intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:40

27
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà" với mong muốn rèn kỹ năng tự học, phát triển năng lực học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy học. Học sinh không chỉ học tri thức của mà còn học cả cách tìm ra tri thức và những kỹ năng cần thiết để có thể tự học tập một cách tích cực, chủ động và độc lập. Mời quý thầy cô và các em cùng tham khảo nội dung chi tiết tại đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà

  1. 1 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài 1. Cơ sở lí luận Trong báo cáo của UNESCO [4,66,67,83]: “Học tập – một kho báu tiềm  ẩn” đã xác định các trụ cột của giáo  dục  như sau: “Học để hiểu,  học để  làm,   học để  hợp tác, cùng chung sống và học để làm người”,  hướng  tới xây dựng  một xã hội  học tập. Muốn thực hiện được điều này, trong dạy học hiện nay,   một trong những  mục tiêu quan trọng là phải hình thành phương pháp tự học ở  người học. Học sinh không chỉ  học tri thức của mà còn học cả  cách tìm ra tri  thức và những kỹ năng cần thiết để có thể tự học tập một cách độc lập và chủ  động. Như vậy, kiến thức chưa phải là đích cuối cùng mà thông qua kiến thức   học thúc đẩy được động cơ, hình thành được phương pháp, kỹ  năng  học. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng sức  mạnh  nội lực  –  tự  học của con người. Nghị quyết Trung ương II khóa VIII (12/1996) đã khẳng định:  “Đổi   mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ  một chiều,  rèn  luyện  thành  nếp  tư  duy sáng  tạo  của  người  học;  từng  bước  áp  dụng  các  phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời  gian tự  học,  tập  trung nâng cao chất lượng, phát triển phong trào tự  học, tự  đào  tạo thường xuyên,  rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh nhiên…”.  Muốn thực  hiện được điều này, trong dạy học hiện nay, một trong những  mục tiêu quan  trọng là phải hình thành phương pháp tự  học  ở  người học. Học sinh không chỉ  học tri thức của mà còn học cả cách tìm ra tri thức và những kỹ  năng cần thiết  để có thể tự học tập một cách tích cực, chủ động và độc lập. Như  vậy, có thể  nói tự học là một trong những kĩ năng quan trọng của giáo dục, là năng lực cần có  của mỗi học sinh. Đặc biệt, đối với chương trình phổ thông mới thì việc tự học là  một trong năng lực quan trọng và cần thiết đối với học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn
  2. 2 Tuy nhiên, đối với học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng, khả năng  tự học còn chưa tốt, các em chưa có ý thức, kĩ năng, phương pháp cũng như kinh  nghiệm. Điều đó dẫn đến hoạt động tự học của học sinh hiện nay vẫn còn nhiều  bất cập. Trong  hoạt  động dạy học nói  chung và  dạy học môn  Ngữ  văn  cấp  THCS nói riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét,  thụ  động. Khả năng tự học ­ yếu tố nội lực ở học sinh vẫn ở  dưới dạng  tiềm  năng.  Việc  rèn phương pháp tự  học cho học sinh trong môn Ngữ văn còn gặp không ít  khó khăn. Thực  tế  hiện nay cho  thấy, số  học  sinh yêu thích môn  Ngữ  văn ngày  càng ít đi, một số ít bộ phận học sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy  được niềm đam mê học Văn ở các em. Trong hai năm học vừa qua, do tình hình đại dịch Covid diễn biến phức  tạp nên hoạt động dạy học đã bị ảnh hưởng rất lớn. Thay vì dạy học trực tiếp   như  trước, đã có nhiều thời điểm trong năm học chúng ta phải chuyển   sang   hình thức  dạy học trực tuyến. Trong bối cảnh dạy học trực tuyến, việc  tự  học   lại càng trở  nên  cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần Công văn 4040/BGDĐT –  GDTrH ngày 16/9/2021, hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông  cấp THCS, THPT năm học 2021 – 2022  ứng phó với dịch Covid –   19 thì sự  giảm tải đã được thể hiện rất rõ ở tất cả các môn học. Trong đó, bộ  môn Ngữ  văn có rất nhiều các  đơn vị bài học đã được chuyển thành hình thức tự đọc, tư  học, tự  làm nên càng làm cho vai trò của hoạt động tự  học trở  nên quan trọng   hơn bao  giờ  hết. Làm thế  nào để  học sinh THCS có thói quen tự  học? Đây là  một bài toán mà các giáo viên cần đặc biệt quan tâm và cũng là vấn đề mà  bản  thân tôi vô cùng trăn trở, khi giáo viên và học sinh chỉ có thể tương tác với nhau   qua màn hình nhỏ. Nhằm đáp ứng được những đòi hỏi đó và góp phần vào việc  nâng cao chất lượng học tập cho học sinh hiện nay, tôi đã thực hiện đề tài: “Rèn   kỹ năng tự học Ngữ văn cho  học sinh trung học cơ sở (THCS) qua hoạt động tự  học  ở nhà” với mong muốn góp một số ý kiến nhỏ  của mình trong việc rèn kỹ  năng tự học, phát triển  năng lực học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy   học.
  3. 3
  4. 4 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Những nội dung lí luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu 1. Khái niệm tự  học Tự học là hoạt động nhận thức có tính độc lập cao do cá nhân tự tri giác, tiếp  thu, lĩnh hội các kiến thức, các kinh nghiệm thông qua các hình thức,   thao  tác trí  tuệ  khác nhau nhằm hoàn thiện, nâng cao trình độ, năng lực người học, biến những  tri  thức  của  nhân loài thành  tri  thức  của bản  thân. Tự  học  có  thể  thông  qua các  phương pháp và hình thức khác nhau như: Tự  học qua sách vở, giáo trình; tự  học  qua mạng xã hội, qua tạp chí  sách báo.   2. Những lợi ích của việc tự  học Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  thông qua năm 2019 quy định rõ: “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, chủ  động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực  tự  học,  khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động  suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học  giúp ta tiếp thu được kiến thức từ  nhiều  nguồn khác nhau như sách, báo, từ  truyền  hình tivi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của  nhân dân. Tự  học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm  được thời gian, có thể tiếp  thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc  bài học. Qua tự  học, chúng ta biết  chủ  động  luyện tập thực hành, giúp ta có thể  nhanh chóng hình thành  kĩ  năng,  củng cố  và nâng cao kiến thức đã học. Vì vậy,  chủ  động tự  học sẽ  giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu  quả cao cho chính bản thân mình. Tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong  học tập, mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể. Tự  học sẽ  giúp ta nhớ lâu  và  vận  dụng  những  kiến  thức  đã  học một  cách  hữu   ích  hơn  trong  cuộc sống.  Ngoài ra, tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, tích cực, không ỷ 
  5. 5 lại, không phụ  thuộc vào  người khác. Người biết tự  học là người có ý thức cao,  chủ động trong cuộc sống của chính mình, những người này sẽ đi nhanh đến thành  công hơn. Tự  học giúp con người chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, tiếp thu  được  nhiều kiến thức  bổ  ích  và  có  thể    tự  rút ra  được  những bài học cho  riêng  mình.  II. Thực trạng về vấn đề kĩ năng tự học của học sinh 1. Thực trạng Trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc rèn luyện kỹ  năng tự  học cho học sinh là vô cùng cần thiết, quan trọng. Trong  hoạt động dạy học nói  chung và dạy học môn  Ngữ  văn cấp THCS  nói riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét,   thụ  động.  Khả năng tự  học ­ yếu tố  nội lực ở học sinh vẫn ở  dưới dạng  tiềm  năng.  Việc  rèn  phương pháp tự  học cho học  sinh  trong  môn  Ngữ  văn  còn  gặp  không  ít  khó  khăn. Thực tế  hiện nay cho thấy, số  học sinh yêu thích môn Ngữ  văn ngày càng ít  đi, một số  ít bộ  phận học sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy được  niềm đam  mê học  Văn ở  các  em. Mặt khác, Ngữ  Văn là môn học  có  khối lượng  kiến thức khá rộng, mỗi  tuần ở  các khối 6, 7, 8 chiếm số  lượng 4 tiết/tuần riêng  khối 9 có 5 tiết/tuần. Với số  lượng trên ta thấy môn Ngữ Văn  chiếm số  lượng tiết  nhiều  nhất  trong tất cả  các môn học. Trong khi đó, ở các  tiết  dạy trên lớp, giáo  viên tuy có  dành thời gian rèn kỹ  năng tự  học cho  học   sinh   nhưng   chưa nhiều,  chủ  yếu tập trung hướng dẫn học sinh tìm  kiếm, khai thác kiến   thức   mới,  giải  quyết một số  bài tập ở  sách giáo khoa. Vì vậy, đòi hỏi học sinh phải có phương  pháp  tự học  ở  nhà thật tốt mới có thể nắm kiến thức trên lớp,  giáo  viên cần chú  trọng rèn kỹ năng tự  học cho học sinh, đặc biệt là tự học ở nhà. Cùng với đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa và trước yêu cầu đổi  mới phương pháp dạy học hiện nay, thì việc đổi mới phương pháp  dạy học môn  Ngữ văn bước đầu cũng đã có những thành công nhất định. Nhiều thầy cô giáo dạy  Ngữ văn cũng đã rất nhiệt tình,  tích cực  tìm tòi nghiên cứu, đề  xuất và thực  hiện 
  6. 6 các  phương pháp dạy học  nhằm phát huy tính  tích  cực,  chủ  động, sáng  tạo của  học  sinh  trong  việc  học  Ngữ  văn  cấp THCS. Thực  trạng  lên  lớp  theo  kiểu  thầy  giảng, trò nghe, thầy đọc trò chép đã giảm đáng kể, không khí  giờ Ngữ văn đã có  sự  biến đổi tích cực. Theo đó, khâu hướng dẫn học sinh học và chuẩn bị  bài  ở  nhà cũng được các thầy cô quan tâm hơn. Vì thế, việc rèn luyện kỹ  năng tự  học   Ngữ văn cho học sinh THCS được nâng lên đáng kể. Qua thực  tế giảng  dạy của   bản thân và dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng ở tiết học nào  học  sinh học   bài,  làm bài ở  nhà tốt dưới sự  hướng dẫn tích cực của giáo viên thì tiết học đó   học sinh hoạt động sôi nổi, tích cực, chủ  động hơn, hiệu quả  giờ  học cao hơn.   Rõ ràng tiết học đó phát huy được khả năng tự học của học sinh. Bên cạnh những điểm  đã làm  được  như  đã nêu trên,  việc  rèn luyện kỹ  năng tự  học  ở  nhà môn Ngữ  văn cho học sinh vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Để  tiến  hành thực hiện đề tài này, tôi tiến hành khảo sát thực tế học, làm bài tập ở  nhà của học sinh một số  lớp  ở  trường tôi qua hình thức trắc nghiệm và qua các   bài tập, bài kiểm tra. Sau đây là các số liệu khảo sát một số lớp khối  8 năm học  2020 – 2021: Bảng 1: Học bài cũ Lớp Không học bài Học chiếu lệ Học thuộc bài Học hiểu bài 13/50 15/50 12/50  10/50  8A1 (26%) (30%) (24%) (20%) 5/51  8A2 21/51 (41,1%) 18/51 (35,3%) 7/51 (13,7%) (9,8%) 8/45  7/45  8A3 14/45 (31,1%) 16/45 (35,5%) (17,8%) (15,6%) Bảng 2: Soạn bài Lớp Không soạn bài Soạn chiếu lệ Soạn chu đáo Soạn nâng cao
  7. 7 15/50 18/50 12/50 5/50 8A1 (30%) (36 %) (24%) (10%) 25/51 17/51 9/51 0/51 8A2 (49%) (33,3%) (17,6%) (0%) 9/45 15/45 16/45 5/45 8A3 (20%) (33,3%) (35,5%) (11,2%) Bảng 3: Làm bài tập Làm hết và  làm  Lớp Không làm bài Làm chiếu lệ Làm hết thêm ở sách khác 8/50 19/50 15/50 8/50 8A1 (16%) (38%) (30%) (16%) 23/51 17/51 0/51 8A2 11/51 (21,5%) (46%) (33,3%) (0%) 6/45 24/45  5/45  8A3 10/45 (22,2%) (13,3%) (53,3%) (11,2%) Qua kết quả  khảo sát, tôi thấy thực trạng học bài cũ, soạn bài, làm bài tập  đối  với  bộ  môn  Ngữ  Văn  ở  các  lớp học  sinh  của  trường  tôi  còn  thấp  và không  đồng đều giữa các lớp. Đặc biệt, số học sinh không làm và làm chiếu lệ vẫn chiếm  tỉ lệ cao. Thực trạng đó sẽ  làm cho học sinh có thói quen xấu như: căn bệnh ỷ  lại,  thiếu suy nghĩ, thiếu chí tiến thủ, thiếu tự  giác, thiếu  tích  cực  trong  việc  chiếm  lĩnh   kiến thức, rèn luyện kĩ năng vận   dụng kiến thức, phương pháp   để  làm bài  tập. Với yêu cầu đổi mới giáo dục, thực trạng đó chưa đáp ứng được chất lượng  học tập của học sinh, mục đích  giáo dục của ngành. Để  khắc phục   thực   trạng  trên,  việc  đặt vấn đề  rèn luyện kĩ năng tự học và làm bài tập ở  nhà trước khi đến  lớp   và  sau bài học,  tiết  học  là  một  vấn  đề  có  tính cấp bách  đối  với  học  sinh  THCS hiện nay. 2. Nguyên nhân của thực trạng ­ Đối với giáo viên
  8. 8 Giáo viên chưa tạo cho học sinh niềm tin, tình yêu, sự  đam mê đối với văn  học. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới,  phù hợp  kích thích tính tích  cực, chủ động của học sinh. Giáo viên chưa  thực   sự    chú   trọng đến  tầm quan trọng của  việc   rèn kỹ  năng tự học Ngữ văn THCS thông qua hoạt động tự học và chuẩn bị bài ở nhà của  học sinh. Số  tiết học sinh học bài và chuẩn bị bài chu đáo dưới sự  hướng dẫn tích  cực, cẩn thận của giáo viên còn ít, hầu như chỉ  tập  trung ở  những tiết thao  giảng,  thực   tập. Tình trạng giáo viên hướng dẫn học sinh học   ở  nhà qua loa,  chiếu lệ  vẫn còn xảy ra nhiều, kiểu như “Về  nhà các em nhớ  học  bài cũ và  soạn bài mới  chuẩn bị  cho tiết sau”, hay “Các em làm bài tập còn  lại ở  sách  giáo khoa và đọc  trước bài mới”, … Làm như vậy thì giáo viên đỡ  vất  vả,  mất  ít công sức  nhưng  chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh, chưa thể  hiện được sự  ràng buộc  với học  sinh trong việc giao nhiệm vụ  học  tập về  nhà, đặc   biệt   chưa cho  học  sinh nhận  thức được tầm quan trọng của việc học  ở  nhà, và đồng thời chưa thể  hiện được vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh tự học.  Vì  thế, việc hình thành và rèn luyện kỹ năng tự  học qua hoạt động học ở  nhà còn  chưa thường xuyên và đồng đều ở học sinh, hiệu quả học tập môn Ngữ Văn chưa  cao. Một số  giáo viên còn quá cứng nhắc trong việc hướng dẫn học sinh tự  học, chuẩn bị bài ở nhà như: yêu cầu học sinh phải giải toàn bộ bài tập, trả lời hết  tất cả  các câu hỏi có ở  sách giáo khoa không kể  khó hay dễ, không quan tâm đến  đối tượng học sinh. Giáo viên không định hướng trọng tâm kiến thức, kỹ  năng cho  học sinh. Ngoài ra,  giáo  viên tuy có hướng dẫn học sinh học  ở nhà nhưng lại lỏng lẻo  ở khâu kiểm tra: giáo viên chủ yếu  kiểm  tra số  lượng  bài tập học sinh hoàn thành  mà chưa chú  trọng đến chất  lượng làm bài của học  sinh tạo cơ  hội cho các  em  chép bài theo tài liệu, chép lại bài của bạn để đối phó. Giáo viên chưa có  biện pháp để  động viên kích  thích sự  hứng thú học tập 
  9. 9 hoặc chưa có biện pháp nhắc nhở, răn đe kịp thời, chưa tạo được động lực học tập  cho học sinh nên chưa phát huy được tính tích cực, tự  giác, tự  học của học sinh  trong quá trình học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà. Trong các tiết  dạy học, thời gian  cho dành cho hoạt động hướng dẫn tự học  ở  nhà và kiểm tra hoạt động này không nhiều. Vì vậy, nhiều giáo viên còn xem nhẹ  khâu hướng dẫn học sinh tự học ở nhà và ngay cả  khâu kiểm tra cũng còn qua loa,  chiếu lệ, mang tính hình thức. Điều này dẫn đến việc rèn kỹ năng tự học kém hiệu  quả. ­ Đối với học sinh Nhiều em học sinh còn chưa xác định được vai trò,  tầm quan trọng của vấn  đề  tự  học. Chưa xác định chính xác động cơ  học tập vì thế chưa nỗ  lực, cố  gắng  hết mình trong quá trình tự học ở nhà. Một bộ  phận không nhỏ học sinh lười suy nghĩ, học vẹt, không có khả năng  vận dụng kiến thức, không rèn từ, rèn câu, rèn viết mà chỉ học thuộc lòng văn mẫu,  bài mẫu và sao chép một cách rập  khuôn máy móc  theo  một bài mẫu hoặc  dàn ý  có sẵn với mục đích là đối phó. Khả năng viết bài, tạo lập  văn bản giống như việc  làm bài của các môn khoa học Lịch sử, Địa lí. Một số  nữa thì ham chơi, lười học, cha mẹ  buông lỏng không kèm cặp nên  không tập trung học bài, thậm chí  không học bài ở nhà. Tình trạng học sinh đi học  về không nhìn đến sách vở, hôm sau lại mang cặp đến trường không phải là hiếm  gặp. Điều này khiến cho việc rèn kỹ  năng tự  học môn Ngữ  Văn gặp không ít khó  khăn. ­ Đối với phụ huynh Ngày nay, do tâm lí chung của một bộ  phận phụ huynh bị  ảnh hưởng bởi xu  thế phát triển của nền kinh tế thị trường nên chỉ  hướng  việc  học  của con cái vào  một số  môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tin học...Vì các bậc phụ huynh vẫn cho  rằng đó là những môn học có lợi cho công việc,  cho việc  chọn nghề  sau này. Từ  đó dẫn đến việc các cháu ít hoặc không chú trọng đến môn Ngữ  văn.
  10. 10 Ngoài  những nguyên nhân xuất phát từ  giáo viên   và học   sinh,   ta  còn  nhận   thấy rằng tài liệu hướng dẫn học sinh tự  học   ở  nhà môn Ngữ  văn THCS  nhằm rèn  kỹ năng tự học còn chung chung, còn ít,  còn hiếm.  Điều này cũng phần  nào  gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình dạy học. Trên đây là thực trạng thường thấy khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài  tập ở nhà khiến cho việc rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh đạt hiện quả chưa  cao. Từ những hạn chế nêu trên đòi hỏi phải có biện pháp  khắc  phục  nhằm nâng  cao chất lượng hoạt động tự học ở nhà môn Ngữ Văn cấp THCS của học sinh góp  phần thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh  trong quá trình học  tập, phát huy được yếu tố nội lực của bản thân mỗi học sinh. III. Rèn luyện kỹ  năng tự  học Ngữ  văn cho học sinh trung học cơ  sở  (THCS) qua hoạt động tự học ở  nhà 1. Định hướng những biện pháp rèn kỹ  năng tự học môn ngữ văn cho  học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà Định hướng cho các biện pháp rèn kỹ năng tự học môn Ngữ  Văn THCS qua  hoạt động học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. 1.1. Định hướng phát triển năng lực cho học  sinh Dự  thảo  “Đề  án  đổi  mới  chương  trình  và  sách  giáo khoa  (SGK)  giáo dục  phổ  thông  sau  2015”  nêu  rõ  một  trong  những  quan  điểm  nổi   bật  là  phát  triển  chương  trình nhằm định hướng năng lực cho học sinh nhằm đáp ứng hiệu quả một  yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Ngoài những  năng  lực  chung như: năng lực tự  học, năng lực  giải quyết vấn đề,  năng lực  sáng tạo, năng  lực  quản  lý bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, … môn Ngữ  Văn cấp  THCS còn hướng tới hai năng lực đặc thù là năng lực giao tiếp  tiếng Việt  và năng  lực  thưởng thức Văn học/cảm thụ thẩm mỹ. Vì vậy hướng   dẫn học   sinh   học,  chuẩn bị bài ở nhà trong môn Ngữ văn THCS chú trọng phát triển năng lực cho học 
  11. 11 sinh. 1.2. Xuất phát từ các mục  tiêu biên soạn sách giáo  khoa Sách giáo khoa là sự  cụ  thể  hóa yêu cầu về  kiến thức và kỹ  năng quy định  trong chương trình giáo dục của các môn học, đáp ứng yêu cầu phương pháp dạy  học.  Điều 32 Luật Giáo dục  năm 2019, khẳng định: “Sách  giáo khoa đề  sử  dụng  chính thức thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở  giáo dục khác.” Giáo viên hướng dẫn học sinh học ở nhà cần bám sát mục tiêu cần  đạt, các phần, các mục của nội dung bài học và các hệ  thống câu hỏi gợi ý, tìm  hiểu ở sách giáo khoa. Tuy nhiên không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa. 1.3. Cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ  năng Để  hoạt động dạy – học môn Ngữ  Văn THCS nói chung và hoạt động  hướng dẫn học sinh học  ở  nhà nói riêng đạt được những yêu cầu cơ  bản, tối   thiểu về kiến thức, kỹ  năng, dạy – học không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách  giáo khoa; giáo viên cần bám vào chuẩn kiến thức,  kỹ  năng  của mỗi bài học, tiết  học. Việc khai thác sâu về kiến thức, kỹ năng cần phải phù hợp với khả năng tiếp  nhận của đối tượng học sinh. 1.4. Hướng dẫn sử dụng phương pháp tự học phải phù hợp với từng phân môn Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS có cấu trúc tích hợp ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Hướng dẫn học  sinh tự học  ở  nhà,  giáo  viên  cần chú trọng tính tích hợp đó bởi ba phân môn này không hề tách biết mà luôn hỗ  trợ, bổ  sung cho nhau nhằm hình thành và rèn các kỹ  năng cần thiết như  nghe, nói,  đọc, viết, kỹ năng giao tiếp, … Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến phương pháp học tập  cho từng phân môn bởi mỗi phân môn có những nét đặc thù  riêng. 1.5. Cần xuất phát từ đối tượng học  sinh Tuy cùng có chương trình học tập giống nhau, độ  tuổi tương đối như nhau 
  12. 12 nhưng mức độ  tiếp nhận, lĩnh hội tri thức của mỗi học  sinh  mỗi khác.  Ngoài ra,  hoàn cảnh, điều kiện để  học  tập khác  nhau cũng phần nào  ảnh hưởng đến  thời  gian  và sự  tiếp nhận, lĩnh hội tri thức  của học  sinh.  Vì  vậy, khi hướng dẫn học  sinh học  ở  nhà, người dạy cần quan tâm đến việc phân loại  học sinh để  giao  bài  và hướng   dẫn các em phương pháp học tập phù hợp tránh quá dễ  hoặc quá khó  gây tình trạng nhàm chán hoặc chán nản đối với học sinh. 2. Các  biện pháp sử  dụng nhằm rèn kỹ  năng tự  học môn ngữ  văn cho học  sinh qua hoạt động tự học ở  nhà 2.1. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu, lòng đam mê đối với môn học Trước hết, muốn học sinh có  ý thức tự  học tốt đối  với môn Ngữ  văn cần  phải các em phải bồi dưỡng tinh yêu văn học. Vì vậy, giáo  viên  cần tạo  cho học  sinh niềm tin, sự  yêu thích, đam mê. Muốn   làm   được   điều này không chỉ    ngày  một,  ngày hai mà phải là một quá trình kiên trì, bền bỉ của người dạy. Thông qua các tiết học trên lớp, giáo viên  có thể  giới thiệu,  khẳng định về  tầm quan trọng, giá trị  của môn học  Ngữ  Văn đối  với bản  thân mỗi  người như:  môn Ngữ  Văn giúp chúng ta hình thành và rèn luyện kỹ  năng nghe, nói,  đọc, viết;  khả  năng giao tiếp, ứng xử với mọi người; hình thành,  bồi dưỡng những  tình cảm  tốt  đẹp như tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tình yêu thiên nhiên, …; hướng  chúng ta tới những vẻ  đẹp của cuộc sống; hình thành những phẩm chất tốt đẹp  như khiêm tốn, tự trọng, giản dị, …  Từ đó  bồi dưỡng tình yêu,  niềm đam mê đối  với văn học. Để  bồi  dưỡng  niềm đam  mê môn học,  sự  hứng thú  cho học  sinh  ngay từ  việc tổ  chức hoạt động khởi động, kiểm tra việc học bài cũ và chuẩn bị  bài mới,  qua quá trình học bài mới, hoạt động ngoại khóa cũng phải tạo được cảm hứng,  sự lôi cuốn người học. Ví dụ sau khi dạy xong văn bản “Những câu hát về tình cảm gia đình” giáo  
  13. 13 viên có thể hỏi bài cũ: + Em hãy đọc thuộc một bài ca dao về   tình cảm gia đình và cho biết tình  cảm đó được thể hiện như thế nào trong bài ca  dao? + Sau khi đọc và cảm nhận bài ca dao thuộc chủ  đề  tình cảm gia đình em  nhận  thấy  tình cảm của  mình  đối  với  những  người thân  trong  gia  đình  như  thế  nào? Từ các hoạt động ấy, giáo viên có thể cho học sinh thấy cái hay, cái đẹp, sức  mạnh của Văn học, khẳng định, nhấn mạnh vai trò của môn học và bồi dưỡng tình  yêu đối với môn Ngữ Văn cho học sinh. Khi học sinh đã có tình yêu, sự  đam mê thì  việc rèn luyện kỹ năng tự học ở nhà sẽ giảm bớt khó  khăn. 2.2. Tăng cường giáo dục sự  tự  giác, tích cực học tập và ý chí tự  học   cho học sinh Xây dựng kế  hoạch học tập là bước quan trọng trong quá trình tự  học. Kỹ  năng này bao gồm kỹ năng thực hiện, xác  định và lựa  chọn vấn đề tự học.  Thứ tự  các việc cần làm, sắp xếp thời gian cho  từng  công việc  một cách hợp  lý với điều  kiện và phương tiện hiện có. Lập kế  hoạch và thực hiện kế  hoạch  hợp lý sẽ  giúp   học  sinh tránh được  lãng phí thời gian, nâng cao hiệu quả học tập. Nội dung kế  hoạch: Tùy vào mục đích cụ  thể  mà người học có thể  lập kế  hoạch dài  hạn, trung hạn hay ngắn hạn. Kế  hoạch dài  hạn được  lập ra  để  thực  hiện trong một thời gian khá dài như  một năm hoặc  một kỳ.  Kế hoạch trung hạn  thường là kế hoạch thực hiện trong một tháng hoặc một tuần.  Còn kế hoạch ngắn  hạn chỉ thực hiện trong một ngày, tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể. Đối với học sinh THCS, đặc biệt là trong môn Ngữ  Văn,  kế hoạch thường  nên xây  dựng  trong  một  tuần  dựa  trên  kế  hoạch của  nhà trường  và   phân   phối  chương trình của môn học, khối học. Đặc  biệt phải dựa trên cơ sở sự hướng dẫn  việc học bài, chuẩn bị bài về nhà của thầy cô.
  14. 14 Giáo viên giới thiệu về phương pháp tự  học, tầm quan trọng của tự  học cho  học  sinh. Giúp học sinh thấy được vai trò của việc  tự học ở nhà, từ đó định hướng cho học  sinh cần phải nỗ lực, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, thường xuyên rèn  luyện kỹ năng tự học tránh lối học thụ động, máy móc; xác định cho học sinh rằng  rèn kỹ năng tự học là  nhằm  hướng  tới cái đích cao  hơn là  hình thành năng lực tự  học, đáp ứng đòi hỏi của xã hội, giúp học sinh có thể học mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn   cảnh và có thể học tập suốt đời như lời khẳng định của Lê  ­ nin “Học, học nữa, học  mãi”. Giáo dục  ý thức  tự học  có thể thực  hiện qua khâu hướng dẫn học sinh học  bài, làm bài, chuẩn bài  ở  nhà; qua các tiết học về  Chương trình địa phương phần  Tập làm văn  hoặc  qua các tiết học văn Nghị  luận có ở  lớp  Ngữ  văn  lớp 7, lớp 8  và lớp 9. Ví dụ 1: ­ Hãy tìm hiểu và trình bày về vấn đề tự học của học sinh ở trường  em? ­ Suy nghĩ của em về vấn đề tự học. 2.3. Hướng  dẫn  học  sinh  xây  dựng  kế  hoạch  tự  học  ở  nhà  và  thực   hiện kế hoạch vạch ra Xây dựng kế  hoạch học tập là bước quan trọng trong quá trình tự  học. Kỹ  năng này bao gồm kỹ năng thực hiện, xác  định và lựa  chọn vấn đề tự học.  Thứ tự  các việc cần làm, sắp xếp thời gian cho  từng  công việc  một cách hợp  lý với điều  kiện và phương tiện hiện có. Lập kế  hoạch và thực hiện kế  hoạch  hợp lý sẽ  giúp   học  sinh tránh được  lãng phí thời gian, nâng cao hiệu quả học tập. Nội dung kế  hoạch: Tùy vào mục đích cụ  thể  mà người học có thể  lập kế  hoạch dài  hạn, trung hạn hay ngắn hạn. Kế  hoạch dài  hạn được  lập ra  để  thực  hiện trong một thời gian khá dài như  một năm hoặc  một kỳ.  Kế hoạch trung hạn  thường là kế hoạch thực hiện trong một tháng hoặc một tuần.  Còn kế hoạch ngắn 
  15. 15 hạn chỉ thực hiện trong một ngày, tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể. Đối với học sinh THCS, đặc biệt là trong môn Ngữ  Văn,  kế hoạch thường  nên xây  dựng  trong  một  tuần  dựa  trên  kế  hoạch của  nhà  trường  và  phân   phối  chương trình của môn học, khối học. Đặc biệt phải dựa trên cơ sở sự  hướng dẫn  việc học bài, chuẩn bị bài về nhà của thầy cô. Đây là Kế hoạch học bài ở nhà cho học sinh của môn Ngữ văn 7 tuần 12 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 Thứ 7 Chủ nhật ­ Chuẩn  bị  2  bài  ­ Ôn  tập  ­ Học  ­ Hoàn  ­ Chuẩ ­ Đọc  thơ:  Cảnh  khuya,  hai  bài các  thành   bài  Chuẩn  n   bị  thêm  sách  Rằm  tháng  giêng  thơ   của  môn  tập  phần  bị bài  bài  tham của Bác dựa trên  Bác. khác Tiếng Việt mới  mới. khảo Ngữ  sự  hướng  dẫn  ­ Tham  ­ Ôn  tập  cho  ­ Học  Văn. của giáo  viên. khảo  một  các  tiết  các  ­ Xem lại  ­ Tìm  đọc  thêm  số  bài  kiến Thành  môn  việc   một  số  bài  thơ  viết  về  thức, kỹ ngữ. học  chuẩn bị  viết về  trăng của  hai  bài  năng về ­ Học  khác. bài mới. Bác    và    những  thơ, về tiếng Việt các  ­ Học  ­ Học  các  nhà thơ khác. thơ   của  chuẩn bị  môn  các  môn  học  ­ Học   các  môn  Bác. khiểm  tra. khác môn  khác.
  16. 16 khác ­ Học  các  ­ Học  các  khác môn khác môn khác 2.4. Hướng dẫn học sinh tự  học ở nhà bằng hệ  thống câu hỏi, bài tập. (đề   cương) Để  phát huy tối đa năng lực tự  học và  thúc  đẩy học sinh tận dụng hết thời  gian tự học, giáo viên cần giao  nhiệm vụ học tập  cụ thể cho học sinh.  Có như thế  các em mới định hướng được cụ  thể  các   nhiệm  vụ  mình cần làm tiếp theo. Sau  khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ một cách khái quát, hệ thống các em có thể tìm  hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên hiệu quả  hơn. Hướng dẫn học sinh học tập  ở nhà không nên chỉ  bằng lời nói trên lớp,  bở i  rất có thể  “lời nói gió bay”, nhất là đối với những em có ý thức học tập chưa cao  và cuối giờ học thường kém tập trung. Do vậy,  cần tường  minh  hóa hướng  dẫn  đó bằng văn bản. Song song với từng  bài học  trong  từng tuần,  giáo  viên nên thiết  kế  hệ  thống câu hỏi để  học sinh tự  học. Hệ  thống câu hỏi đó bao gồm hỏi cả  những  kiến thức bài cũ và cả  kiến thức bài mới nhằm giúp học  sinh  vừa  có  thể  ôn tập, khái quát, luyện tập,  vận dụng thực  hành kiến  thức  cũ vừa có những định  hướng  cho kiến thức trọng tâm của bài  mới. Giáo viên nên chuẩn bị  sẵn câu hỏi, bài tập  và  giao  cho  học sinh vào  cuối  tiết học trong khâu củng cố và dặn dò học ở  nhà.
  17. 17 Yêu cầu hệ thống câu hỏi bài tập: + Đối với bài cũ cần chú trọng phát triển năng lực hệ thống, khái quát, tổng  hợp, năng lực giải quyết bài tập, tình huống gắn với thực tế. + Đối với việc chuẩn bị  bài mới thì câu hỏi đưa ra cho học sinh vừa có tác  dụng tạo sự  hứng thú, vừa có tác dụng hướng học  sinh  đi vào trọng tâm bài học  đồng thời có tác dụng chuẩn bị  cho hoạt động khám phá của giáo viên và học sinh  trên lớp. Cụ thể như đọc trước bài học, trả lời các  câu hỏi, ở sách giáo  khoa, hoặc  bài tập mà giáo viên yêu cầu. Trong thời gian học trực tuyến, để  kiểm tra kiến thức và yêu cầu học  sinh tự học ở nhà, tôi đã sử dụng nhiều phần mềm giao bài tập  như: ­ Phần mềm Azota: Tôi thường sử dụng phần mềm Azota để gửi các câu hỏi cho học sinh  chuẩn bị  bài tập ở  nhà và yêu cầu học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập theo  nhóm hoặc cá nhân. Sau đó, học sinh gửi sản phẩm học tập của nhóm  hoặc  của cá nhân  qua Azota để giáo viên kiểm tra đánh giá. Hình ảnh giáo viên gửi câu hỏi trên phần mềm Azota để học sinh chuẩn bị bài Ví dụ 2: * Có thể sử dụng hệ thống câu hỏi sau để hướng dẫn học sinh  chuẩn bị bài “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh trong sách Ngữ văn  7: (1) Tóm tắt những nét cơ  bản về  cuộc đời, con người và sự  nghiệp văn học của  nhà thơ Xuân Quỳnh. (2) Vì sao Xuân Quỳnh được xem là nhà thơ nữ  tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt   Nam. (3) Âm  thanh  tiếng  gà  trưa  đã  khơi dậy  trong  lòng  người lính  trẻ  những  cảm xúc  gì?
  18. 18 (4) Hình ảnh người bà qua cảm nhận của người lính hiện lên ra sao? (5) Em thấy tình bà cháu trong bài thơ có gì đặc  biệt? (6) Nhận xét về cách sử  dụng từ ngữ, hình ảnh, những biện pháp nghệ thuật  đặc sắc trong bài thơ. (7) Hãy tìm đọc bài thơ “Bếp lửa” của Bằng  Việt  và những  bài viết  về bài  thơ này và nhận xét về điểm giống, khác nhau trong hai bài thơ. Ví dụ 3: Để kiểm tra bài cũ Văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải trong sách  Ngữ văn 9, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi sau, với yêu câu trả lời ngắn gọn  bằng dàn ý: (1) Nhắc lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ? Hoàn cảnh ra đời của bài thơ  gợi  cho  em ấn tượng gì về tác  giả? (2) Cảm nhận của em về  bức tranh   mùa xuân thiên nhiên xứ  Huế  trong khổ   thơ  đầu? (3) Tâm niệm của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ là gì? (4) Từ  tâm niệm của nhà thơ  Thanh Hải trong bài thơ, em có  suy  nghĩ   gì  về  lý  tưởng sống của thanh niên hiện nay. 2.4.1. Tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng tự học ở  nhà Để chất lượng và hiệu quả học tập Ngữ văn THCS được  nâng lên  thì  học  sinh cần  có  kỹ  năng tự  học tốt.  Việc rèn luyện,   bồi  dưỡng  phương pháp và kỹ  năng tự học ở nhà là một yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả cao. 2.4.2. Kỹ năng ghi chép, ghi nhớ kiến  thức Đặc trưng của môn Ngữ Văn thường ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số  em đã  rất chăm chỉ học tập nhưng thành tích chưa cao. Các  em thường học  bài nào  biết  bài  nấy, học  phần  sau  không  biết liên hệ  phần  trước,  không  biết hệ  thống  kiến 
  19. 19 thức,  liên kết kiến thức với nhau, không biết   tích  hợp   kiến thức   đã  học    ở  bài  trước  vào bài sau. Vì vậy, rèn cho các em kỹ năng ghi chép, hệ thống, tổng hợp  là  điều cần thiết  giúp  các em học tập tốt, phát huy tốt vai trò tự học, đặc biệt là tự  học ở nhà. Vậy làm thế nào để  ghi chép, hệ thống hóa kiến thức, ghi nhớ  kiến thức  có  hiệu quả? Sử  dụng sơ  đồ, bảng biểu, dàn ý, đặc   biệt  là  bản đồ  tư  duy đề  ghi  chép, hệ thống kiến thức là những kỹ năng rất hữu ích giúp học sinh tự học  ở nhà  tương đối tốt. Sau mỗi bài học, mỗi phần, giáo viên hướng dẫn, gợi ý cho học sinh  tự  hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức  cần nhớ.  Mỗi bài học  được  ghi,  vẽ  lại trên một trang giấy rồi kẹp thành tập. Việc làm này  sẽ  giúp  các em dễ ôn tập,  xem lại  kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ  dàng. Ngoài ra, có thể  dùng  những kỹ năng này để  tìm hiểu trước bài mới, hoặc  để  tư  duy một vấn  đề  mới.   Ta có  thể nhận thấy, qua việc hướng dẫn học sinh sử  dụng sơ  đồ, bảng biểu sẽ  giúp  học  sinh  phát  triển  tư  duy  lôgic,  củng  cố,  khắc  sâu  kiến  thức,  kỹ  năng ghi  chép,  từ đó  kỹ  năng tự học của học sinh qua hoạt động học ở nhà cũng nâng cao  hiệu quả. Ví dụ 3: ­ Trình bày dưới dạng bảng biểu: Khi  hướng  dẫn học  sinh  chuẩn  bị  trước  văn  bản “Đánh  nhau  với  cối  xay  gió” Ngữ văn 8, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu,  so sánh hai nhân vật Đôn ­  ki –  hô ­ tê và Xan ­ chô Pan ­ xa bằng cách lập bảng so sánh: Nhân vật Đôn­ki­hô­tê Xan­chô Pan­xa Phương diện ­ Xuất thân ­ Ngoại hình ­ Lý tưởng ­ … Kết luận
  20. 20 ­ Trình bày bằng bản đồ tư duy Để tiến hành tiết “Ôn tập về thơ” trong Ngữ Văn 9,  giáo  viên  có  thể  gợi ý  cho học sinh ôn lại kiến thức bằng lập bản đồ tư duy như sau: 2.4.3. Kỹ năng hợp tác Giáo viên yêu  cầu học sinh tham gia, đóng góp trực tiếp vào quá trình học  tập, đồng thời yêu cầu học sinh phải làm việc cùng nhau để  đạt được kết quả  học tập trung, trong quá trình hợp tác mỗi cá nhân tìm thấy lợi ích cho mình và   cho tất cả  các thành viên trong nhóm. Trong hình thức học tập này, ngoài việc   học theo nhóm ở trên lớp,  hoạt động học ở nhà giáo viên cũng cần chia nhóm để  học sinh có thể giúp  đỡ, hỗ  trợ nhau học tập. Việc chia nhóm học sinh có thể  dựa theo  địa  bàn dân cư, cũng có thể  dựa   vào đối tượng học sinh để thuận lợi cho việc hợp tác trong học  tập. Có thể  khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách đều  đặn và tâm huyết thì khả năng tự  học, tự  nghiên cứu của học  sinh  sẽ  được  nâng 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2