intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

115
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vấn đề tèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh trong môn Ngữ văn cho đến nay đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu. Nhưng điểm mới trong sáng kiến kinh nghiệm “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9” mà tác giả thực hiện là kĩ năng viết đoạn văn theo form đề mới trong các kì thi, kiểm tra đánh giá hiện nay (có quy định về số lượng từ ngữ) của Bộ Giáo dục đào tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến kinh nghiệm: “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN  NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 9” 1
  2. Quảng Bình, tháng 01 năm 2020 CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến kinh nghiệm: “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN  NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 9” Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Hồng                                Chức vụ:   Giáo viên­ TT tổ KHXH                                 Đơn vị: Trường THCS An Thủy 2
  3. Quảng Bình, tháng 01 năm 2020 1. PHẦN MỞ ĐẦU: 1.1. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Nghị  quyết số  29­NQ/TW   Hội nghị  lần thứ  8 Ban chấp hành Trung  ương   khóa XI khẳng định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ  phương pháp dạy và   học theo  hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,   kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ  máy   móc,....Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả  giáo dục và đào tạo, đảm bảo trung thực và khách quan,...” Theo tinh thần đó, đổi  mới hình thức, đánh giá kiểm tra chất lượng học tập môn Ngữ  văn theo yêu cầu  phát triển năng lực học là cần thiết.  Đối với môn Ngữ văn, sự thay đổi lớn nhất trong kiểm tra, đánh giá đó là về  kĩ năng viết đoạn văn, đặc biệt là văn nghị luận của học sinh lớp 9. Thực tế, dạng   văn nghị luận các em được tiếp cận từ lớp 7 (khái quát về đặc điểm văn nghị luận,  phép lập luận chứng minh, giải thích). Lớp 8 học tiếp văn nghị luận (viết bài nghị  luận có sử  dụng yếu tố  biểu cảm, tự  sự và miêu tả).  Ở  lớp 9 đã có sự  kế  thừa,   nâng cao kiến thức về văn nghị  luận. Các em học văn nghị  luận xã hội (nghị  luận   về một sự việc, hiện tượng xã hội; nghị luận về tư tưởng đạo lí) và nghị luận văn  học ( nghị  luận về  tác phẩm truyện, đoạn trích hoặc nghị  luận về  một bài thơ,  đoạn thơ). Có thể  nói, việc tìm hiểu về  đoạn văn, về  văn nghị  luận có một hệ  thống từ  thấp đến cao phù hợp với lứa tuổi và cấu trúc chương trình Ngữ  văn   THCS. Qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận của  các em còn hạn chế. Đoạn văn các em viết còn mang tính chất cảm tính, nội dung   3
  4. lủng củng, thiếu mạnh lạc, chưa thể hiện chủ đề  rõ ràng, các ý sắp xếp lộn xộn,   thậm chí dấu hiệu đoạn văn không rõ: không viết hoa đầu dòng, chữ hoa đầu dòng  không  lùi;  xuống  dòng  tự  do,  hoặc   đoạn  văn  có   dung  lượng  quá  dài  hoặc  quá  ngắn,... Nhận thấy được tầm quan trọng về  kĩ năng viết đoạn văn đối với các em   học sinh THCS nói chung,học sinh lớp 9 nói riêng, bản thân tôi luôn trăn trở phải tổ  chức, khai thác kiến thức và rút ra phương pháp như thế nào để tất cả học sinh đều  vừa hiểu bài, nắm vững nội dung kiến thức bộ  môn Ngữ  văn 9, đồng thời thông  qua đó rèn luyện cho các em kĩ năng dựng đoạn văn có chất lượng tốt. Từ những lý   do trên,  bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tôi viết sáng kiến kinh   nghiệm: “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 9”. 1.2. ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Vấn đề tèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận cho học sinh trong môn Ngữ  văn cho đến nay đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu. Nhưng điểm mới trong sáng   kiến kinh nghiệm   “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận cho học sinh  lớp 9” mà tôi thực hiện là kĩ năng viết đoạn văn theo form đề mới trong các kì thi,  kiểm tra đánh giá hiện nay (có quy định về số lượng từ ngữ) của Bộ Giáo dục đào  tạo. 1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Sáng kiến kinh nghiệm này được thực hiện từ  năm học 2018­2019 đến nay.  Đồng thời, tôi chỉ nghiên cứu đoạn văn trong bài văn nghị luận.  Sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ  văn lớp 9 ở trường tôi đang công tác.   2. PHẦN NỘI DUNG: 2.1. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. Đối với bộ  môn Ngữ  văn 9 đặc biệt là văn nghị  luận, qua nhiều năm giảng   dạy tôi nhận thấy bên cạnh những thuận lợi cùng tồn tại những khó khăn nhất   định. 2.1.1. Thuận lợi: 4
  5. Nhà trường đã tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn về  đổi   mới phương pháp dạy học môn Ngữ  văn của Sở, Phòng Giáo dục để  giáo viên có  điều kiện học hỏi kinh nghiệm phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở THCS. Giáo viên được đào tạo đúng chuyên ngành Ngữ  văn, nhiệt tình trong giảng  dạy, có ý thức chấp hành kỉ luật tốt.  Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, quan tâm đến việc phát huy tính  tích cực, chủ động của học sinh.Có ý thức học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt   động dự giờ, rút kinh nghiệm.  Đa số  học sinh đã làm quen với cách học mới, tích cực chủ  động hơn trong   việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác trong làm bài tập chuẩn bị bài mới.  2.1.2: Khó khăn: Do thời gian tiết học chỉ giới hạn trong thời gian 45 phút nên quá trình truyền  đạt kiến thức bài học chiếm nhiều thời gian, quá trình rèn luyện kĩ năng viết còn   hạn chế.   Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng  tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Hứng thú đối với phân môn Tập làm văn, cụ  thể  là viết văn của các em  không cao, còn phụ  thuộc vào các trang mạng, lười suy nghĩ. Đoạn văn nghị  luận   các em viết còn lan man, thiếu câu chủ đề hoặc chủ đề không thể hiện rõ,.. Năm học 2018 – 2019, ngay từ đầu năm tôi đã ra một đề bài viết đoạn văn đề  khảo sát chất lượng của các em.  Đề  bài: Sau khi học văn bản “Chiếc lá cuối cùng” của tác giả  O­Hen­ri, em   hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về  lòng thương người (từ  10­12   dòng)  Kết quả thu được như sau: Giỏi Khá TB Yếu ­ kém Lớp SL SL % SL % SL % SL % 9 39 1 2.6 7 17.9 16 41.0 15 38.5 2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 5
  6. 2.1.Giải pháp 1: Củng cố kiến thức về đoạn văn cho học sinh.   2.1.1: Khái niệm: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, được qui ước bắt đầu từ  chỗ  viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ  chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương  đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.  Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề  là các từ  ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ  từ, đại từ,  các từ  đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ  đề  mang nội dung  khái quát, lời lẽ ngắn gọn thường đủ hai thành phần chính. Nó thường đứng ở đầu   hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ  chủ đề của đoạn.                                                                              (SGK Ngữ văn 8 tập 1) 2.1.2: Các cách trình bày nội dung trong đoạn văn. Thực tế  có rất nhiều cách trình bày nội dung trong đoạn văn nhưng để  cho   các em dễ hiểu và thực hành có hiệu quả thì giáo viên cần chỉ rõ một số cách cách  trình bày chủ yếu, thường xuyên sử dụng. 2.1.2.1. Diễn dịch: Là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề mang ý nghĩa khái  quát đứng  ở  đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ  đề, mang ý nghĩa   minh họa, cụ thể. những nội dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ  đề  đó. Các câu  triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình   luận có thể kèm những nhận xét, đánh giá của người viết. Ví dụ: Viết đoạn văn diễn dịch nội dung nói về sự sáng tạo trong sáng tác thơ: “Sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ  sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo (1). Tuy vậy, theo Xuân Diệu ­ tuyệt nhiên   không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo  ấy lên một cách quá đáng (2). Điều  ấy không hợp với thơ và không phải phẩm chất của người làm thơ  chân chính (3).  Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc tự  sáng tạo  ấy không trở  thành anh hùng chủ  nghĩa (4). Trong khi sáng tác nhà thơ  không thể cứ chăm chăm: mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong bài thơ này, tập   6
  7. thơ nọ (5). Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm toàn ý bằng sự xúc cảm tràn   đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách tự nhiên, nhà thơ sẽ  biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm bút”(6)... Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ  đề. Bốn câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ  đề. Đây là đoạn  văn giải thích có kết cấu diễn dịch. 2.1.2.2. Quy nạp: Là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch tức là đi từ  ý chi tiết, cụ  thể  nhằm hướng tới ý khái quát nằm  ở  cuối đoạn.  Các câu triển khai được trình bày   bằng các thao tác minh họa, lập luận, cảm nhận, bình luận và rút ra nhận xét, đánh  giá chung. Ví dụ:  Viết đoạn văn quy nạp trình bày cảm nhận của em về  đoạn kết bài thơ  “Đồng chí” của Chính Hữu. “Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ “Đêm nay rừng hoang  sương...../Đầu súng trăng treo” (1).Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm   súng (2). Bất chợt người chiến sĩ có một phát hiện thú vị: đầu súng trăng treo (3).  Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa (4). Trong sự  tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra sự gắn bó, gần gũi (5). Súng   tượng trưng cho tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ  thù xâm lược (6). Trăng  tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui (7). Khẩu súng và vầng trăng là hình   tượng sóng đôi trong lịch sử  dựng nước và giữ  nước của dân tộc Việt Nam bất   khuất và hào hoa muôn thuở (8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng  đã hòa quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để đời (9). Mô hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai, phân tích hình tượng thơ  trong đoạn  kết bài thơ “Đồng chí” để từ  đó khái quát vấn đề  trong câu cuối – câu chủ  đề  thể  hiện ý chính của đoạn là đáng giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích có   kết cấu quy nạp. 2.1.2.3. Tổng  phân  hợp: Là cách trình bày nội dung phối hợp diễn dịch và quy nạp. Câu mở đoạn nêu   ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái   quát bậc hai mang tính chất nâng cao. mở  rộng. Những câu khai triển được thực  7
  8. hiện bằng cách thức giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá  hoặc nêu cảm tưởng để  từ  đó đề  xuất nhận định đối với chủ  đề, tổng hợp lại,   khẳng định thêm giá trị của vấn đề. Ví dụ:  Viết đoạn văn tổng   phân   hợp nội dung nói về  đạo lí uống nước nhờ  nguồn. “Lòng biết ơn là phẩm chất tốt đẹp của đạo lí làm người (1). Hiện nay, trên  khắp đất nước đang dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt  sĩ, những bà mẹ anh hùng, những gia đình có công với cách mạng (2). Đảng và Nhà  nước cùng toàn dân thực sự quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách (3),...Và  những cuộc hành quân về  chiến trường xưa tìm lại hài cốt đồng đội, những nghĩa  trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở  mọi người, mọi thế  hệ  hãy nhớ   ơn các liệt sĩ đã hi sinh anh hùng vì độc lập, tự  do,... (4). Không thể  nào kể  hết những biểu hiện sinh động, phong phú của đạo lí  “uống nước nhớ  nguồn” của dân tộc ta (5). Đạo lí này là nền tảng vững vàng để  xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân văn hơn(6). Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gồm sáu câu: Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định  khái quát về  đạo làm người đó là lòng biết  ơn. Bốn câu tiếp (phân): Phân tích để  chứng minh biểu hiện của đạo lí uống nước nhớ  nguồn. Câu cuối (hợp): Khẳng   định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối với việc xây dựng xã hội. Đây là đoạn văn chứng minh có kết cấu tổng phân hợp. 2.1.2.4. So sánh: gồm hai cách trình bày chủ  yếu là so sánh tương đồng và so sánh  tương phản. a.So sánh tương đồng: So sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý   tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn,...có nội dung tương  tự nội dung đang nói đến. Ví dụ: Viết đoạn văn so sánh tương đồng nội dung nói về  hình  ảnh “vầng trăng”   trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy và những bài thơ khác mà em biết. “Tuổi thơ  Nguyễn Duy gắn bó với trăng và cả  khi trở  thành người lính thì   trăng vẫn là người bạn tri kỉ  “hồi chiến tranh  ở  rừng/ vầng trăng thành tri kỉ”.(1)   Bằng nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Duy đã khắc họa vẻ đẹp tình nghĩa, thủy chung   8
  9. của hai người bạn: trăng và người lính, người lính và trăng (2). Cuộc sống trong   rừng thời chiến tranh biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người  lính bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngại (3). Trăng đến   tỏa ánh sáng dịu mát cho người chiến sĩ “gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm”  (Hồ  Chí Minh) (4). Trăng đến bên người chiến sĩ cùng chờ  giặc tới trong những  đêm khuya sương muối “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu) (5). Trăng với người  lính trong thơ thật gần gũi và gắn bó (7). Đặc biệt, trong thơ Nguyễn Duy ánh trăng   đã trở thành một biểu tượng cao đẹp, là “vầng trăng tri kỉ” “vầng trăng tình nghĩa”  (8). b.So sánh tương phản: So sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý   tưởng: những hình  ảnh thơ  văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,....tương  phản nhau. Ví dụ: Đoạn văn so sánh tương phản có nội dung nói về việc học tập. “Học tập là một hoạt động không thể thiếu đối với sự trưởng thành với mỗi  người (1). Tuy nhiên, quan niệm về học tập mỗi người khác nhau (2). Trong cuộc  sống, không thiếu những người cho rằng chỉ  cần học tập mới trở thành người có  tài, có trí tuệ giỏi hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ  nghĩa. Họ quên mất rằng giá trị đạo đức nhân cách mới là giá trị  cao quý nhất của  con người (3). Và những người  ấy luôn sống ích kỉ, cá nhân, thiếu sự  khiêm tốn,  đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội (4). Đối với những người ấy, chúng   ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân “Tiên học lễ, hậu học văn” (4).  Ngoài các cách trình bày nội dung phổ biến trên còn có một số cách trình bày  nội dung khác như: móc xích, song hành, nhân quả,.... 2.2 Giải pháp 2: Rèn luyện kĩ năng nhận biết, dựng đoạn cho học sinh qua các   bài tập. Muốn có kĩ năng viết đoạn văn tốt, bên cạnh củng cố kiến thức về đoạn văn   thì giáo viên cần giúp các em nhận biết cách trình bày các đoạn văn; tập dựng đoạn  trên cơ sở các câu cho sẵn (nhưng bị sắp xếp lộn xộn). Khi nhận biết cách trình bày   nội dung đoạn văn cũng như biết cách dựng đoạn qua những ngữ liệu giáo viên cho  trước các em sẽ có hứng thú cũng như kĩ năng viết đoạn tốt hơn. 9
  10. Bài tập 1: Đọc đoạn văn sau: “ Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên tha thiết (1). Ông yêu một bến đò xuân đầu  trại với đôi bờ “Cỏ non như khói bến xuân tươi”(2). Ông yêu một con đò trong làn   mưa xuân gối đầu lên bãi cát nằm nghỉ suốt ngày(3). Yêu một ánh trăng trong lòng  suối soi vào chén rượu đêm thanh, yêu một đóa hoa mai, một khóm trúc, một cây  thông, một tiếng suối tì rầm như tiếng đàn cầm (4). Hương xoan, tiếng cuốc gọi hè  đều làm nhà thơ bồi hồi xúc động (5). a. Nội dung đoạn văn trên được trình bày theo cách nào?  b. Xác định chủ đề của đoạn văn? Vị trí câu chủ đề? Kết luận: Nội dung đoạn văn được trình bày theo cách diễn dịch. Câu chủ  đề  nằm  ở  đầu đoạn văn nói về  tình yêu thiên nhiên tha thiết của   Nguyễn Trãi. Câu chủ đề nằm ở đầu đoạn văn (câu 1). Bài tập 2: Đọc đoạn văn sau: “Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ  đầu tằm”, ta càng thấy chị  Dậu thật là một  người phụ nữ đảm đang, tháo vát (1). Một mình chị  phải giải quyết mọi khó khăn  đột xuất của gia đình, phải đương đầu với thế  lực tàn bạo: quan lại, cường hào,   địa chủ và tay sai của chúng (2). Chị có khóc lóc, có kêu trời nhưng chị không nhắm   mắt khoanh tay mà tích cực tìm cách cứu được chổng ra khỏi cơn hoạn nạn (3).   Hình  ảnh chị  Dậu hiện lên như  một chỗ  dựa vững chắc của gia đình” (Nguyễn   Đăng Mạnh) (4).)” c. Nội dung đoạn văn trên được trình bày theo cách nào?  d. Xác định cấu tạo của đoạn văn? Kết luận: Là cách trình bày đoạn văn ngoài câu chủ  đề  đặt  ở  đầu đoạn ra còn có câu  kết mang nội dung khái quát, tổng kết và nhấn mạnh chủ  đề  đoạn văn. (nội dung   được trình bày tổng phân hợp). 10
  11. Đoạn văn có cấu tạo 3 phần: Mở  đoạn: Câu chủ  đề  nêu ý chính khái quát  (câu 1). Thân đoạn: Các câu chứa ý phụ  triển khai làm rõ ý chính (câu 2,3). Kết   đoạn: Câu kết khẳng định, tổng hợp lại vấn đề (câu 4) Bài tập 3: Đọc đoạn văn sau: “Những ngôi  nhà cao tầng đang  được hoàn thiện khẩn trương (1).  Đó  là  những hình ảnh về một Hà Nội năng động, trẻ trung trong thời đại mới (2). Những   tấm biển sặc sỡ  trên đường phố  quảng cáo cho những sản phẩm của các công ty   nổi   tiếng.   Những   văn   phòng   đại   diện   đứng   chen   chân   ở   các   đường   phố   trung  tâm(3). Những khách du lịch nước ngoài đứng ngơ ngác ở các ngã ba, ngã tư,..(4)” a. Nhận xét sự sắp xếp các câu văn trong đoạn văn? b. Đoạn văn được trình bày theo cách nào? Vị trí câu chủ đề? Kết luận: Các câu văn trong đoạn văn trên sắp xếp lộn xộn, không theo trình tự. Sắp  xếp lại :1, 3,4 2. Nội dung đoạn văn được trình bày quy nạp. Câu chủ  đề  nằm  ở  vị  trí cuối  cùng nói về sự trẻ trung, năng động của Hà Nội trong thời đại mới. 2.3 Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh kĩ năng viết thànhđoạn văn. Khi viết bài văn nói chung và viết đoạn văn nói riêng, để viết thành công, cần  chú ý tuân thủ các bước sau: * Bước 1: Xác định yêu cầu của đề: Căn cứ vào đề bài, giáo viên yêu cầu học sinh cần phải xác định rõ nội dung  cần trình bày trong đoạn là gì? (Nội dung đó sẽ  được thể  hiện  ở  câu chủ  đề. Và  cũng là định hướng đề triển khai các câu còn lại). Nội dung đó được trình bày theo   cách nào?  Khi đọc đề  các em phải hình thành cho mình một thói quen đó là gạch  chân dưới những từ quan trọng làm nổi bật lên yêu cầu của đề.  Ví dụ: Em hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Thúy   Kiều qua tám câu thơ đầu (Kiều ở lầu Ngưng Bích ­ Nguyễn Du) 11
  12. Với đề  văn này các em cần phải xác định được các từ  quan trọng sau: đoạn  văn (hình thức), cảm nhận (nghị  luận), tâm trạng của Thúy Kiểu qua tám câu thơ  đầu (nội dung, vị trí).  * Bước 2: Xác định từ chủ đề, câu chủ đề cho đoạn văn: Đây là một bước rất quan trọng. Bởi lẽ các em xác định sai vị trí câu chủ đề  đồng nghĩa các em sẽ  viết sai yêu cầu của đề  bài hoặc  không xác định được câu  chủ đề dễ dẫn đến viết lan man, không có trọng tâm. * Bước 3: Tìm ý cho đoạn (triển khai ý): Khi đã xác định được câu chủ đề cho đoạn văn, cần vận dụng các kiến thức  đã học có liên quan để phát triển chủ đề đó thành các ý cụ thể, chi tiết. Nếu các em   bỏ qua hoặc là xem nhẹ thao tác này thì đoạn văn dễ rơi vào luẩn quẩn, lủng củng,  rời rạc. * Bước 4: Viết các ý thành đoạn văn: Giọng văn: phải tìm cho mình giọng văn thích hợp: Giọng văn là sự thể hiện  thái độ, tình cảm, tư  tưởng của người viết trước vấn đề  mà mình trình bày. Qua  giọng văn, người đọc dễ dàng nhận ra người viết tán thành hay phản đối, ngợi ca  hay châm biếm,... Ví dụ: Đến với tác phẩm “Truyện Kiều” của tác giả  Nguyễn Du: nếu nói về  số  phận của Thúy Kiều, giọng văn của ta phải thể hiện được sự  xót xa, đau đớn cho  số  phận của người phụ  nữ  tài sắc nhưng bạc mệnh; nhưng nếu nói về  xã hội   phong kiến lúc bấy giờ thì ta phải lên án, tố cáo mạnh mẽ bọn quan lại đã chà đạp   lên số phận của con người mà cụ thể là người phụ nữ,... Để học sinh hiểu, giáo viên đôi khi phải làm mẫu việc phân tích từ ngữ, viết  đoạn để  học sinh, đặc biệt là những học sinh kĩ năng viết còn hạn chế  nắm bắt   được cách thức, quy trình phân tích từ  ngữ, kĩ thuật dựng đoạn chứ  không chỉ  nói   suông. Dùng hình  ảnh, dẫn chứng trong đoạn văn nghị  luận:  Văn nghị  luận là  văn tư duy, lôgic, ý tứ  lập luận chặt chẽ, sắc bén, giàu sức thuyết phục. Bởi vậy,   một đoạn văn nghị luận hay bên cạnh lập luận phải luôn có dẫn chứng, hình ảnh. 12
  13. Ví dụ: Khi viết đoạn văn nghị luận về lòng thương người, các em có thể sử  dụng  nhiều dẫn chứng, hình ảnh từ thực tế hoặc từ những tác phẩm được học như: hình  ảnh cụ  Bơ­men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”, hoặc những chương trình  truyền hình thực tế như “trái tim cho em”,... Dẫn chứng, hình ảnh phải đạt yêu cầu   chính xác, phù hợp, tiêu biểu, toàn diện. KẾT QUẢ  Để nắm bắt được hiệu quả kĩ năng viết đoạn văn nghị luận của các em, tôi  đã tiến hành so sánh, đối chiếu với kết quả đầu năm học qua bài kiểm tra 20 phút .  . Kết quả thu được như sau: *Đối với lớp 9 (năm học 2019­2020)  Giỏi Khá TB Yếu ­ kém Lớp SL SL % SL % SL % SL % 9 39 5 12.8 14 35.9 14 35.9 6 15.4 Qua bảng số  liệu, ta có thể thấy được kết quả  trước và sau khi rèn kĩ năng   viết đoạn văn nghị luận cho các em: tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng ở  mức đáng kể; tỉ  lệ học sinh yếu kém đã giảm xuống.  Có thể khẳng định, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận giúp các   em có ý thức học tập hơn, bước đầu đã đem lại những kết quả khả quan. C. PHẦN KẾT LUẬN  1. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM Đối với học sinh, rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận một quá trình dạy học   theo kiểu “mưa dầm thấm lâu” từ  đó sẽ  góp phần vào việc củng cố, nâng cao kĩ   năng viết làm văn cho các em. . Đối với giáo viên, sáng kiến kinh nghiêm góp phần bổ sung thêm kinh nghiêm  dạy học những giải pháp phù hợp trong quá trình rèn kĩ năng làm văn cho các em nói  riêng và trong bộ môn Ngữ văn nói chung.  2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:  Đối với giáo viên:  13
  14. Thường xuyên chú trọng rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong các tiết học  trong  thời lượng, nội dung phù hợp. Đối với học sinh: Có ý thức rèn luyện kĩ năng  viết đoạn văn nghị luận không chỉ trong tiết học  mà thường xuyên rèn luyện nó trong các bài tập về nhà. Bằng những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra được qua thực tiễn dạy   học được trình bày trong sáng kiến này hi vọng sẽ  góp một phần không nhỏ  cùng   với các đồng nghiệp giảng dạy bộ môn Ngữ văn và các bộ môn khác đẩy mạnh đổi   mới phương pháp dạy học cho học sinh.  Tôi xin chân thành cảm ơn! 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2