Thúy Vân có một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang thì Thúy Kiều lại  mang vẻ đẹp mặn mà, sắc sảo.  Câu 3: Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất tố là người phụ nữ yêu chồng,  thương con tha thiết.  Câu 4: Có thể nói mọi người dân Việt Nam đều say mê Truyện Kiều.   Gợi ý : Câu chủ đề 1,4 có thể triển khai đoạn văn theo kết cấu qui nạp.              Câu chủ đề 2,3 có thể triển khai đoạn văn theo kết cấu diễn dịch. 13   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  14.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9   c. Bài tập luyện dựng đoạn văn không có câu chủ đề:(Đoạn song hành)   Bài tập 1: Hãy giải thích tại sao đoạn văn dưới đây gọi là đoạn song hành?    “ Ca dao là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ  thơ. Ca dao là hình thức trò  chuyện tâm tình của những chàng trai, cô gái. Ca dao là tiếng nói biết  ơn, tự  hào về  công đức tổ  tiên và anh linh của những người đã khuất. Ca dao là   phương tiện bộc lộ  nỗi tức giận hoặc lòng hân hoan của những người lao   động.”    Bài tập 2: Từ  những câu khởi đầu dưới đây, em hãy triển khai thành đoạn   văn có kết cấu song hành?   Câu 1: Hàng ngày Bác dùng bữa rất đạm bạc thường khi chỉ có cháo bẹ, rau  măng.   Câu 2: Ca dao, dân ca của chúng ta nói nhiều đến con cò.   Gợi ý:  Bài tập 1: Đoạn văn trên là đoạn văn có kết cấu song hành vì: các câu ngang  bậc nhau về ý, không câu nào phụ thuộc vào câu nào.  Bài tập 2: Đây là bài tập có các câu khởi đầu cho sẵn, nếu HS không tinh thì   sẽ dễ  triển khai thành đoạn văn có kết cấu diễn dịch(có câu chủ  đề), vì vậy  GV hướng dẫn HS cách viết đoạn văn theo kết cấu song hành, các câu tiếp  theo của câu đã cho phẩi triển khai các ý khác, chứ không triển khai ý đã cho  trước. Cụ thể các đoạn có thể viết như sau: (GV đưa ra các đoạn mẫu sau khi  HS đã trình bày bài tập của mình)    Đoạn 1: “Hàng ngày Bác dùng bữa rất đạm bạc thường khi chỉ có cháo bẹ,  rau măng. Còn giường nằm chỉ là những tấm ván hay cành cây ghép lại. Chỗ  làm việc là bàn đá chông chênh đặt cạnh bờ  suối. Phương tiện làm việc quí  nhất của Bác là chiếc máy chữ đã cũ.”   Đoạn 2: “Ca dao, dân ca của chúng ta nói nhiều đến con cò. Ca dao, dân ca   14   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  15.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 của chúng ta cũng nói nhiều đến con cua, cái bống. Rồi con trâu, con lợn, con  gà. Và lại cả những cái tôm, cái tép, con kiến, con ong nữa.” d. Bài tập chuyển đổi đoạn văn:  Bài tập 1: Từ  đoạn văn không có câu chủ  đề  dưới đây, em hãy viết thành   một đoạn văn có câu chủ đề đứng ở đầu đoạn hoặc cuối đoạn?      “Thương chồng ốm đau mà bị đánh đập, cùm kẹp, chị Dậu lấy thân mình   che chở  cho chồng trước đòn roi tàn nhẫn của bọn lính tráng. Phải bán con  chị như đứt từng khúc ruột. Đến khi bị giải lên huyện, ngồi trong quán cơm  mà nhịn đói, chị vẫn nghĩ đến chồng, đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tí.” Bài tập 2: Dựa vào nội dung đoạn văn sau, em hãy viết thành những đoạn   văn khác có nội dung tương tự nhưng theo các kiểu kết cấu khác?    “ Những ngày thơ ấu”(Nguyên Hồng) chủ yếu là những kỉ niệm đau buồn,   tủi cực của một đứa trẻ, sinh ra trong một gia đình bất hòa, phá sản và trụy   lạc, sớm phải sống bơ  vơ, lêu lổng. Gia đình ấy khi còn sung túc đã không  có hạnh phúc. Đứa con ra đời bởi một tình yêu gắng gượng. Người bố phẫn   chí, lặng lẽ trả thù số phận bằng những làn khói thuốc phiện. Người mẹ trẻ  trung, khao khát  hạnh phúc nhưng cũng đành chịu cúi  đầu trước lễ  giáo  phong kiến. Gia đình sa sút rồi phá sản. Cha chết, mẹ bỏ xứ đi tha phương  cầu thực. Bé Hồng­đứa trẻ mồ côi cha, xa tình mẹ phải sống đói rách, trong   sự  ghẻ lạnh của gia đình họ nội và thái độ  dửng dưng của xã hội.” ( Đoạn   văn mẫu tác giả tự viết)    Gợi ý: Bài tập 1: Đây là bài tập đơn giản HS có thể làm được ngay, các em chỉ cần  thêm câu chủ đề vào đầu hoặc cuối đoạn văn. GV để HS tự  làm, nếu chưa   hay thì sữa chữa. Bài tập 2: Bài tập này khó hơn vì yêu cầu các em chuyển đổi kết cấu đoạn  15   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  16.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 văn, trước hết yêu cầu các em xác định đây là đoạn văn thuộc kiểu kết cấu   diễn dịch, sau đó gợi ý các em chuyển đổi thành đoạn qui nạp, đoạn tổng­ phân­hợp...   ­ Chuyển thành đoạn văn qui nạp: các câu trong đoạn (từ câu 2 trở đi) có thể  giữ nguyên, câu 1(câu chủ đề) đưa xuống cuối đoạn và được viết lại cho phù   hợp như  sau “ Có thể  nói “Những ngày thơ   ấu”(Nguyên Hồng) chủ  yếu là   những kỉ niệmđau buồn, tủi cực của một đứa trẻ, sinh ra trong một gia đình   bất hòa, phá sản và trụy lạc, sớm phải sống bơ vơ, lêu lổng.”   ­ Chuyển thành đoạn tổng­phân­hợp : Toàn bộ  đoạn văn giữ  nguyên, viết  thêm câu kết đoạn, ví dụ câu sau “Dấu ấn tuổi thơ ấy cũng lớn dần lên trong   chịu đựng âm thầm, buồn tủi và chán chường của bé Hồng.”  B. CÁC LỖI HS THƯỜNG MẮC PHẢI KHI VIẾT ĐOẠN VĂN VÀ CÁCH SỬA LỖI:         Qua việc triển khai phần lí thuyết về các cách xây dựng đoạn văn trong   văn bản, cũng như kết hợp cho các em làm các dạng bài tập rèn luyện kĩ năng   xây dựng đoạn văn, tôi rút ra một số lỗi các em thường mắc và yêu cầu các   em sữa chữa các lỗi đó để  việc viết đoạn văn của các em đạt kết quả  tốt  nhất. Từ  đó các em biết viết những đoạn văn không những đúng mà phải  viết được những đoạn văn hay, bởi đây là một thao tác quan trọng để các em   có thể  làm tốt những bài văn theo yêu cầu của chương trình và có vốn kiến  thức về diễn đạt ứng dụng vào các môn học khác, ứng dụng vào cuộc sống.  Các lỗi HS thường mắc phải và cần sữa chữa cụ thể như sau:   +   Đoạn văn thiếu ý: Thường  ở những đoạn văn có câu chủ  đề  nêu nhiều ý   nhưng khi triển khai đoạn, các ý đó lại không được trình bày đầy đủ. Với lỗi   này GV hướng dẫn HS xác định rõ câu chủ đề có những ý nào, khi viết đoạn  văn cần triển khai đầy đủ các ý đã nêu ở câu chủ đề.     + Đoạn văn loãng ý : đó là những đoạn văn chứa quá nhiều câu mở  rộng   16   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  17.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 vấn đề, những câu này làm cho nội dung đoạn văn bị dàn trải, phân tán không  tập trung làm rõ nội dung chính của đoạn. Với những em hay mắc lỗi viết   đoạn văn dàn trải GV yêu cầu các em biết lựa chọn những câu v ăn tập trung  làm rõ cho ý chính của cả đoạn.    + Đoạn văn lạc ý : Đây là đoạn văn có câu chủ  đề  nhưng những câu đứng  sau hoặc trước câu chủ  đề  lại không phục vụ  cho câu chủ  đề  đó. Khi đoạn  văn lạc ý có thể sửa bằng 2 cách sau : (1) Thay câu chủ đề bằng câu phù hợp; (2) Viết các câu còn lại phù hợp với câu chủ đề.  + Lặp ý : Đó là đoạn văn có chứa những câu có ý trùng  nhau, lặp lại nội   dung những câu đã có. Với đoạn mắc lỗi này nên hướng dẫn HS bỏ các câu   lặp để đoạn văn trở nên gọn gàng.   + Đứt mạch ý : Đoạn văn đứt mạch ý là đoạn văn trong đó các câu không có  sự liên kết về nội dung cũng như hình thức. Chữa lỗi này bằng cách yêu cầu   các em thêm các câu, các từ ngữ có tác dụng liên kết các câu trong đoạn văn.  + Lỗi logic : Đoạn văn có lỗi logic là đoạn văn có các ý trình bày lộn xộn,  không theo trình tự không gian hoặc thời gian hoặc các câu không phù hợp về  nội dung, phản ánh sai thực tế  khách quan. Cách sửa lỗi này là : GV hướng  dẫn HS  khi trình bày các ý đoạn văn phải theo trình tự nhất định, các ý nhất   quán về nội dung, phù hợp với thực tế khách quan.    + Viết đoạn quá dài : HS không xác định được nội dung cụ thể của đoạn văn   nên các em không tách đoạn mà cứ  viết theo quán tính những đoạn văn thật   dài. Cách sửa lỗi này như  sau : GV hướng dẫn HS xem lại lí thuyết về  xây  dựng đoạn văn, hướng dẫn các em tách các phần đã viết thành những đoạn  phù hợp về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức.               Qua hệ thống các bài tập và qua việc phát hiện và sửa những lỗi các  em hay mắc phải trong khi viết đoạn văn GV cần định hướng cách viết đoạn  17   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  18.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 văn cho các em. Từ đó các em sẽ có ý thức rèn luyện để không mắc lỗi viết   những đoạn văn tùy tiện, các em vận dụng tốt cách viết đoạn văn vào quá  trình học tập và vào đời sống của mình. PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN    I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:          Từ việc áp dụng cách dạy HS xây dựng đoạn văn như trên vào các buổi  dạy bồi dưỡng, phụ đạo cho các em HS lớp 9, tôi thấy các em rất hứng thú   học tập, đa số các em hăng hái làm bài tập, hăng hái phát biểu xây dựng bài,  các em phát huy được tính tích cực, chủ  động trong học tập. Điều đáng ghi  nhận  ở  đây là sau khi được hướng dẫn, luyện tập và tìm ra các lỗi các em   thường mắc phải khi viết đoạn văn, nhiều em đã biết trình bày đoạn văn  đúng yêu cầu, không bị  mắc lỗi về  nội dung cũng như  hình thức. Từ  việc   nắm chắc cách viết đoạn văn nghị luận, cùng với việc nắm vững các thao tác   làm một bài văn nghị luận, các em HS lớp 9 đã làm được những bài văn nghị  luận đúng yêu cầu của đề bài. Nhiều em còn viết được những bài văn hay, ý  nghĩa sâu sắc, hành văn sắc sảo, lập luận chắc chắn, logic. Đây chính là mục  tiêu của tôi khi triển khai đề  tài này. Với các em HS lớp 9 việc viết tốt văn  nghị  luận chính là một phần hành trang để  các em tự  tin hơn khi bước vào  cấp học cao hơn, cũng là một phần hành trang để các em tự tin hơn khi bước   vào đời.         Sau khi triển khai đề tài này ở 2 lớp 9A, 9B trường THCS Lê Đình Kiên,  năm học 2009­2010, kết quả khảo sát  về việc viết đoạn văn như sau:  Phân loại Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém SL % SL % SL % SL %  Lớp 9A = 43 8 18,6% 24 55,8% 9 20,9% 2 4,7% 18   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  19.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 9B = 46 9 19,6% 25 54,4% 10 21,7% 2 4,3%     Như vậy sau khi triển khai đề tài này với đối tượng HS cụ  thể  thì tôi  thấy các em có nhiều tiến bộ trong việc viết đoạn văn nghị  luận. Số  HS  viết  được  đoạn văn nghị  luận  ở  mức  độ  khá giỏi tăng lên, số  HS viết  đoạn văn nghị luận yếu kém và trung bình giảm đi. II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: 1.Về giáo viên:  + Cần chuẩn bị  chu đáo bài giảng của mình, qua bài giảng cần phát huy   tính tích cực, sáng tạo của HS, tạo niềm hứng thú say mê cho các em trong  học tập. Đừng biến giờ  Tập làm văn thành những giờ  học lí thuyết cứng  nhắc, nặng nề, khô cứng mà nên linh hoạt vận dụng các phương pháp  giảng dạy khoa học, hợp lí cho từng bài, từng phần cụ  thể. Điều rất quan   trọng là người giáo viên phải biết biến những kiến thức phức tạp thành  những kiến thức đơn giản, dễ  hiểu, phù hợp với tâm lí, lứa tuổi của các   em. + Khi HS mắc các lỗi trong khi xây dựng đoạn văn, GV nên nhẹ nhàng chỉ  bảo, chỉ dẫn tận tình tùy theo nhận thức của từng em, từ đó tất cả các em  đều tiếp thu được kiến thức một cách nhẹ  nhàng, thoải mái, không gò ép.  Đây cũng chính là cách tạo hứng thú cho các em trong học môn Ngữ văn. + Trong các bài dạy về  xây dựng đoạn văn, GV phải có những đoạn mẫu  rõ ràng, phù hợp. + GV phải động viên, khuyến khích để  tạo hứng thú cho các em trong giờ  học, ghi điểm cho những em làm bài tốt và động viên những em học chưa  giỏi nhưng đã cố gắng hoàn thành bài tập của mình.     2. Về học sinh : + Đầu tiên phải cho các em nắm vững lí thuyết về  đoạn văn, sau đó mới   cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn . Cần tạo cho HS  thói quen tư duy  19   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
  20.                 Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9 tập trung, không xây dựng đoạn văn một cách lan man hay làm bài một cách  chiếu lệ. + Không lệ  thuộc vào các đoạn văn có sẵn trong SGK, trong các sách văn  mẫu mà cố gắng suy nghĩ, tư duy sáng tạo để làm bài cho tốt. + Khi làm dạng bài tập viết đoạn văn cần phải xác định nội dung đoạn văn  mình sẽ viết, dự kiến đoạn văn đó sẽ trình bày theo cách nào, đoạn văn có   hay không có câu chủ  đề, sau đó cần chú ý đến cách trển khai, sắp xếp ý   để viết được đoạn văn hoàn chỉnh.  III. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:             Qua nhiều năm thực hiện chương trình SGK theo chương trình đổi   mới, tôi đã có nhiều cố  gắng trong việc nghiên cứu, soạn giảng, sử  dụng  phương pháp phù hợp để  nâng cao hiệu quả  giờ  dạy. Là một giáo viên tôi   thiết nghĩ: Dù bất kì đứng trước một đơn vị  kiến thức nào cũng phải huy   động hết trí tuệ, dồn hết tâm huyết mà đào sâu suy nghĩ, tìm đến con đường  truyền tải đến học sinh một cách ngắn gọn nhất, dễ hiểu nhất, hợp với khả  năng tiếp thu của đối tượng, không nhất thiết cầu kì quá hoặc quá máy móc   bám vào cách đi của sách hướng dẫn, sách giáo khoa; phải tìm cho mình con  đường đi riêng, căn cứ  vào đặc điểm của từng vùng, từng lớp dạy để  học   sinh cảm nhận được nội dung của đơn vị  kiến thức. Với bộ  môn Ngữ  văn  đòi hỏi giáo viên đứng lớp cần phải suy nghĩ, phải luôn tìm tòi, sáng tạo, tìm  cho môn của mình một lối đi riêng. Và như vậy sẽ nâng cao chất lượng thực   sự  cho môn Ngữ  văn trong nhà trường, học sinh mới thực sự  yêu thích môn  làm văn, giáo viên dạy Văn mới lấy lại niềm tin, uy tín cho mình.            Do thời gian có hạn, đề tài của tôi mới chỉ viết ở một phạm vi hẹp, tôi   chỉ  đưa ra một số  dạng bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận,  chắc chắn còn nhiều bài tập hay mà tôi chưa tìm ra. Những điều tôi viết ra chỉ  20   Phạm Thị Nga – THCS Lê Đình Kiên ­ Yên Định                                 Năm học:  2010  ­2011
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2