intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

51
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm giúp học sinh học bài, hiểu bài dễ dàng và biến môn Ngữ văn trở thành một “niềm vui” với các em, giúp các em yêu thích môn học hơn và hơn hết là để các em không bao giờ phải trải qua những tiết học nhàm chán, buồn tẻ mà trong đó các em hoàn toàn bị thụ động trong việc tiếp thu và lĩnh hội tri thức, còn giáo viên cũng tránh được việc lên lớp nhưng nhiều khi chỉ có mình độc thoại với chính mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9

  1. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 1Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  2. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 PHẦN I. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học   không bằng say mà học”. Yếu tố  cảm xúc, say mê chính là động lực để  con  người hướng đến tình yêu đích thực của mình, nó cũng là một trong những   động lực thúc đẩy và nuôi dưỡng sự  cố  gắng, nỗ  lực học tập không ngừng  của mỗi chúng ta.  Với vai trò là người tổ chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập  của học sinh, hơn ai hết người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và   phải biết tiếp cận với cái mới trên cơ  sở  kế  thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ  để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn,  khơi gợi niềm đam mê học tập của học sinh. Đặc biệt, đối với môn Ngữ văn  cấp THCS, để làm được điều đó là cả một quá trình. Hiện nay, một trong những vấn đề nhiều giáo viên băn khoăn, trăn trở là  tình trạng học sinh chán học Văn, quay lưng lại với môn Văn cũng như các bộ  môn khoa học xã hội khác. Với nhiều học sinh, giờ  học Văn chỉ  quanh quẩn   trong vài hoạt động nhàm chán: đọc ­ nghe, chép bài, học thuộc, trả bài. Cách  dạy Văn, học Văn như thế khiến học sinh cảm thấy giờ Văn nặng nề, nhàm  chán và dễ gây buồn ngủ. Trên thực tế khi đi dự giờ đồng nghiệp tôi đã thấy  không ít trường hợp học sinh ngáp ngắn ngáp dài thậm chí ngủ gật trong giờ  Văn. Vậy nguyên nhân nằm ở đâu? Lỗi ở trò, ở thầy hay chương trình và sách   giáo khoa chưa đủ sức hấp dẫn? Trên thực tế  ta có thể  thấy rằng:   dạy Văn nhọc nhằn vất vả  nhưng   không phải vì thế mà thiếu vắng những thầy cô tâm huyết với nghề, luôn có ý  thức trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân và truyền lại những kinh  nghiệm ấy cho bạn bè, đồng nghiệp. Một người thầy tâm huyết là người luôn  luôn không ngừng học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, để  mang lại  những giờ lên lớp hiệu quả. Một trong những điều mà thầy, cô không ngừng  học hỏi đó là làm thế nào để  phát huy được tính tích cực, chủ  động của học   sinh trong mỗi giờ  dạy nói chung và giờ  dạy văn nói riêng? Thật vậy, đó   không chỉ  là điều mà các thầy cô giáo mong muốn mà còn là mục tiêu chung  của bộ  giáo dục đang đề  ra và được triển khai rộng khắp cả  nước. Vấn đề  2Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  3. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 được đặt ra trên đây mặc dù không mới nhưng nó chưa bao giờ là cũ, vì giáo   dục luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội đòi hỏi các phương pháp giáo  dục cũng luôn luôn phải có sự thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển   chung của xã hội. Vì vậy, hằng giờ các thầy cô trên khắp cả nước vẫn không  ngừng tìm tòi, đổi mới và đưa ra những ý tưởng, kinh nghiệm giảng dạy mà   mình đã đúc rút và góp nhặt được sau những giờ  lên lớp để  hoàn thiện hơn   tiết dạy của bản thân cũng như để đóng góp vào hệ thống giáo dục chung của  nước ta.  Bên cạnh xu thế ngày một đi lên của xã hội hiện nay, kinh tế ­ xã hội  ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế  ngày càng mở  rộng đòi hỏi nền giáo  dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế  giới và các   quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có   những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp  dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ  động trong học tập của học sinh   dẫn đến hiệu quả  dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên  khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ  học ở  một số  bộ  phận học lực yếu kém. Đó là cũng là thực trạng đáng buồn của   trường Trung học cơ sở Lê Đình Chinh trong nhiều năm qua. Là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 4 năm, thời gian tuy chưa  lâu nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu trong quá trình   giảng dạy. Tuy nhiên bản thân tôi tự nhận thấy giáo dục là vô biên với nhiều   ngành nghề và môn học đa dạng, bản thân không thể  nắm bắt hết được đặc  thù của từng môn, mà chỉ có thể đi chuyên sâu về bộ môn Ngữ văn – bộ môn   mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện tôi  đã tích lũy được một số giải pháp giúp học sinh lớp  9 phát huy tính tích cực,  chủ  động trong giờ  học Văn và  đạt được những kết quả  khả  quan, muốn   được chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp. Bởi vậy tôi xin đưa ra: “Một số kinh   nghiệm phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh trong giờ dạy Ngữ   văn 9”.  II. Mục đích nghiên cứu Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ  văn hiện nay đã và đang  thực sự  là yếu tố  quyết định hiệu quả  giờ  dạy. Phương pháp dạy học đổi  mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của  học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do   Quốc hội khoá X thông qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát   huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học,  3Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  4. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 môn học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến  thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học   tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên   trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn. Từ  nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát   triển hứng thú học Văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ Văn  là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vấn   đề  học tập của học sinh cũng vậy. Dù có bắt buộc các em ngồi ngay ngắn   học tập nhưng nếu không thích thú, các em không thể học tốt được. Từ thực   tế  giảng dạy bộ  môn Ngữ  văn  ở  THCS trên địa bàn xã nhà trong nhiều năm,   tôi nhận thấy muốn giờ  dạy đạt hiệu quả  cao, ngoài việc truyền đạt kiến  thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để  tiết học thực sự  nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách  tự nhiên, không gượng ép.  Hơn nữa, môn Ngữ văn xét về bản chất là một môn học rất thú vị, mỗi  bài học là một thế  giới thu nhỏ  về  những điều kì diệu xảy ra xung quanh   cuộc sống của chúng ta. Vậy tại sao một môn học mang lại nhiều lợi ích,   nhiều điều thú vị  như  vậy, nhưng trong các tiết học vẫn còn tình trạng học  sinh không hứng thú, thiếu sự  chủ  động, tích cực?... Làm thế  nào để  khắc   phục tình trạng đó? Đây là điều mà bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở  sau   mỗi giờ  lên lớp. Thiết nghĩ rằng việc để  xảy ra tình trạng như  đã nói trên  phần nhiều là do bản thân người giáo viên đứng lớp. Chính vì thế  tôi đã  nghiên cứu và thực hành áp dụng kinh nghiệm này vào các lớp mình dạy  nhằm mục đích giúp học sinh học bài, hiểu bài dễ dàng và biến môn Ngữ văn  trở  thành một “niềm vui” với các em, giúp các em yêu thích môn học hơn và  hơn hết là để các em không bao giờ phải trải qua những tiết học nhàm chán,   buồn tẻ mà trong đó các em hoàn toàn bị thụ động trong việc tiếp thu và lĩnh   hội tri thức, còn giáo viên cũng tránh được việc lên lớp nhưng nhiều khi chỉ có  mình độc thoại với chính mình.  PHẦN HAI. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện   về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản, phát triển   năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người   Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn   bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây   4Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  5. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 dựng và bảo vệ  tổ  quốc”. Chương trình giáo dục phổ  thông ban hành kèm  theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ  Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ   động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối   tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương   pháp tự  học, khả  năng hợp tác, rèn luyện kỹ  năng vận dụng kiến thức vào   thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm   học tập cho học sinh”. Tính tích cực, chủ động là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì   để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi   trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực,   chủ động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính tích cực, chủ động học tập về  thực chất là sự  tích cực, chủ  động  trong nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị  lực   cao   trong   quá   trình   chiếm   lĩnh   tri   thức.   Điều   đó   liên   quan   trước   hết  với động cơ học tập.  Động cơ  đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền  đề  của tự  giác. Hứng thú và tự  giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích   cực sản sinh nếp tư  duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng   tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự  giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực, chủ động trong học  tập biểu hiện  ở  những dấu hiệu như: hăng hái trả  lời các câu hỏi của giáo  viên, bổ sung các câu trả  lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước  vấn đề  nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ  những vấn đề  chưa đủ  rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn   đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập,  không nản trước những tình huống khó khăn… Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì môn Ngữ văn là một môn quan trọng   hàng đầu trong các môn học ở nhà trường hiện nay. Nó mang lại nhiều lợi ích  to lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách tương lai con người như: ­ Trang bị kiến thức cơ bản, hiện đại có tính hệ  thống về ngôn ngữ  và   văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ  phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kì công nghiệp   hóa, hiện đại hóa đất nước.  ­ Hình thành và phát triển  ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt,  tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt  5Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  6. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 là phương pháp tự  học, năng lực  ứng dụng những điều đã học vào thực tiễn  cuộc sống. ­ Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu  gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý   tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần nhân văn cao cả, giáo dục cho học sinh trách  nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát  huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại. Nhưng với phương pháp dạy học truyền thống trước đây là phương  pháp dạy học lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire ­ nhà xã  hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là “Hệ  thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang   đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là  “kho tri thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo.  Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách  thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường   thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội   dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao.  Song do quá đề  cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là  học sinh thụ  động tiếp thu kiến thức, giờ  dạy dễ  đơn điệu, buồn tẻ, kiến  thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ  năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế. Chính vì thế  để  thực hiện một giờ  học có hiệu quả  thì giáo viên là  người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm,   khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người  thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy.  Phương pháp  này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền  năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú,  suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ  thống hoá các  vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững.  Ưu điểm  của phương pháp tích cực rất chú trọng kỹ  năng thực hành, vận dụng giải   quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy   học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn  dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không tập trung cao, học  sinh sẽ  không hệ  thống và logic. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các  phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị  bài kỹ   ở  nhà trước khi đến lớp và  phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị  kỹ  bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức  6Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  7. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của  trò. Qua đó tạo cho các em sự  say mê, hứng thú và để  lại một vốn văn học  đáng kể  hỗ  trợ  cho các em học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư  tưởng,  tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ  ứng  xử  đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng yêu văn học, khả  năng cảm  thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt.   Giờ học Ngữ văn ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để  phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để  phát triển óc phân tích, các em còn  được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Để có kết quả cao mỗi giáo viên  phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy.  Mặc dù vậy nhưng mỗi phương pháp dạy học dù truyền thống hay hiện  đại cũng đều có những đặc điểm,  ưu thế  và nhược điểm riêng. Không có  phương thuốc nào có thể  chữa được bách bệnh, không có PPDH nào là chìa  khoá vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ  môn và  đối tượng người học để  có sự  phối kết hợp đa dạng các PPDH là việc cần  làm ngay của mỗi giáo viên để  nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Chính   vì lẽ  đó, đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất  nước trong giai đoạn hiện nay; đồng thời để thay làm mới hình thức cũng như  phương pháp dạy học của chính mình. Qua nhiều năm công tác, đi sâu vào  nghiên cứu và tìm hiểu về  phương pháp dạy học mới tôi đã đúc rút một vài   kinh nghiệm cho bản thân trong chuyên môn muốn đươc chia sẻ với bạn bè và  đồng nghiệp với  “Một số  kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ  động   của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9”.  2. Thực trạng Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình  trong công tác giảng dạy, ham học hỏi luôn luôn tìm tòi để nâng cao kiến thức  chuyên môn. Không những vậy nhà trường cũng thường xuyên tổ  chức các   buổi thao giảng dự  giờ  đóng góp ý kiến cho nhau, để  tiết dạy được hoàn   thiện hơn. Mặt khác, Phòng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ chức định kì các   cuộc trao đổi chuyên môn theo các cụm. Đây cũng là dịp để  các thầy cô giáo   trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các trường với nhau để  ngày càng nâng  cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, cơ sở  vật chất của nhà trường cũng   ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực, để  phục vụ  nhu cầu dạy và  học của thầy trò trong trường. Về  mặt học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nông   dân nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ mặc dù điều kiện gia đình  7Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  8. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 còn khó khăn nhưng các em luôn nỗ  lực, cố  gắng phấn đấu khắc phục khó  khăn để vươn lên trong học tập. Ngoài những thuận lợi kể  trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó  khăn trong công tác giảng dạy. Cơ sở vật chất của trường tuy đã được đầu tư  hơn trước, nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn  khá   nhiều.   Các   thầy   cô   giáo   vì   còn   trẻ   nên   ít   nhiều   cũng   còn   thiếu   kinh  nghiệm trong việc giảng dạy. Về học sinh các em tuy rất chăm ngoan nhưng   do là học sinh nông thôn nên điều kiện học tập của các em còn thua thiệt   nhiều so với các bạn, không những thế nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh  hết sức khó khăn nên các em cũng không được gia đình quan tâm đến việc học  nhiều. Ngoài ra nhiều bậc phụ huynh và chính các em học sinh còn mang suy   nghĩ, môn Văn không phải là môn học lý tưởng để  có thể  lựa chọn ngành   nghề trong tương lai cho nên còn có thái độ xem nhẹ môn học này.  Từ  tình hình thực tế  trên địa bàn xã, người ta thường đổ  xô vào các   ngành học mà sau này làm ra tiền. Mà muốn vậy thì phải đầu tư vào các môn   học khác chứ không phải là văn học. Thờ ơ, vô cảm coi thường môn Văn đẫn  đến các em học sinh không có được say mê, hứng thú học văn, đọc văn, như  một nhu cầu tự thân. Đã qua rồi thần tượng của thế hệ trẻ là các nhà văn, nhà  thơ, nhà khoa học, thay vào đó là các ngôi sao ca nhạc, người mẫu thời trang,   minh tinh màn bạc, cầu thủ  bóng đá.... Không còn nữa những giờ  giảng văn  mà cả thầy và trò đều xúc động trước một câu thơ hay, một áng văn đẹp, một   số  phận nhân vật. Không phủ  nhận vẫn còn những em say mê văn học, yêu   thích môn văn, rất am hiểu về  các tác giả, tác phẩm văn học trong và ngoài  nhà trường, biết làm thơ, viết truyện... nhưng con số ấy đáng là bao?  Một nguyên nhân quan trọng nữa là trường đóng tại địa bàn xã nên tỉ lệ  học sinh gốc Quảng Nam trong trường khá nhiều, các em phát âm mang đậm   đặc thù của tiếng địa phương là điều không thể  tránh khỏi. Điều này cũng  ảnh hưởng không nhỏ  tới việc cảm thụ một tác phẩm văn chương, đặc biệt  là những tác phẩm văn học cổ. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng trong nhiều  năm qua chất lượng học tập của một số môn học tương đối thấp, trong đó có  môn Ngữ văn. Năm học 2 2017­2018 được phân công giảng dạy môn Ngữ văn  9, sau khi nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học  tập và kết quả học tập môn Ngữ  văn của học sinh hai lớp 9A3 và 9A4 bằng  phiếu điều tra với bài kiểm tra 90 phút cùng hình thức trắc nghiệm, tự  luận  ngay từ đầu năm học với kết quả thu được như sau: 8Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  9. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 ­ Về hứng thú học tập: Tổng số HS Yêu thích Không yêu thích Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 63 15 23,8% 48 76,2% ­ Về kết quả học tập: Tổng  Trung  Giỏi Khá Yếu số HS bình Số  Số  Số  Số  Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ 63 lượng lượng lượng lượng 4 6,3% 10 15,9% 47 74,6% 2 3,2% Đây quả  là một kết quả  thật đáng buồn nhưng càng buồn hơn là mỗi  khi đến tiết dạy Văn hầu như  các em không tập trung chú ý, không khí lớp  chùng xuống khi cả lớp mà số lượng học sinh giơ tay phát biểu chỉ  đếm trên  đầu ngón tay và thậm chí có một số em còn ngủ gật trong khi giáo viên thì say  sưa giảng bài. Trước thực trạng đó tôi luôn băn khoăn và tự đặt câu hỏi: Làm   thế  nào để  các em yêu Văn? Làm thế  nào để  các em hứng thú với giờ  học  Ngữ văn? Với những trăn trở  đó, tôi nghĩ rằng cần phải tìm ra các biện pháp  và giải pháp để khắc phục thực trạng trên càng sớm càng tốt. III. Các giải pháp đã tiến hành Là giáo viên chúng ta đều biết rằng trí thông minh, khả  năng tiếp thu  kiến thức, tình trạng sức khỏe cũng như hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh   là không giống nhau. Tuy nhiên trong thực tế hầu như chúng ta có xu hướng   yêu cầu, đòi hỏi tất cả học sinh mà chúng ta dạy đều phải kết quả  cao, đều   phải học giỏi bộ  môn của mình. Đó là điều vô lý vì theo thuyết thông minh   của Howard Gardner thì Trí thông minh của con người được chia làm 8 loại đó  là: Thông minh ngôn ngữ;  Thông minh logic­toán học; Thông minh về âm nhạc;  Thông minh về thể chất; Thông minh về không gian;    9Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  10. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 Thông minh về giao tiếp xã hội; Thông minh nội tâm; Thông minh về tự nhiên. Vậy  nhiệm  vụ  của  chúng  ta cần  phải nắm bắt  được  học  sinh  của  chúng ta cơ  bản có dạng trí thông minh nào để  từ  đó làm tốt nhiệm vụ  giáo   dục tri thức của mình. Là một giáo viên có thời gian giảng bộ môn chưa nhiều  ­ hơn 4 năm, nhưng với kinh nghiệm của bản thân tôi khi còn là học sinh phổ  thông cho đến bây giờ  ­ là một giáo viên dạy môn Ngữ  văn tại trường THCS  Lê Đình Chinh, tôi cho rằng dạy văn là một công việc khó khăn, đó chính là  dạy làm người. Đó là một công việc vô cùng có ý nghĩa nhưng thực tế  cho   thấy, ngày nay nhiều em học sinh không có hứng thú và không yêu thích học  môn Ngữ  văn. Nhiều tiết học, thầy cô dạy còn hời hợt, học trò thì học theo   kiểu đối phó nên những tiết học tẻ nhạt cứ diễn ra một cách máy móc, khiên  cưỡng. Vậy nên, tôi thiết nghĩ  muốn cho học sinh yêu thích học môn Văn,  trong từng tiết  dạy chúng ta luôn phải biết tự  làm mới mình bằng nhiều   phương pháp khác nhau. Đặc biệt giáo viên phải biết cách khơi gợi, tạo được   hứng thú, niềm say mê, yêu thích bộ môn cho học sinh. Nhận thức được điều này cho nên trong các tiết dạy của mình tôi luôn  trăn trở  một điều là: Làm thế  nào để  một tiết học trôi qua mà các em không  cảm thấy bị áp lực, không cảm thấy mệt mỏi, chán chường? Làm thế nào để  trước mỗi giờ học các em có được cảm giác chờ đợi và háo hức đến tiết học   Ngữ  văn? Làm thế  nào để  các em cảm nhận được mình là một thành viên  quan trọng của lớp và làm thế  nào để  các em có được những kiến thức cơ  bản nhất của tiết học đó? Vì vậy với nội dung  này, tôi mong muốn chia sẻ,   trao đổi một vài kinh nghiệm nhỏ bé của mình để có thể giải quyết được một  phần nào đó những câu hỏi mà bản thân đã nêu ra ở trên, từ đó góp phần nâng  cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn 9. Ngoài ra tôi cũng mong rằng cha mẹ học sinh cần quan tâm đầu tư  cho  con em mình khi học các môn mang tính xã hội. Trong khi đó môn Ngữ  văn   không phải là môn học dễ, nó kết hợp kiến thức của nhiều môn học khoa học   xã hội, như  Địa lý, Sinh học, Lịch sử, GDCD, Âm nhạc và thậm chí có cả  Toán… Học tốt môn Ngữ văn sẽ trang bị cho các em nhiều kiến thức về đời   sống, về giao tiếp ứng xử và các kĩ năng cần có đối với cuộc sống. Mặt khác học tốt môn Ngữ văn còn giúp cho các em được tự mình khám  phá, được thấy các mối quan hệ  về  các phân môn trong môn Ngữ  văn (văn   bản, tiếng Việt, Tập làm văn) một cách rất tường minh, các kiến thức cơ bản   10Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  11. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 sẽ  trở  nên dễ  hiểu, đơn giản hơn, lúc đó các em không còn tâm lý ngại học  nữa. Ngoài ra còn rèn cho các em thói quen quan sát, suy luận tư duy logic, rèn  khả năng nhanh nhạy của đôi tay, trí óc. Việc ghi chép sẽ đơn giản, dễ hiểu,  tránh được cách học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc, tạo tâm lý thoải   mái khi học tập, kích thích được lòng ham học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo,   khả  năng cảm thụ  văn chương của mỗi cá nhân học sinh cũng vì thế  mà tốt  hơn.  Từ  những nguyên nhân trên cùng với kết quả không như  mong đợi của  học sinh, tôi đã tìm ra cho mình một hướng đi mới, một phương pháp mới,   khả thi hơn, hiệu quả hơn. Đó là vừa đổi mới phương pháp vừa tạo hứng thú  cho học sinh bằng những tiết học sinh động. Trước hết tôi khẳng định rằng: Dù áp dụng phương pháp mới, phương  pháp tích cực đến mấy thì cũng phải và luôn kế  thừa những phương pháp   truyền thống. Phải biết xen kẽ  bổ  sung cho nhau để  phù hợp với tình hình  thực tế và từng đối tượng học sinh. Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện: Giải pháp 1. Chủ động ngay từ khâu thiết kế bài giảng Một giáo viên giàu kinh nghiệm  ắt sẽ  biết việc thâm nhập kỹ  bài dạy  trước khi lên lớp chiếm tỷ  lệ  thành công tới 50% của tiết học. Điều này lý  giải vì sao có những giáo viên bộ  môn dạy lâu năm và chuyên dạy một khối  lớp không thông thạo lắm về công nghệ  thông tin nhưng vẫn được học sinh  ngưỡng mộ vì giảng dạy thuần thục và dễ hiểu.          Việc chủ động trong thiết kế bài giảng của giáo viên có thể  tiến hành  như sau: Căn cứ theo phân phối chương trình đã được xây dựng và thống nhất   từ  đầu năm học, giáo viên chủ  động xem xét dung lượng kiến thức vừa đủ  trong một tiết dạy (tránh sự quá tải); Chuẩn bị hệ thống câu hỏi đảm bảo tính  tối  ưu (có tính chất phân hóa đối tượng); Những kỹ  năng học sinh cần đạt  được. Cuối cùng là sự  chuẩn bị những tình huống gọi là “gia vị” nhằm tránh   sự  căng thẳng, nhàm chán, để “giữ lửa” trong suốt tiết học.          Có làm tốt được khâu soạn bài thì khi lên lớp chúng ta sẽ luôn tự tin và   chủ động trong tiết dạy của mình. Điều này sẽ giúp cho các em hào hứng, tích   cực vì   mình là một thành viên của tập thể, được giáo viên và bạn bè ghi  nhận, tôn trọng. Ví dụ: Trong một lần, do thời khóa biểu của nhà trường thay đổi vào   cuối tuần, mà hôm đó tôi lại không có tiết nên không kịp cập nhật thời khóa  11Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  12. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 biểu mới. Vì vậy hôm sau khi lên lớp dạy vào bài  “Đấu tranh cho một thế  giới hòa bình”,  ở  chương trình Ngữ  văn 9, tôi chưa kịp chuẩn bị  kĩ bài dạy  hôm đó. Vì vậy khi lên lớp mặc dù kiến thức của bài hôm đó tôi nắm khá  chắc, nhưng mọi lời tôi nói và truyền đạt với học sinh lúc đó còn mang tính  trừu tượng, các em khó có thể hình dung hết được sự  hủy diệt to lớn của vũ  khí hạt nhân. Nếu tôi có sự  chuẩn bị  trước máy chiếu, các đoạn video, hình  ảnh… về chiến tranh hạt nhân, thì tiết học sẽ thành công hơn, ấn tượng hơn   và giá trị giáo dục cũng như kĩ năng sống sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Đây là bước vô cùng quan trọng của một giáo viên trước khi đến lớp.  Bởi hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện   mối quan hệ  tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm  đạt được  những mục tiêu của bài học. Căn cứ  trên giáo án, có thể  vừa đánh giá được  trình độ  chuyên môn và tay nghề  sư  phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm,  nhận thức của họ  về các vấn đề  giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung   giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách   đánh giá kết quả  học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố  có tính  chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng   HS. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất  quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học. Giải pháp 2. Chuẩn bị tốt tâm thế cho tiết dạy Tâm thế  của người dạy Văn rất quan trọng, nó là yếu tố  quan trọng  hàng đầu để tạo sự thu hút, chú ý của các em học sinh trong tiết học. Tâm thế  của người dạy Văn có nhiều yếu tố nhưng theo tôi có ba yếu tố cơ bản quan   trọng nhất đó là: Kiến thức của người dạy, tâm trạng của người dạy và thái   độ của người học. Nếu kiến thức bài dạy đã được giáo viên chuẩn bị  một cách kĩ lưỡng  đầy đủ, giáo viên đã làm việc cùng với tác phẩm một cách thấu đáo, sẵn sàng  buồn, vui cùng nhân vật cùng nhà văn, sẵn sàng chia sẻ điều mình biết về tác   phẩm cùng học sinh, thì đó là một tâm thế  tuyệt vời, cần có của người dạy   về điều kiện kiến thức và sự chuẩn bị cho bài dạy. Người dạy Văn vốn nhạy cảm, dễ  vui, dễ  buồn, dễ  bị  chi phối tâm  trạng cảm xúc. Điều này  ảnh hưởng không tốt đến quá trình dạy Văn. Nếu  trước khi lên lớp mà thầy cô giáo đang phiền lòng vì chuyện gia đình, đang   bực mình vì ngổn ngang bao nhiêu chuyện riêng chưa biết sắp xếp, tính toán,  xoay sở thế nào thì thật khó để có được một giờ dạy văn đúng nghĩa.  12Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  13. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 Ví dụ: Có một lần vô tình lang thang trên mạng đọc một số tài liệu liên  quan tới môn Văn tôi có đọc được tâm sự  của một thầy giáo, thầy có kể  chuyện như sau: “Hôm ấy, gần hết năm học, thầy ra một đề Văn kiểm tra để  lấy điểm chuẩn bị tổng kết cho kì học. Đề bài là: Em hãy viết về điều mà em   muốn viết nhất. Đây là kiểu bài nghị luận cho nên học sinh rất hứng thú. Thôi  thì muốn viết gì thì viết, thoải mái. Tập bài thầy thu về hôm ấy thật bất ngờ,  thú vị và xúc động với nhiều cảm xúc, tình cảm đáng quý của học trò. Trong  số  bài  ấy có một lá thư  viết cho thầy. Cô học trò nói nhiều về  sự  quý trọng   với người thầy chủ  nhiệm, người thầy dạy Văn là thầy nhưng đoạn cuối lá  thư   có   viết:   “Thầy   ơi,  em   luôn  chờ   đợi   những  giờ   dạy   Văn   của  thầy  và   thường thì sự  chờ đợi của em đều xứng đáng. Nhưng gần đây, em không còn   có cảm giác  ấy nữa. Hình như, thầy bước vào lớp mà quên không để  lại   những  ưu tư  ngoài cửa. Lúc nào trông thầy cũng buồn bã. Thầy cố  gắng lên   nhé. Em rất mong có lại được cảm giác đợi chờ thầy đến lớp”. Đọc xong lời  tâm sự  của thầy tôi thật sự  xúc động vì tình cảm mà thầy có được của các  học trò của mình. Tôi tự  nhìn lại mình và thấy rằng: Đúng là cũng có lúc vì  nhiều   chuyện   buồn,   vì   bao   nhiêu   nhọc   nhằn,   vất   vả   những   năm   mới   ra   trường, đã có lúc mình không dành trọn cảm xúc, tâm tư  cho những giờ  dạy   Văn. Học trò của mình sao lại phải chịu trách nhiệm về  chuyện buồn của   mình chứ? Thú thực là tôi thấy chán tôi lúc  ấy khủng khiếp. Trong lòng tôi  thầm cảm ơn cô học trò ấy, cảm ơn người thầy giáo nọ và xốc lại tinh thần,  quyết lấy lại niềm tin yêu của học trò. Tôi đã làm theo gợi ý của cô học trò   ấy. Trước khi vào lớp, hãy hình dung có một cái giá treo vô hình ngoài cửa và  hãy treo tất cả những chuyện buồn  ở đó để bước vào lớp với tâm trạng thoải  mái, thân thiện, toàn tâm toàn ý với bài dạy, với học trò của mình. Hãy thay  lời trách móc, mắng mỏ thành lời trách hài hước, dí dỏm. Hãy để nụ cười trên  môi khi chúng ta khi bước vào lớp. Đành rằng, cũng có lúc phải mắng học   sinh nhưng những lúc  ấy lời mắng của người thầy cũng phải thể  hiện sự  thiện chí và sự bao dung với học trò để giây phút căng thẳng dễ dàng trôi đi và   hãy chỉ để lại trên lớp một giờ dạy Văn sôi nổi và đầy hứng thú. Giải pháp 3. Chủ động tích hợp liên môn kiến thức Môn Ngữ  văn là một môn học quan trọng, khá hấp dẫn nhưng đòi hỏi   năng khiếu và khả  năng cảm thụ  tốt, vì vậy với nhiều em không có năng  khiếu văn chương, mà chỉ  thích các môn học khoa học tự  nhiên thì mỗi giờ  học trôi qua đôi khi là một cực hình. Vì vậy trong giờ dạy, giáo viên thay vì cứ  rập khuôn cứng nhắc theo nội dung của bài giảng thì có thể  sáng tạo bằng   13Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  14. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 cách tích hợp liên môn kiến thức, chủ động liên hệ vận dụng vào thực tiễn để  tiết học trở lên hấp dẫn sinh động hấp dẫn hơn. Ví dụ:  Ở chương trình Ngữ  văn lớp 9, có bài “Mùa xuân nho nhỏ” của   Thanh Hải. Nội dung bài thơ có ba mùa xuân đó là mùa xuân của thiên nhiên,  mùa xuân của đất nước, và mùa xuân của con người. Cuối tiết dạy giáo viên  có thể  cho học sinh chọn một trong ba chủ  đề  đó để  phác họa bức tranh ra  giấy và nộp cho giáo viên vào hôm sau. Ví dụ: Cũng ở chương trình Ngữ văn 9,trong quá trình giảng bài “Những   ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê về cuộc sống và công việc của những cô   gái thanh niên xung phong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nếu giáo  viên chỉ  giảng suông bằng lời, thì học sinh khó có thể  hình dung hết được  những khó khăn gian khổ  của thế  hệ  cha anh đi trước từng trải qua.Vì vậy   giáo viên có thể  cho các em xem một đoạn phim tư  liệu lịch sử  về  Ngã 3  Đồng Lập, về  công việc của những cô gái thanh niên xung phong mở  đường  cứu nước để  các em dễ  dàng hình dung bài học hơn. Hay đến với bài thơ  “Mây và sóng” của Tagor, tôi đã tích hợp phân môn Địa lý để đưa các em đến   với đất nước, con người và nền văn hóa Ấn Độ  ­ nơi mà tác giả đã từng sinh  ra và lớn lên. Cũng như đến với bài thơ  “Đồng chí” của Chính Hữu, khi thực  hiện xong phần đọc văn bản tôi đã yêu cầu học sinh phổ nhạc bài thơ ấy theo  cách của mình. Đa số các em rất hào hứng và tranh nhau thể hiện năng khiếu   của bản thân. Chính điều ấy đã làm cho tiết học trở nên sôi nổi và vô cùng thú   vị. Việc tích hợp liên môn trong tiết học, không chỉ  giúp tiết học trở  lên  sinh động hơn, mà còn giúp tư  duy của các em nhanh nhạy, tích cực và sáng  tạo hơn. Mặt khác chúng ta đều thấy môn Ngữ văn rất kén người học, số em  yêu thích Văn trong một lớp không nhiều. Tuy nhiên nếu giáo viên nhận thức   được rằng học sinh của chúng ta ai cũng có điểm mạnh điểm yếu khác nhau,   có những trí thông minh khác nhau, có em không học tốt môn Ngữ văn nhưng   lại có năng khiếu về  âm nhạc hay hội họa thì việc cho các em lên hát, cũng   như  cho các em phác họa lại bài thơ  hay câu chuyện bằng tranh là một cách  dạy gián tiếp. Cách này sẽ  giúp các em được hòa mình vào tiết học, tính tích  cực chủ động của mỗi cá nhân sẽ được phát huy tối đa và bài học đó cũng sẽ  trở lên ấn tượng hơn và các em cũng nhớ lâu hơn. Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy tích   cực 14Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  15. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9        Một món ăn dù ngon đến mấy, nhưng bữa nào cũng ăn, ngày nào cũng ăn  thì chắc chắn người thưởng thức sẽ  không còn thấy nó ngon nữa, thậm chí   chán ngán. Trong tiết học Văn cũng vậy, dù phương pháp dạy đó có tốt đến  mấy được đánh giá cao đến mấy, nhưng tiết học nào người thầy cũng rập   khuôn như  vậy thì học sinh cũng không thể  nào thấy hay mãi được. Có thể  trong 45 phút đó chúng ta say mê giảng, nhưng chưa chắc học trò của chúng ta   sẽ  say mê nghe. Nếu duy trì cách dạy như  vậy thì chúng ta hãy quan sát lớp   học của mình xem, bắt đầu vào buổi học, có thể các em rất vui vẻ, nhưng sau  10 phút một số em đã lơ đãng, sau 20 phút có em đã ngáp, sau 30 phút có em sẽ  trả  lời chắc chắn điều đó là đúng dù không biết câu hỏi đó là gì.   Vì vậy,  chúng ta phải thường xuyên thay đổi, linh hoạt trong việc lựa chọn phương   pháp giảng dạy. Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ  văn, việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc   đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả,  đồng thời  khơi dậy niềm  hứng thú, yêu thích môn học… Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà  giáo viên có thể  sử  dụng như: Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình  huống, Dự  án, Động não, Đặt và giải quyết vấn đề…. Trong khuôn khổ  bài  viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp truyền thống, tôi chỉ trình bày vài  phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo dục trong quá   trình giảng dạy. ­ Kể chuyện hoặc giai thoại liên quan Ví dụ: Trong tác phẩm “Cố  hương” của Lỗ  Tấn  ở chương trình Ngữ  văn 9, khi tìm hiểu về  tác giả, học sinh đọc trong sách giáo khoa chỉ  có thể  biết được Lỗ  Tấn đã học rất nhiều trường, nhưng sau  đó ông chuyển từ  ngành y sang học văn vì ông nghĩ rằng, văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi  tinh  thần”  của  nhân dân  Trung  Quốc  đang  ở   tình trạng  “ngu  muội”,  “hèn  nhát”. Nếu nói vậy các em sẽ  chưa hiểu được căn nguyên của lí do. Lúc đó,   giáo viên có thể kể thêm một giai thoại gắn liền với quyết định này của ông  đó là: “Trong một lần đi xem phim, ông thấy cảnh rất nhiều người dân Trung  Quốc khỏe mạnh đi xem cảnh người Nhật chém đầu một người Trung Quốc,   đồng bào mình bị giặc mang ra chặt đầu mà họ lại rất hăm hở, hào hứng. Ông  giật mình nhận ra chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh  thần, nên ông đã quyết định chuyển sang nghề văn”.  ­ Lồng ghép trò chơi trong dạy ­ học môn Ngữ văn 15Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  16. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo  dục: giáo dục bằng trò chơi ­ một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục  tiên tiến trên thế  giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn  Ngữ  văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ  có ý nghĩa tích  cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay đồng thời tạo được hứng thú trong học   tập cho học sinh. Qua phân tích ý nghĩa, mối quan hệ của việc học mà chơi, để giới thiệu  một cách có hệ  thống về  các hình thức lồng ghép trò chơi, minh hoạ  một số  trò chơi và những khả  năng lồng ghép trò chơi đối với cả  ba phân môn: Đọc  văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là cải  tiến phương pháp dạy học, tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh  tích cực, chủ  động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân   cách. Nguyên tắc: Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý  mối quan hệ  giữa trò chơi với hệ  thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí,   đúng mức và đúng lúc để  không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh  chóng  ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội  dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả  các tiết học, đôi khi gây  phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ  cũng kết thúc bằng thưởng cho  người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị). Một số  hình thức lồng ghép trò chơi: Xem trò chơi là một hình thức tổ  chức cho một đơn vị  kiến thức nhỏ  trong giờ  học để  triển khai  ở  các bước  khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc ­  hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…). Tổ chức tiết học thành một trò  chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát. Một số  trò chơi có thể  vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ  văn:   giáo viên có thể  tự  sáng tạo ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò chơi  phát động, trò chơi hoạt động, trò chơi luyện trí, trò chơi chú ý và quan sát, trò  chơi huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức…), tự đặt tên trò chơi  (theo nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự  tò mò của các em. Ví dụ:  Ô  chữ, Nhanh trí­nhanh tay, Bình thơ văn, Tiếp sức, Hùng biện… Có nhiều trò chơi có thể  lồng ghép vào giờ  học Ngữ  văn nhằm tạo   không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tôi sẽ  trình bày   một số trò chơi dễ áp dụng đem lại hiệu quả học tập cao:      Trong chương trình ngữ văn lớp 9 có bài ôn tập thơ và truyện hiện đại.  Giáo viên nên chia lớp ra thành các đội chơi để các em thi với nhau. Giáo viên  16Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  17. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 cũng chia tiết học thành các phần chơi khác nhau cũng như  có số  điểm luật  chơi tương ứng mỗi phần. Phần 1. Khởi động Phần này giáo viên có thể  giúp các em nhớ  lại kiến thức về  tác giả,   hoàn cảnh ra đời bằng các câu hỏi nhỏ, mỗi đội sẽ  giành quyền trả  lời bằng  cách bấm chuông (nếu có) hoặc giơ cờ.  Ví dụ: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được ra đời trong hoàn cảnh   nào? Trong những bài thơ  “Đồng chí”, “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính”,  “Bếp lửa”, “Đoàn thuyền đánh cá” bài thơ  nào được sáng tác trong thời kì  kháng chiến chống Mĩ? Phần 2. Vượt chướng ngại vật Phần này giáo viên sẽ  tổng kết kiến thức về  nội dung và nghệ  thuật  cho các em bằng cách sau: ST Tên tác phẩm  Nội dung T 1 Ca ngợi sự  giàu đẹp của biển, sự  giàu đẹp  trong tâm hồn người lao động. Bộc lộ  niềm  vui niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống. 2 Tình yêu làng, tinh thần yêu nước của người  nông dân trong thời kì kháng chiến. 3 .... .... Mỗi đội chơi sẽ cử thành viên trong tổ lên điền vào phần tên tác phẩm,  tương  ứng với nội dung và nghệ  thuật thì đội chơi sẽ  có hai lượt chơi. Mỗi   lượt điền 2 tác phẩm theo sự chỉ định của giáo viên. Phần 3. Tăng tốc Phần này giáo viên có thể  cho học sinh làm bài tập ô chữ. Mỗi ô chữ  tương ứng với tên một tác giả hoặc nội dung nhỏ nào đó trong tác phẩm từ đó  tìm ra từ khóa. 17Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  18. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 1. Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Bếp lửa? 2. Có 8 chữ cái: Một sáng tác của Nguyễn Duy? 3. Có 4 chữ cái: Một sáng tác của Kim Lân? 4. Có 3 chữ cái: Con gái ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà có tên là gì? 5. Có  5 chữ  cái:  Nhân vật  đi cùng cô  gái vào nhà anh thanh niên trong  truyện Lặng lẽ SaPa làm nghề gì? 6.  Có 6 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá? 7. Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đồng chí? 8. Có 4 chữ cái: Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ nói về  người mẹ dân tộc nào? …. B Ằ N G V I Ệ T Á N H T R Ă N G L À N G T H U H Ọ A S Ĩ H U Y C Ậ N C H I N H H Ữ U T À Ô I T R U Y Ệ N N G Ắ N N I Ề M T I N Đ Ồ N G C H Í B À N G O Ạ I K I M L Â N 18Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  19. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 Phần 4. Về đích Ở  phần thi này giáo viên sẽ  cho các đội chơi một đoạn thơ  và các đội  sẽ  chứng tỏ  năng khiếu của mình bằng việc ngâm hoặc đọc diễn cảm đoạn  thơ đó. Sau khi tổ chức xong các phần thi giáo viên cộng điểm lại  ở  các phần   và công bố  nhóm được điểm cao nhất. Tuyên dương các nhóm có thành tích  tốt khuyến khích các nhóm còn lại. ­ Sân khấu hóa tác phẩm văn học            Để   tăng   cảm   hứng   học   tập   môn   Ngữ   văn   cho   các   em   học   sinh   và  khuyến khích tinh thần đọc sách, cũng như  sự  cảm thụ tác phẩm văn học và  đồng sáng tạo cùng nhà văn, giáo viên có thể  cho học sinh học theo cách sân  khấu hóa tác phẩm văn học. Nghĩa là học văn bằng diễn kịch.  Nghĩa là học  sinh sẽ chuyển thể tác phẩm văn học thành vở  diễn, sau đó thảo luận những  vấn đề trọng tâm. Từ đó rút ra những bài học cần thiết của tác phẩm. Giáo viên có thể chọn tác phẩm phù hợp để áp dụng cách này. Mỗi lớp   sẽ được chia nhóm khác nhau. Trong nhóm có các bạn khác nhau như viết kịch  bản, phụ trách diễn xuất, media, hậu cần, nhóm tổ  chức hội thảo... học sinh   dàn dựng từ chính tác phẩm văn học các em đang học trong trường để chuyển   thành vở  diễn. Các em tự  xây dựng kịch bản, giáo viên chỉ  duyệt nội dung.   Việc chuẩn bị phục trang, dựng cảnh, phân vai diễn xuất, rồi chọn nhạc, làm  tiếng động... để tạo nên một vở diễn ngắn ấn tượng đều là sáng tạo của học  sinh. Học chính là thảo luận. Khác với việc chỉ  dừng lại  ở dựng tiểu phẩm   tham dự các hội thi, sân khấu hóa tác phẩm văn học được thực hiện tại từng   lớp học và trở  thành một phần của bài học. Sau phần diễn kịch học sinh các   nhóm sẽ  cùng thảo luận về một số  vấn đề  trọng tâm của bài học. Với cách   thức này, tất cả học sinh đều phải đọc tác phẩm để nắm nội dung, tìm những  chi tiết đắt giá góp ý cho kịch bản. Việc dựng lại những câu chuyện trong bối cảnh thực tại của hàng chục   năm trước trong cái nhìn mới mẻ của chính các em học sinh đã thổi luồng gió  mới vào tác phẩm văn học, khiến tác phẩm văn học không xa rời thực tế cuộc  sống hiện tại, không nhàm chán, đơn điệu mà có sức hấp dẫn mới. Từ đó rút  ra ý nghĩa của tác phẩm hay trích đoạn tác phẩm để tất cả học sinh cùng nắm   bắt và thấu hiểu. 19Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  20. Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9 Bên cạnh đó, tôi còn kết hợp vận dụng phương pháp đóng vai vào mỗi  kịch bản. Bởi đóng vai là phương pháp tổ  chức cho học sinh thực hành, thử  nghiệm một số  cách  ứng xử  nào đó trong một tình huống giả  định. Đây là   phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề  bằng cách   tập trung vào một sự  việc cụ  thể  mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát  được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều  quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Có thể cho học sinh tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu  chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong   đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.  Các  nhóm thảo luận chuẩn bị  đóng vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo luận,  nhận xét về  cách  ứng xử  và cảm xúc của các vai diễn; về  ý nghĩa của các  cách ứng xử. Giáo viên kết luận, định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích  cực trong tình huống đã cho. Chúng ta cần lưu ý khi cho học sinh đóng vai:  + Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ  đề  bài học, phù hợp với  lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống không   nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép. + Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. Tình huống cần để mở để  học sinh tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch  bản”, lời thoại. + Mỗi tình huống có thể  phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng  vai. Phải dành thời gian phù hợp cho học sinh thảo luận xây dựng kịch bản và  chuẩn bị  đóng vai cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các   nhóm. Trong khi học sinh thảo luận và chuẩn bị đóng vai, giáo viên nên đi đến  từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ  học sinh khi cần thiết. Các vai diễn   nên để học sinh xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận. Nên khích lệ  cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia. 20Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2