intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn giáo dục công dân 6

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:19

24
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn giáo dục công dân 6" có mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn giáo dục công dân 6

  1. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Phòng Giáo dục và Đào tạo Đồng Hỷ Tôi (chúng tôi) ghi tên dưới đây: S Ngày  Nơi công  Chức  Trình  Tỷ lệ (%) đóng  ố  Họ và tên tháng  tác (hoặc  danh độ  góp vào việc  T năm sinh nơi thường  chuyên  tạo ra sáng  T trú) môn kiến (ghi rõ đối  với từng đồng  tác giả, nếu có) 1 Nguyễn Thanh An 25/8/1981 Trường  Giáo  Cao  100% THCS Hòa  viên đẳng Bình  Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến : “Rèn luyện kĩ  năng sống cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6” 1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (trường hợp tác giả không đồng thời   là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến): Không 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Giáo dục công dân 3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, (ghi ngày  nào sớm hơn):  Tháng 8/2019 tại trường THCS Hòa Bình, xã Hòa Bình, huyện  Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 4. Mô tả bản chất của sáng kiến: 4.1. Những vấn đề chung:             Môn Giáo dục công dân nói chung và môn Giáo dục công dân  ở  trường  THCS nói riêng là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ  xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh mà Luật giáo dục đã xác  định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về   đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân   cách con người Việt Nam, xây dựng tư  cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị   cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng   và bảo vệ  Tổ  quốc”. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống các giá trị 
  2. đạo đức, pháp luật và các chuẩn mực lối sống phù hợp với lứa tuổi, giúp học   sinh biết sống hòa nhập trong xã hội hiện tại với tư cách là những công dân tích  cực, năng động; góp phần quan trọng hình thành những phẩm chất, năng lực cần   thiết của nhân cách con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự  nghiệp  công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, tăng cường khả  năng hội nhập trong  xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.    Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn lực  và đáp  ứng yêu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ  thông đã và đang  được đổi mới mạnh mẽ  theo bốn trụ cột của thế kỉ XXI, mà thực chất là cách   tiếp cận kĩ năng sống, đó là “Học để  biết, học để  làm, học để  tự  khẳng định   mình và học để  cùng chung sống”. Mục tiêu giáo dục phổ  thông đã và đang  chuyển hướng từ  trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho   các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới   theo hướng phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của người học,   phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả  năng làm việc theo  nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình   cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Nội dung giáo dục kĩ  năng sống đã được tích hợp trong môn học. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học   sinh còn được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án như: giáo dục bảo  vệ  môi trường, giáo dục phòng chống HIV/AIDS, giáo dục phòng chống ma  túy... Đặc biệt bộ  tài liệu “Giáo dục kĩ năng sống” dành cho học sinh THCS đã  chính thức được được đưa vào dạy học từ tháng 10 năm 2016­ 2017, được bố  trí  dạy lồng ghép, tích hợp với các môn học gần gũi khác ở mỗi khối lớp, trở thành  “cẩm nang” giáo dục kĩ năng sống riêng biệt có tính chất đặc thù đối với giáo  viên dạy bộ môn Giáo dục công dân. 4.2. Thực trạng của vấn đề: Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được đưa vào giảng dạy  ở  các trường dưới nhiều hình thức khác nhau. Chương trình hành động về  giáo  dục cho mọi người đặt ra trách nhiệm cho các trường phải đảm bảo cho người   học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp và cần thiết   được coi là một nội dung của chất lượng giáo dục. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, giàu ước mơ, ham   hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo,  kích động... Đặc biệt thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những  
  3. yếu tố  tích cực và tiêu cực, luôn phải đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những   giá trị, phải đương đầu với khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực, bạo lực,   với lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong   những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh   phổ  thông thời gian vừa qua như: bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa  đọa, các trò chơi điện tử... chính là các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ   năng thể  hiện sự  cảm thông, kĩ năng tư  duy phê phán, kĩ năng ra quyết định, kĩ   năng hợp tác, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, kĩ   năng đảm nhận trách nhiệm, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng giao tiếp... Trường THCS Hòa Bình ngay từ  đầu năm học mới Ban giám hiệu nhà  trường  đã triển khai và tập huấn về công tác giáo dục kĩ năng sống tới toàn thể  cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh trong nhà trường. Trong quá trình giảng  dạy các giáo viên dạy bộ môn cũng đã có sự tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng   sống cho học sinh thông qua các môn học như Ngữ văn, Giáo dục công dân, Địa  lý, Sinh học, Lịch sử, Hóa học, Công nghệ, Âm nhạc, Mĩ thuật,... Ngoài việc tích   hợp nội dung này thông qua các môn học, nhà trường còn chú ý lồng ghép giáo  dục kĩ năng sống cho các em vào các hoạt động tập thể như các giờ chào cờ, giờ  sinh hoạt, hoạt động ngoài giờ  lên lớp, các buổi ngoại khóa, các buổi lao động,   các hoạt động vui chơi như tổ chức Văn nghệ, Hội trại, Hội khỏe Phù Đổng…   khuyến khích các em tham gia vào các câu lạc bộ  như: Câu lạc bộ  thể  dục thể  thao, Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, Câu lạc bộ Mĩ thuật để cho các em có nhiều  cơ hội rèn luyện các kĩ năng sống có ích cho bản thân. Các em chưa có kĩ năng làm chủ  bản thân, chưa xử  lí linh hoạt các tình  huống giao tiếp hằng ngày để thể hiện lối sống có đạo đức, có văn hóa. Một số  em chưa có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh, chưa tự  tin tham gia các hoạt động.            Trong năm học 2019 – 2020, Trường THCS Hòa Bình, khối lớp 6 có 2 lớp   với tổng số học sinh là 48 em.  Trước khi tiến hành áp dụng đề tài này, ngay từ  đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình học sinh mà tôi được phân công  giảng dạy môn GDCD lớp 6. Qua khảo sát, tôi thấy 48/48 học sinh lớp 6 chưa   hiểu biết được đầy đủ các kĩ năng sống cơ bản và sự cần thiết của các kĩ năng   sống có thể giúp cho bản thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy   cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần của các em.           Các em học sinh lớp 6 của trường hầu hết sinh ra trong gia đình làm nghề  nông thuần túy. Là một xã vùng kinh tế  xã hội còn khá nhiều khó khăn, nên 
  4. người dân và các em học sinh ít có điều kiện, thời gian tiếp cận thông tin qua các  phương tiện thông tin đại chúng nên trình độ  nhận thức của người dân và học  sinh còn nhiều hạn chế. Các em phải lao động phụ  giúp gia đình ngoài giờ  học   nên điều kiện để  đọc sách báo, hay theo dõi thông tin đại chúng còn ít. Chính vì  vậy 100% các em chưa nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về những  vấn đề xã hội có nguy cơ  ảnh hưởng đến cuộc sống an toàn và lành mạnh của  bản thân.  Xuất phát từ   tình hình đã nêu  ở  trên, bằng thực tế  kinh nghiệm của bản   thân trong quá trình làm công tác dạy học, tôi đã mạnh dạn đề  ra và tham mưu  với Ban giám hiệu nhà trường cùng các ban ngành đoàn thể  khác trong đơn vị  một số biện pháp và kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của trường  có hiệu quả thiết thực.  4.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề:  Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông  tập trung vào các kĩ năng tâm lí – xã hội là những kĩ năng được vận dụng trong   những tình huống hằng ngày để  làm chủ  bản thân, tương tác với người khác và  giải quyết có hiệu quả  những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Việc   hình thành những kĩ năng này không loại bỏ mà ngược lại phải gắn kết và song  hành với việc hình thành các kĩ năng học tập như: nghe, nói, đọc, viết, tính toán...          Nội dung giáo dục kĩ năng sống cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng  lứa tuổi, cấp học, môn học, hoạt động giáo dục và điều kiện cụ thể.                  Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường bao gồm nhiều kĩ   năng. Tuy nhiên, do tình hình thực tế  của Trường THCS Hòa Bình, tôi chỉ  áp   dụng một số kĩ năng sống cơ bản sau: 4.3.1. Các kĩ năng sống cơ bản: * Kĩ năng thể hiện sự cảm thông:           Kĩ năng thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình  trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác  vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu cảm xúc và tình  cảm của người khác và cảm thông vời hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ và biết   thể hiện sự  cảm thông bằng những lời nói, cử  chỉ, hành động, việc làm cụ  thể  phù hợp.
  5.            Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả  giao   tiếp và  ứng xử  với người khác; cải thiện các mối quan hệ  giao tiếp xã hội. Kĩ  năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi   thân hiện, gần gũi với những người cần giúp đỡ.          Kĩ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ năng tự  nhận thức và kĩ   năng xác định giá trị, đồng thời là yếu tố  cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải  quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm   xúc.          Ví dụ: Khi dạy bài “Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em”          Giáo viên nêu câu hỏi: Nêu một số hành vi vi phạm quyền trẻ em mà em  biết? Em có suy nghĩ gì về vấn đề này?           Học sinh: Một số hành vi vi phạm quyền trẻ em như: Đánh đập, ngược đãi   trẻ em, bắt trẻ em làm việc nặng quá sức, cha mẹ ly hôn không ai chăm sóc con  cái, không cho con đi học... Đây là những mảnh đời bất hạnh cần được sự quan   tâm, giúp đỡ, cảm thông, chia sẻ nhiều hơn từ phía mọi người.           Với câu hỏi trên, giáo viên có thể rèn cho học sinh kĩ năng thể hiện sự cảm   thông đối với những trẻ em bị thiệt thòi. * Kĩ năng tư duy phê phán:            Kĩ năng tư  duy phê phán là khả  năng phân tích một cách khách quan và   toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng... xảy ra.            Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để  con người có thể  đưa ra được   những quyết định, những hành động phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày  nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề  gay cấn của cuộc  sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp thì kĩ năng tư duy  phê phán càng trở nên quan trọng đối với mỗi cá nhân.           Ví dụ: Khi dạy bài “Lễ độ”           Giáo viên nêu vấn đề: Bị mẹ mắng, Hải giận dỗi cãi lại và bỏ đi chơi đến   tối mới về. Em có nhận xét gì về hành vi của Hải?           Học sinh: Hành vi của Hải là quá vô lễ đối với người đã sinh thành, cưu   mang, dưỡng dục mình.            Giáo viên: Hành vi của Hải cần phê phán. Giáo viên rèn cho học sinh kĩ  năng tư duy phê phán hành vi thiếu lễ độ.
  6. * Kĩ năng ra quyết định:           Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định, lựa chọn   phương án tối  ưu để  giải quyết vấn đề  hoặc tình huống gặp phải trong cuộc   sống một cách kịp thời. Mỗi cá nhân phải tự  mình ra quyết định cho bản thân;   không nên trông chờ, phụ  thuộc vào người khác; mặc dù có thể  tham khảo ý  kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định.             Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho con người   có được sự  lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống.   Ngược lại, nếu không có kĩ năng, con người ta có thể  có những quyết định sai   lầm hoặc châm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc  và tương lai cuộc sống của bản thân; đồng thời có thể  làm ảnh hưởng đến gia  đình, bạn bè và những người có liên quan.           Ví dụ: Khi dạy bài “Sống chan hòa với mọi người”           Giáo viên nêu vấn đề: Bạn thân của em thường trốn học đi chơi.           Câu hỏi: Trong trường hợp đó, em sẽ xử sự như thế nào?            Học sinh: Em sẽ gần gũi và khuyên bạn không nên trốn học nữa, nếu bạn   không nghe em sẽ báo với thầy cô giáo và gia đình bạn ấy. Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng ra quyết định. * Kĩ năng hợp tác: Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết   và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. Giáo viên nêu vấn đề: Mai là học sinh giỏi lớp 5 do nhà nghèo nên Mai  không được đi học nữa. Thấy vậy cô giáo chủ nhiệm đến nhà vận động cho Mai   đi học nhưng bố Mai không đồng ý vì Mai phải phụ bố bán hàng. Câu hỏi: Em có nhận xét gì về sự  việc trên? Nếu em là bạn của Mai, em   sẽ làm gì để giúp đỡ Mai được đi học?  Giáo viên: Chia lớp thành 2 nhóm và yêu cầu các nhóm thảo luận. Học sinh: Đại diện từng nhóm lần lượt báo cáo, các nhóm khác nhận xét,   bổ sung. Giáo viên: Giới thiệu Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em:  “Trẻ  em có quyền được học tập; trẻ  em học bậc tiểu học trong các cơ  sở  giáo   dục công lập không phải trả học phí”
  7. Giáo viên: Rèn cho học sinh biết bày tỏ  ý kiến, tham gia xây dựng hoạt   động của nhóm, biết chia sẻ với các thành viên trong nhóm. * Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ:             Kĩ năng tìm kiếm sự  hỗ  trợ  giúp chúng ta có thể  nhận được những lời   khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình huống   của mình; đồng thời là cơ  hội để  chúng ta chia sẻ, bày tỏ  khó khăn, giảm bớt   được sự căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp   thời sẽ  giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan và trong nhiều trường  hợp, giúp chúng ta có cách nhìn mới và hướng đi mới.           Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể,  sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”           Giáo viên nêu vấn đề: Hằng ngày trên đường đi học, Lan thường bị  một  nhóm con trai lớn hơn trêu ghẹo, có hành vi đụng chạm vào người.          Câu hỏi: Trong trường hợp đó, Lan nên xử lý như thế nào?           Học sinh: Lan tỏ thái độ phản đối nhóm con trai và báo cho cha mẹ, thầy   cô giáo biết.                    Giáo viên: Lan ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ, biết xác định được  những địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy.           Qua vấn đề này, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ khi  gặp phải vấn đề cần sự giúp đỡ của những người khác. * Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin:            Kĩ năng tìm kiếm và xử  lí thông tin là một kĩ năng quan trọng giúp con   người có thể  có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan,  chính xác, kịp thời.           Ví dụ: Khi dạy bài “Thực hiện trật tự an toàn giao thông”           Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy nhận xét tình hình tai nạn giao thông trong   thời gian gần đây (số liệu cụ thể)?            Học sinh: Số vụ tai nạn giao thông có chiều hướng giảm dần ( Cụ  thể,   trong năm 2019, trên địa bàn cả  nước xảy ra 17.626 vụ tai nạn giao thông, bao   gồm 9.229 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 8.397 vụ va chạm   giao thông, làm 7.624 người chết, 13.624 người bị  thương và 8.528 người bị   thương nhẹ).           Giáo viên Qua mạng Internet, đài, báo, trên truyền hình học sinh có được   thông tin về số liệu các vụ tai nạn giao thông trong những năm qua. 
  8.           Như vậy, với câu hỏi đó giáo viên đã giúp học sinh rèn được kĩ năng tìm   kiếm và xử lý thông tin. * Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm:           Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin,   chủ động nhận nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành  nhiệm vụ và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm.   Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản  thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.           Khi các thành viên trong nhóm có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ  tạo   được một không khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết  vấn đề, đạt được mục tiêu chung của cả  nhóm đồng thời tạo ra được sự  thỏa  mãn và thăng tiến cho mỗi thành viên.          Ví dụ: Khi dạy bài “Yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên”           Giáo viên nêu câu hỏi: Là học sinh em sẽ làm gì để góp phần giữ gìn, bảo   vệ thiên nhiên? Học sinh: Không vứt rác bừa bãi;  Trồng cây xanh; Chăm sóc cây, hoa trong  trường...        Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng đảm nhận trách nhiệm để giữ gìn, bảo   vệ thiên nhiên. * Kĩ năng đặt mục tiêu:            Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho   bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó.            Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng giúp con người biết đề ra mục tiêu cho   bản thân trong cuộc sống cũng như  lập kế  hoạch để  thực hiện được mục tiêu  đó.            Kĩ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có   khả năng thực hiện mục tiêu của mình.            Ví dụ: Khi dạy bài “Mục đích học tập của học sinh”             Giáo viên nêu câu hỏi: Em có ước mơ gì về nghề nghiệp của tương lai?  Em sẽ làm gì để có thể thực hiện được ước mơ của mình?            Học sinh: Tự liên hệ.
  9.             Giáo viên: Phải cố gắng học tập tốt, để có thể trở thành con ngoan, trò  giỏi, người công dân hữu ích.            Qua câu hỏi này, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng đặt mục tiêu trong học   tập. * Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn:              Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là khả  năng con người nhận thức được  nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó với thái độ  tích  cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu, quyền lợi các bên và giải   quyết mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình.          Yêu cầu của kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là phải luôn kiềm chế cảm xúc,   tránh bị  kích động, nóng vội, giữ  bình tĩnh trước mọi sự  việc để  tìm ra nguyên  nhân nảy sinh mâu thuẫn cũng như tìm ra cách giải quyết tốt nhất.           Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể,  sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”          Giáo viên nêu vấn đề: Lan cho rằng Hoa đã nói xấu mình, nên Lan xông vào   đánh Hoa.          Câu hỏi: Trong tình huống đó, nếu em là Hoa, em nên xử sự ra sao?           Học sinh đưa ra ý kiến: Trước sự việc xảy ra, Hoa phải biết kiềm chế,   giữ bình tĩnh và giải thích cho Lan hiểu đây chỉ là hiểu nhầm.           Giáo viên: Với cách giải quyết đó sẽ tránh được sự tranh cãi, xung đột với  nhau. Giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng giải quyết mâu thuẫn. * Kĩ năng giao tiếp:             Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan  điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc của bản thân dưới hình thức nói, viết hoặc   sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh   giao tiếp, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất   đồng quan điểm.           Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều  chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở  bày tỏ  suy nghĩ, cảm   xúc nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác.
  10.            Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao   gồm biết giữ  gìn mối quan hệ  tích cực với các thành viên trong gia đình, xây  dựng mối quan hệ với bạn bè mới.          Ví dụ: Khi dạy bài “Lịch sự, tế nhị”          GV nêu vấn đề: Thầy giáo đang giảng bài, một bạn đến lớp muộn.          Câu hỏi: Nếu là em thì em sẽ xử sự như thế nào?           HS:  Đứng nép ngoài cửa đợi thầy giáo nói hết câu. Sau đó bước ra trước   cửa, đứng nghiêm chào thầy và nói: “Em xin lỗi thầy vì đã đến lớp muộn và xin   phép thầy cho em được vào lớp.           GV rèn cho HS kĩ năng giao tiếp thể hiện sự lịch sự, tế nhị.           Lưu ý: Trên thực tế, các kĩ năng sống không hoàn toàn tách rời nhau mà có  liên quan chặt chẽ đến nhau. Chẳng hạn, để  có thể  giao tiếp một cách có hiệu   quả chúng ta cần phải phối hợp nhiều kĩ năng như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng  tư duy phê phán, kĩ năng thương lượng, kĩ năng tìm kiếm sự cảm thông,...  4.3.2. Các giải pháp thực hiện:         Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm: “Rèn luyện kĩ năng   sống cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6” đạt hiệu quả, theo tôi   cần kết hợp các giải pháp sau:        ­ Thực hiện nghiêm túc nội dung giáo dục kĩ năng sống theo chương trình   của Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành.       ­ Giáo viên phải là những người có lòng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết   hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy mạnh  phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên, khuyến khích kịp thời để  giúp đỡ học sinh có tiến bộ từng ngày.        ­ Biết vận dụng những phương pháp dạy học tích cực, các kĩ thuật dạy   học mới kết hợp với những phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống phù  hợp để tạo sự hứng thú cho học sinh đem lại hiệu quả cao cho giờ học.        ­ Dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống phù hợp với đặc thù môn học,   bám sát đối tượng học sinh, rèn luyện kĩ năng và tinh thần tự  giác, trung thực  trong các hoạt động học tập, qua kiểm tra đánh giá phản ánh đúng năng lực học  sinh.
  11.       ­ Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc   giáo dục kĩ năng sống cho học sinh   nhằm trang bị  cho các em những kĩ năng  sống cần thiết, biến các kĩ năng sống hữu ích thành các thói quen lành mạnh, tích  cực.       ­ Nhà trường quan tâm giáo dục và lồng ghép tích cực các hoạt động tập   thể ( Sinh hoạt dưới cờ, thể dục thể thao, văn nghệ, ngoại khóa, giáo dục ngoài   giờ lên lớp…),kết hợp với các hoạt động xã hội khác (  Từ thiện, ủng hộ, quyên   góp…)với nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, dễ  nhớ, dễ  hiểu, đem lại  hiệu quả  cao,   tạo cơ  hội cho học sinh được tham gia phát triển toàn diện về  phẩm chất, năng lực, được rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết cho bản thân. Học sinh lao động, quét dọn vệ sinh  khu vực Đài tưởng niệm HS lao động cải tạo, chăm sóc vườn cây cảnh trong khuôn viên trường học
  12. Học sinh tập thể dục giữa giờ theo nhạc Hội thi văn nghệ
  13. Tuyên truyền Luật Bình đẳng giới và tháng hành động Vì trẻ em được tổ chức   dưới hình thức sinh hoạt ngoại khóa và phát thanh trong phòng Phát thanh tuyên   truyền Măng non của Liên đội Hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường và thực hiện trật tự an toàn giao  thông tại đường xóm Phố Hích, xã Hòa Bình        ­ Động viên, khích lệ, khen ngợi,... kịp thời  những học sinh biết cách lựa   chọn các kĩ năng sống phù hợp với hoàn cảnh thực tế cuộc sống mà các em gặp   phải. Đồng thời cần có biện pháp uốn nắn các em với những biểu hiện sai lệch  khi lựa chọn các kĩ năng sống không phù hợp hoặc có những hành vi sai lệch với   các chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật quy định. 5. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 6.1. Đối với giáo viên:  Sáng kiến kinh nghiệm của tôi mọi giáo viên giảng dạy môn GDCD, Ngữ  văn, giáo viên Tổng phụ trách Đội, giáo viên chủ nhiệm lớp và giáo viên bộ môn  khác ở trường THCS đều có thể áp dụng được. 6.2. Đối với học sinh:  Sáng kiến có thể áp dụng cho mọi đối tượng là học sinh cấp THCS. 7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng   sáng kiến theo ý kiến của tác giả:        Sau khi áp dụng sáng kiến “Rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn  Giáo dục công dân 6”, bản thân tôi nhận thấy phần nào các em cũng đã biết vận  dụng một số kĩ năng vào những tình huống hằng ngày để tương tác với bạn bè, 
  14. mọi người xung quanh và giải quyết có hiệu quả  những vấn đề, những tình   huống của cuộc sống. Chẳng hạn:        Khi thấy một bạn trong lớp có hoàn cảnh khó khăn thì các em cũng đã có  sự  cảm thông, chia sẻ với bạn (em Ngô Hoàng Hải lớp 6B), hoàn cảnh gia đình  khó khăn, mồ côi cha mẹ. Lúc vào đầu năm học em còn giữ khoảng cách với các  bạn, có thái độ mặc cảm. Thấy vậy cả lớp đã động viên, khích lệ Hải, tạo ra sự  hòa đồng, thân thiện, gần gũi để  xóa đi sự  mặc cảm và khoảng cách nơi Hải.   Lúc đầu chưa được học kĩ năng thể hiện sự cảm thông qua các bài GDCD lớp 6,   tôi thấy còn có 18/48 em là chưa biết cảm thông với hoàn cảnh của bạn, có em  thực hiện theo nhưng còn miễn cưỡng, lấy lệ nhưng sau khi được học và với sự  tích cực giáo dục kĩ năng sống cho các em, tôi thấy 48/48 em đã rèn cho mình kĩ  năng thể hiện sự cảm thông một cách có hiệu quả, các em chủ động giúp đỡ bạn  một cách rất nhiệt tình, thoải mái không còn miễn cưỡng như trước nữa.          Trong một tình huống thực tế  khác, em Nguyễn Thùy Linh lớp 6A đang   ngồi học trong lớp khi giờ học mới được bắt đầu, bỗng dưng em  bị  cảm và bị  nôn ói vội chạy ra khỏi lớp. Thấy vậy, em Phạm Quỳnh Anh đứng dậy xin phép  cô giáo cho em ra ngoài lấy nước cho bạn xúc miệng, lấy khăn mặt cho bạn lau,   rửa mặt. Sau khi  ổn định lớp xong, tôi ra xem em mệt như  thế  nào để  đưa em  xuống phòng y tế của nhà trường nghỉ ngơi và để  cán bộ y tế chăm sóc. Nhưng  ra đến nơi em Phạm Quỳnh Anh đã nói với tôi rằng: “Cô cứ  vào lớp đi để  em   đưa bạn xuống phòng y tế  cho  ạ!”. Trước tình huống đó, tôi cảm thấy rất xúc   động và trong lòng cảm thấy rất vui vì em đã có cách xử  trí rất nhanh để  giúp  bạn và cô giáo. Như vậy tôi thấy mình giảng dạy các em những kĩ năng sống cơ  bản thông qua môn giáo dục công dân 6, các em đã biết áp dụng những kiến thức   được học vào việc xử lý các tình huống thực tiễn một cách hiệu quả.        Hoặc khi xảy ra mâu thuẫn các em đã biết kiềm chế nhờ sự can thiệp từ  phía giáo viên chứ không dùng đến bạo lực để giải quyết vấn đề (em Lăng Văn  Cảnh và em Trần Viết Hảo lớp 6B trêu đùa nhau dẫn đến mâu thuẫn nhỏ nhưng   khi nghe giáo viên giảng giải 2 em học sinh này đã biết kiềm chế và lại vui vẻ  với nhau). Khi xảy ra hiểu lầm trong cuộc sống  các em đã biết giải thích cho  người đối thoại với mình hiểu rõ vấn đề. Chính vì vậy, trong thời gian nghiên  cứu và thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy tập thể lớp 6: 100% các em đoàn  kết, hòa nhã, biết chia sẻ khó khăn với bạn bè và mọi người xung quanh.
  15.        Khi nhà trường có phát động phong trào thi đua hay tổ chức các hoạt động   tập thể  thì các em rất tích cực, tự giác tham gia như em Lý Diễm Như, Nguyễn  Thu Quỳnh, Vũ Thùy Linh… tham gia biểu diễn văn nghệ  và đã giành giải Ba   cuộc thi “Giai điệu tuổi hồng”  trong buổi hoạt động ngoài giờ  lên lớp nhân dịp  ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11;  em Nguyễn Thùy Linh lớp trưởng lớp 6B, tham   gia nhiều hoạt động do nhà trường tổ  chức rất tự tin ( Thi thuyết trình bồn hoa  cây cảnh đẹp, thi cờ Vua, thi đọc diễn cảm thơ ).... Tóm lại tập thể lớp khối 6 là  tập thể tham gia rất nhiệt tình các hoạt động văn nghệ, trò chơi trong các buổi lễ  như: Khai giảng, Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Ngày thành lập Quân đội nhân  dân  22/12,...         Trong các buổi chào cờ, buổi sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoài giờ lên   lớp... cùng với sự kết hợp lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống vào các môn   học, lúc đầu nhiều em học sinh của trường hay nói trống không, không biết chào  thầy cô giáo,... thì đến nay 100% các em đã biết nói năng lễ phép hơn, biết chào  mọi người như chào thầy cô giáo, người lớn tuổi; các em biết thể hiện mình là  những con người có đạo đức, có văn hóa. Các em là cán sự  lớp đã biết tự  tổng  hợp nội dung cho tiết chào cờ đầu tuần và chính các em đã tự tin lên điều khiển,   nhận xét trước toàn trường trong tiết chào cờ đó. Như vậy, ta thấy các em đã có   sự tiến bộ vượt bậc về các kĩ năng sống cần thiết cho bản thân.         Tuần nào lớp có kết quả học tập không cao các em biết đề ra mục tiêu và   cùng nhau hợp tác,  phấn đấu để đạt mục tiêu đó. Trong quá trình giảng dạy môn  Giáo dục công dân khi tích hợp nội dung rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh   thông qua các bài học tôi đã thu được kết quả như sau: 95% các em tham gia phát  biểu xây dựng bài sôi nổi, 96% các em tham gia thảo luận nhóm tích cực, 28/48  em tham gia đóng vai xử  lý tình huống đạt hiệu quả, 100% các em biết liên hệ  thực tế có liên quan đến nội dung bài học phù hợp.          Đặc biệt, trong năm học 2019­2020 này đã xảy ra đại dịch Covid­19 trên  toàn cầu và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Trong bối cảnh đại dịch hoành hành   ngành Giáo dục đã gặp rất nhiều khó khăn, các em học sinh được tạm thời cho   nghỉ  học tại nhà để  phòng tránh dịch. Nhưng với phương châm chung “ Chống  dịch như chống giặc”, “ Tránh dịch nhưng không ngừng việc học” nên các em đã   bước vào một giai đoạn mới của nhiệm vụ học tập:  học online trực tuyến, học   trên truyền hình, học qua các phần mềm ứng dụng xã hội zalo, facebook … Chính  trong hoàn cảnh mới này các kĩ năng sống của các em đã được bộc lộ  rõ ràng, 
  16. hiệu quả trông thấy đó chính là các kĩ năng thích nghi nhanh, kĩ năng hợp tác, kĩ   năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin; kĩ năng tìm kiếm sự  hỗ trợ… Sau khi trở lại trường học vào ngày 4/5/2020 các em khối lớp 6 đã tuân   thủ  rất nghiêm chỉnh các quy định của Chính phủ  và Bộ  Y tế  về  phòng chống   dịch trong trường học ( tự giác đeo khẩu trang, rửa tay sát khuẩn đúng cách, đo   thân nhiệt trước khi vào học, giữ khoảng cách tiếp xúc với các bạn, tự trang bị   khăn tay khô, bình nước uống riêng cho bản thân; vệ sinh khử khuẩn lớp học sau   khi kết thúc buổi học…). Điều đó cho thấy các em đã  có kĩ năng sống trong việc  bảo vệ sức khỏe của bản thân ,của bạn bè, người xung quanh và có trách nhiệm   trong phòng chống dịch bệnh đối với cộng đồng.          Để  thể  thấy rõ hơn hiệu quả  của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm  “Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Giáo dục công dân 6”, tôi  đưa ra bảng so sánh mà bản thân đã tiến hành khảo sát, theo dõi trước và sau khi  áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này của HS khối lớp 6 trong   năm học 2018 –   2019 và năm học 2019 – 2020 như sau:         Trước khi chưa áp dụng sáng kiến này, tôi khảo sát được kết quả: Lớp/Năm học TSHS Hoàn toàn chưa  Biết áp dụng một  Biết áp dụng 10  biết áp dụng 10  số trong 10 kĩ  kĩ năng sống  kĩ năng sống  năng sống trên. trên. trên. Lớp 6 49 32/49 = 63,3% 17/49 = 36,7% 0 2018 ­ 2019           Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi thu được kết quả: Lớp / Năm  TSHS Hoàn toàn chưa  Biết áp dụng một  Biết áp dụng 10  học biết áp dụng 10  số trong 10 kĩ  kĩ năng sống  kĩ năng sống  năng sống trên. trên. trên. Lớp 6 2019 – 2020 48 5/48 = 10,4% 27/48 = 56,3% 16/48 = 33,3% (Học kì I và   nửa học kì II)
  17.             Kết quả hạnh kiểm và học lực của khối lớp 6 trong học kì I năm học   2019 – 2020:   + Hạnh kiểm: 100% học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt.   + Học lực môn GDCD 6:     Giỏi: 9/48 = 18,8%    Khá: 25/48 = 52,1%      TB: 14/48 = 29,1%     Y: 0           Như vậy tổ chức cho học sinh được thực hành, trải nghiệm một số  kĩ   năng sống là hết sức cần thiết, chúng ta cần thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi (thực   hiện trong các giờ  học, các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể  ­ xã hội,  hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo dục khác).               Tôi nhận thấy việc giáo dục kĩ năng sống rất cần thiết, sẽ không làm  nặng nề, quá tải nội dung môn học mà sẽ  giúp cho việc học của học sinh nhẹ  nhàng thoải mái, thiết thực và hiệu quả. Qua mỗi tiết học, học sinh được trang  bị  rất nhiều kĩ năng giúp các em có khả  năng  ứng phó tích cực trước các tình   huống của cuộc sống, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, gia đình   và mọi người xung quanh.              Từ kết quả sáng kiến  “Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua   môn Giáo dục công dân 6”, bản thân tôi thấy, việc giáo dục kĩ năng sống có thể  tiếp tục triển khai thông qua môn giáo dục công dân khối lớp 7,8,9 và có thể  áp   dụng linh hoạt được  ở  tất cả  các trường THCS trên phạm vi huyện, tỉnh, toàn  quốc, có tính bền vững, lâu dài. Hiệu quả  giáo dục sẽ  cao hơn  đối với nhà  trường, cán bộ, giáo viên, phụ  huynh và học sinh khi có mối quan tâm thực sự  chặt chẽ, đúng cách và có nghệ thuật trong giáo dục. Nhìn chung các em có nhiều biểu hiện tiến bộ vượt bậc về kĩ năng sống,  có ý thức trong học tập và ứng xử văn hóa trong các tình huống thực tế diễn ra.  Nhiều em tiến bộ  trông thấy về  kĩ năng  ứng xử  thân thiện, hòa nhập đối với  giáo viên, bạn bè và người xung quanh. Hơn thế, có tương đối học sinh nhìn  nhận tốt về  sự  tự  ý thức của bản thân trong các công tác, nhiệm vụ   ở  trường,  biết tu dưỡng rèn luyện đạo đức, biết noi gương, vươn lên trong học tập, biết  học hỏi và nhận thức về  các hành vi, việc làm mang tính nhân ái, đoàn kết, lễ  độ, tôn trọng, chan hòa… trong các mối quan hệ  xã hội, có tính xây dựng cao   trong  các  công tác  hoạt   động  phong trào và  thực hiện  nội  quy,  điều  lệ   của   trường.
  18. 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp   dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng   kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có): Sáng kiến này đã được thực hiện trong nhà trường, nhiều giáo viên tham   gia áp dụng có hiệu quả, được nhà trường và đồng nghiệp đánh giá cao đã góp  phần rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết cho học sinh và nâng cao ý thức, thái   độ, tác phong, lối sống, đạo đức…của các em ở trường THCS Hòa Bình. Nhiều  em đã có sự  tiến bộ  rõ rệt, biết điều chỉnh suy nghĩ, rèn luyện hành vi và nâng   cao kĩ năng sống của mình trong quá trình học tập, tu dưỡng; nhiều em có ý chí  vươn lên để trở thành con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, là tấm gương tiêu  biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 9. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử  hoặc áp dụng  sáng kiến lần đầu (nếu có): S  Họ và tên Ngày  Nơi công  Chức  Trình  Nội dung  T tháng  tác (hoặc  danh độ  công việc hỗ  T năm  nơi thường  chuyên  trợ sinh trú) môn 1 Nguyễn Thị Trà 1987 Trường  Phó  Đại học Tư vấn giáo   THCS Hòa  Hiệu  dục , tổ chức   Bình trưởng  các HĐGD 2 Hoàng Thị My 1992 Trường  Tổng  Đại học  Phối hợp tổ  THCS Hòa  phụ  chức HĐGD   Bình trách  trong HĐ  Đội Đội 3 Nguyễn Thu  1983 Trường  Giáo  Đại học Thực hiện   Hương THCS Hòa  viên chủ  HĐGD Bình nhiệm 4 Lê Thị Hiền 1993 Trường  Giáo  Đại học Thực hiện   THCS Hòa  viên bộ  HĐGD Bình môn 5 Hoàng Thị Hà 1990 Trường  Bí thư  Đại học Phối hợp tổ   THCS Hòa  chi đoàn chức HĐGD   Bình trong công  tác Đoàn
  19. Tôi (chúng tôi) xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,  đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.                                       Hòa Bình, ngày 19 tháng 5 năm 2020 Người nộp đơn         Nguyễn Thanh An
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2