Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm về kỹ năng sửa lỗi Tiếng Anh
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, giảng dạy không những là nhiệm vụ của bộ môn Tiếng Anh mà còn là nhiệm vụ của tất cả các môn học khác. Những năm học gần đây ngành giáo dục thực hiện đề án nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ trong hệ thống GD quốc dân. Do vậy, tôi đã nghiên cứu đề tài tại trường THCS Bình Khê để nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như nhằm lôi cuốn sự yêu thích của học sinh đối với môn học này 3 Khẳng định vai trò quan trọng của 4 kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) Trong quá trình dạy học Tiếng Anh, trong đó phải quan tâm đặc biệt đến kỹ năng nghe và nói để học sinh có thể giao tiếp được bằng ngoại ngữ đã được học trong cuộc sống, để học sinh có cơ hội nghe và hiểu người bản xứ nói Tiếng Anh. Từ đó làm cho học sinh yêu thích môn học và người giáo viên đạt được đến cái đích cuối cùng là nâng cao chất lượng giảng dạy của mình. Qua đó thấy được thực trạng học Tiếng Anh của học sinh và sự cần thiết phải tìm ra những hình thức và phương pháp sữa lỗi phù hợp nhất. Từ đó giúp cho HS dễ dàng trong các bậc học tiếp theo và giúp cho GV thực hiện triệt để và sáng tạo các phương pháp dạy học tích cưc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm về kỹ năng sửa lỗi Tiếng Anh
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG TRIỀU TRƯỜNG thcs BÌNH KHÊ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ KỸ NĂNG SỬA LỖI TIẾNG ANH. Họ và tên GV: Dương Thị Phượng Đơn vị công tác: Trêng THCS Bình Khê Huyện Đông Triều - Tỉnh Quảng Ninh NĂM HỌC 2014- 2015 1
- I. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài. Đã từ lâu, bộ môn Tiếng Anh được dạy như một môn học bắt buộc ở các trường phổ thông thuộc các cấp khác nhau, và cho đến nay nó là một bộ môn đang phát triển ở Việt Nam.Tiếng anh ngày càng trở nên phổ biến, nó được xem là cầu nối con người từ những nước khác nhau trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Hơn thế nữa nhờ có tiếng Anh mà con người đã có được những bước tiến đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Việc học Tiếng Anh là quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Những năm gần đây Tiếng Anh ngày được coi trọng và đã nhiều năm nay Bộ GD& ĐT triển khai đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Tiếng Anh ngày càng được đông đảo các tầng lớp trong xã hội quan tâm, càng có nhiều học sinh có hứng thú, có nhu cầu nghiên cứu chuyên sâu với môn học. Qua những năm trực tiếp giảng dạy Tiếng Anh và ý thức tự học tập, rèn luyện của học sinh ở trường THCS nói chung và trường THCS Bình Khê nói riêng học sinh gặp rất nhiều lỗi khi sử dụng tiếng Anh. Tại sao học sinh lại mắc quá nhiều lỗi như thế? Nguyên nhân dẫn đến việc mắc lỗi là gì ? Sửa lỗi và giúp học sinh sữa lỗi như thế nào cho hiệu quả ? Đây là những suy nghĩ, trăn trở của bản thân tôi qua nhiều năm công tác giảng dạy môn tiếng Anh ở trường THCS. Từ đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số một số kinh nghiệm trong “kỹ năng sửa lỗi Tiếng Anh ( kỹ năng nói và viết) cho học sinh THCS” 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, giảng dạy không những là nhiệm vụ của bộ môn Tiếng Anh mà còn là nhiệm vụ của tất cả các môn học khác. Những năm học gần đây ngành giáo dục thực hiện đề án nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ trong hệ thống GD quốc dân. Do vậy, tôi đã nghiên cứu đề tài tại trường THCS Bình Khê để nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như nhằm lôi cuốn sự yêu thích của học sinh đối với môn học này. 2
- Khẳng định vai trò quan trọng của 4 kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) Trong quá trình dạy học Tiếng Anh, trong đó phải quan tâm đặc biệt đến kỹ năng nghe và nói để học sinh có thể giao tiếp được bằng ngoại ngữ đã được học trong cuộc sống, để học sinh có cơ hội nghe và hiểu người bản xứ nói Tiếng Anh. Từ đó làm cho học sinh yêu thích môn học và người giáo viên đạt được đến cái đích cuối cùng là nâng cao chất lượng giảng dạy của mình. Qua đó thấy được thực trạng học Tiếng Anh của học sinh và sự cần thiết phải tìm ra những hình thức và phương pháp sữa lỗi phù hợp nhất. Từ đó giúp cho HS dễ dàng trong các bậc học tiếp theo và giúp cho GV thực hiện triệt để và sáng tạo các phương pháp dạy học tích cưc. 3. Đối tượng nghiên cứu. -Trường THCS Bình Khê. - Năm học 2013-2014 và năm học 2014-2015 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ đổi mới căn bản giáo dục và mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới, tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ một phần cung cấp thêm cho giáo viên chúng ta những hình thức, những hoạt động và phương pháp sữa lỗi cơ bản cho học sinh, phù hợp với từng đối tượng học sinh và với nội dung từng tiết học. Bên cạnh đó, đề tài còn đưa ra những phương pháp, những yêu cầu và những lưu ý khi sữa lỗi cho học sinh để học sinh hứng thú với giờ học, để giờ học thành công. 5. Phương pháp nghiên cứu. -Nghiên cứu lý luận và thực tiễn. -Phương pháp quan sát, điều tra, thống kê. -Phương pháp phân tích, tổng hợp. -Phương pháp trao đổi, thảo luân. -Phương pháp thực nghiệm 3
- II. PHẦN NỘI DUNG. 1. Cơ sở lý luận Việc chữa lỗi (correction) cho học sinh là một trong những nhiệm vụ của người giảng dạy ngoại ngữ. Chính vì thế, vấn đề đặt ra không dừng lại ở câu trả lời có nên hay không, mà phải làm thế nào để việc chữa lỗi trở nên hiệu quả, khuyến khích người học hăng hái hơn trong giờ học ngoại ngữ bởi vì từ những lỗi sai chúng ta mới tìm đựơc cái đúng, cái chính xác và với cái chính xác đó dẫn đến quá trình học tập. Người học càng mắc nhiều lỗi thì càng có được nhiều cái đúng. Càng có nhiều cái đúng , thì việc học lại càng diễn ra . Chúng ta thường học được nhiều điều từ những sai lầm của chúng ta hơn là từ những thành công” Chúng ta biết rằng kỹ năng Nói và Viết là các kỹ năng sinh sản (productive skills)- học sinh học và luyện tập đều vì mục đích là có thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt ý của mình ( bằng cách nói và viết) nên việc xuất hiện lỗi trong quá trình sử dụng ngôn ngữ là điều hết sức bình thường và không thể tránh khỏi. Chính vì vậy mỗi một giáo viên dạy tiếng Anh cần nhận thức được điều này để có thái độ đúng đắn khi học sinh của chúng ta mắc lỗi, và quan trọng hơn là để có phương pháp chửa lỗi chính xác và phù hợp với từng lỗi cụ thể. 2. Thực trạng Qua những năm giảng dạy tiếng Anh ở trường THCS tôi nhận thấy rằng học sinh THCS rất thích, rất húng thú với môn học tiếng Anh. Những năm gần đây, những học sinh khối 6, 7 hầu như thích thú môn học này hơn một số học sinh ở khối 8,9. Học sinh khối 6, 7 mạnh dạn nói, viết tiếng Anh hơn, mạnh dạn phát biểu trong giờ học hơn chứng tỏ học sinh khối 6,7 còn hồn nhiên, vô tư hơn nên các em chưa thấy ngại khi nói, khi viết và khi mắc lỗi. Tiếng Anh là môn học khó cho nên học sinh ngay từ đầu nếu không có phương pháp học đúng, giáo viên không kịp thời phát hiện, giúp đỡ sẽ dẫn đến việc học sinh “mất gốc” Và đó là nguyên nhân dẫn đến việc một số học sinh khối 8, 9 ngại nói và viết tiếng Anh, điều này cũng là nguyên nhân của chất lượng môn Tiếng Anh ở trường còn thấp. Các em sợ sai, sợ mắc lỗi, sợ xấu hổ với bạn bè khi mắc lỗi.. Việc chỉ ra lỗi sai là vô cùng cần thiết 4
- trong các môn học khác nói chung và tiếng Anh nói riêng. Nếu giáo viên cứ để mặc học sinh phạm lỗi, tức là họ đã vô tình ủng hộ các lỗi sai mà các em phạm phải. Rất nhiều giáo viên e ngại rằng nếu họ không sửa lỗi, họ sẽ càng làm tăng việc “sản sinh” ra lỗi, tạo thành một lối mòn trong cách sử dụng ngôn ngữ, rất khó sửa sau này. Quan điểm nên chữa lỗi cũng được nhiều học sinh ủng hộ, bởi các em luôn mong muốn giáo viên chữa lỗi để tránh phạm phải cho các lần học sau. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên cũng lo lắng rằng chữa lỗi sẽ khiến các em trở nên rụt rè, làm mất đi sự tự nhiên, trôi chảy, trái với những gì họ đang cố gắng khuyến khích học sinh. Vậy giáo viên phải làm thế nào để cho việc sửa lỗi sai một mặt giúp các em sửa lỗi, một mặt động viên các em tiếp tục mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ. Làm thế nào để các em không có quan niệm: việc duy nhất của cô giáo là “soi” ra lỗi. Chính vì vậy tôi luôn tạo cho các em cảm giác gần gũi thoải mái, tự nhiên khi học Chính vì thế tôi càng cố gắng hơn trong việc giúp các em một lần nữa nhận ra được điều này "Có lỗi” là chuyện rất bình thường là một vấn đề lành mạnh, bổ ích là bởi vì từ những lỗi sai chúng ta mới tìm được cái đúng, cái chính xác và với cái chính xác đó dẫn đến quá trình học tập. Người học càng mắc nhiều lỗi thì càng có được nhiều cái đúng. Càng có nhiều cái đúng , thì việc học lại càng diễn ra . Chúng ta thường học được nhiều điều từ những sai lầm của chúng ta hơn là từ những thành công. Một trong những phương pháp để làm được điều này là tìm tòi, rút kinh nghiệm về một số phương pháp chữa lỗi cho học sinh khi học sinh mắc lỗi mà không tạo cảm giác “Tự ti ” cho các em. Đối với mỗi người giáo viên việc tạo không khí cho tiết học đòi hỏi nghệthuật dạy học và sửa lỗi cho các em của mỗi giáo viên. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng cố thể thực hiện được điều đó, sự nhàm chán trong mỗi tiết học vẫn tồn tại. Sự hứng thú và động cơ học là những yếu tố đầu tiên giúp cho giáo viên nâng cao kỹ năng học tập cho học sinh. Làm thế nào khiến cho học sinh trở nên yêu thích tiết học, kể cả những em thường xuyên mắc lỗi khi sử dụng tiếng anh thì giáo viên cần tạo không khí học tập thuận lợi về cả mặt tâm lí lẫn nội dung cho hoạt động dạy học tiếp theo đó làm cho giờ học trở nên vui vẻ, hứng thú và có một giờ giảng đạt chất lượng cao. 5
- - Khảo sát (thống kê). * Một số khảo sát trước khi thực hiện đề tài: Kiểm tra kĩ năng nói: Unit 2(English 8) Speak Lớp Số học sinh Số học sinh tham gia nói đúng 8A 8 5(62,5%) 8D 8 4(50.0%) Tôi chú ý kiểm tra cách dùng động từ trong câu gián tiếp: - Đánh giá (phân tích). 3.Giải pháp,biện pháp thực hiện. 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Bồi dững nâng cao nhận thức về sự cần thiết trong việc khi dạy hoc và kỹ năng sửa lỗi sai khi dạy và học môn tiếng Anh. Nâng cao nhận thức của giáo viên đối với các bộ môn nói chung và bộ môn tiếng Anh nói riêng trong việc sửa lỗi sai cho học sinh trong mỗi tiết dạy là hết sức quan trọng. Mỗi giáo viên cần nhân thấy việc sử dụng các kỹ năng sửa lỗi trong mỗi giờ học là một nghệ thuật, gắn bó chặt chẽ không thể tách rời với phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm, khuyến khích người học mạnh dạn sử dụng tiếng anh làm công cụ giao tiếp... Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của 6
- mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Do đó những khám phá , giải quyết vấn đề có thể còn chưa chính xác, còn sai lệnh. Vì vậy kỹ năng sửa lỗi của GV sẽ giúp các em( Kể cả HS yếu..) mạnh dạn, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động dạy và học của người thầy. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: 3.2.1.Rèn luyện các kỹ năng thực hành sửa lỗi khi tổ chưc các hình thức tổ chức dạy học ngoại ngữ. Một số phương pháp sửa lỗi cho học sinh. * Các dạng lỗi thường gặp: - Lỗi từ vựng (vocabulary) - Lỗi ngữ pháp hoặc cấu trúc câu (grammar or structure patterns) - Lỗi chính tả (spelling) * Nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân sản sinh ra lỗi trong quá trình sử dụng ngôn ngữ, tôi có thể đưa ra một số nguyên nhân như sau: + Sự ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ ( Mother – Tongue interference) Đây là loại lỗi khá hệ thống trong quá trình học tiếng Anh. Học sinh khi học ngoại ngữ thường áp dụng một cách máy móc cú pháp ngôn ngữ mẹ đẻ vào ngôn ngữ mà người đó đang học, nhưng thực tế là có rất nhiều điểm khác biệt về cú pháp giữa các ngôn ngữ khác nhau. -Ví dụ về ảnh hưởng của cú pháp ngôn ngữ mẹ đẻ (cụ thể ở đây là Tiếng việt vào việc học Tiếng Anh) Có rất nhiều học sinh nói “He bought a car new” (Cậu ấy đã mua một chiếc xe hơi mới) vì trong Tiếng Việt tính từ thường đi sau danh từ còn trong Tiếng Anh thì gần như ngược lại, câu đúng phải là : “He bought a new car”. 7
- + Sự liên đới về ngôn ngữ ( Cross – association) Sự liên đới là một hiện tượng ảnh hưởng qua lại giữa một số quy tắc về học ngôn ngữ giữa người này với người khác - quy tắc này có thể áp dụng được với người này nhưng hoàn toàn không phù hợp với người khác. + Lỗi do bất cẩn (Errors due to carelessness.) Các yếu tố về tâm lý như bất cẩn, mệt mỏi, hoặc quên qui tắc ngữ pháp....cũng có thể là nguyên nhân gây ra lỗi trong quá trình sử dụng ngôn ngữ. Có rất nhiều học sinh khi nói “She live in QuangNinh with her family” (Cô ấy sống ở Quảng Ninh cùng với gia đình của cô ấy), ở đây có thể học sinh quên quy tắc ngữ pháp đó là thêm “s” vào sau động từ khi chia ở ngôi thứ ba số ít ở thể khẳng định của thì hiện tại đơn giản, cũng có lúc do bất cẩn trong phát âm hoặc cũng có thể giải thích cho hiện tượng này là “ảnh hưởng không tích cực của ngôn ngữ mẹ đẻ” cũng được là bởi lẽ trong Tiếng việt chúng ta nói “Cô ấy sống ở Quảng Ninh cùng với gia đình của cô ấy và Tôi sống ở Quảng Ninh cùng với gia đình của tôi” động từ sống không có sự khác biệt về hình thức động từ (tức là động từ không phải chia để phù hợp với ngôi số trong Tiếng Việt) .Trong khi đó câu đúng trong Tiếng Anh phải là : “She lives in Quang Ninh with her family” và “ I live in Quang Ninh with my family” + Quá trình dạy học gây ra lỗi (Teaching – induced errors.) Thói quen không tích cực trong quá trình dạy học cũng có thể là một trong những nguyên nhân gây ra lỗi. Thừa nhận rằng “thật không dễ dàng để xác định các lỗi ngoại trừ những thiết bị học kỹ năng, thủ thuật dạy học mà được áp dụng với người học”, nói cách khác việc áp dụng phương pháp học không phù hợp với học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quá trình học ngôn ngữ 3.2.2 Các phương pháp sữa lỗi cơ bản. Có ba phương pháp sữa lỗi cơ bản như sau • Tự sửa (Self-correction) • Học sinh sửa lẫn nhau (Peer correction) 8
- • Giáo viên sửa (Teacher correction) • Sửa lỗi nhóm (Group correction) 3.2.3. Tại sao lại phải sửa lỗi Khi học sinh sử dụng tiếng Anh - dù là viết hay nói thì các em luôn muốn biết là mình có mắc lỗi nào trầm trọng hay không, các em luôn muốn hỏi giáo viên rằng “ Em làm tốt chứ ạ?”, như vậy việc sửa lỗi là rất cần thiết 3.2.4. Sửa lỗi khi nào? Sửa cái gì? Và sửa như thế nào? + Sửa lỗi khi nào? * Thông thường việc sửa lỗi được thực hiện sau quá trình sử dụng ngôn ngữ của học sinh. + Sửa cái gì? * Cần sửa những lỗi có ảnh hưởng đến nghĩa của câu (Errors that interfere with meaning) - Thì động từ (Verb tense) - Trật tự từ (Word order) - Lựa chọn từ không chính xác (Confusing word choice) - Lỗi sai về chính tả (Confusing spelling) * Đôi khi không cần thiết phải sửa các lỗi không ảnh hưởng đến nghĩa của câu nếu như bài viết của các em đã quá nhiều lỗi để tránh tâm lí chán nản cho học sinh (Errors that are less likely to interfere with meaning) : - Mạo từ hay còn gọi là quán từ (Article mistakes) - Giới từ (Preposition mistakes) - Dấu chấm(.) hay dấu phẩy (,) (Comma splices) - Các lỗi chính tả nhỏ (Minor spelling mistakes ) + Sửa như thế nào? -Giáo viên sửa (Teacher's correction) 9
- Tôi thấy rằng giáo viên chữa lỗi cho học sinh là phương pháp tiêu biểu mà nhiều giáo viên thường áp dụng trong quá ttrình giảng dạy. Phương pháp này gồm có hai loại: Chỉnh sửa trực tiếp và chỉnh sửa gián tiếp. Loại chỉnh sửa gián tiếp có nhiều hình thức thực hiện hơn. Chúng ta cần lựa chọn hình thức phù hờp với đối tượng hoc sinh của mình. Ví dụ: Khi học sinh mắc lỗi về cấu trúc câu bị động tôi viết cấu trúc câu đúng lên bảng bằng phấn đỏ, gọi một sinh khác đứng dậy so sánh cấu trúc câu đúng với câu sai, lúc đó học sinh có thể tự sửa câu sai thành câu đúng và tiếp tục cho học sinh đặt thêm các ví dụ khác để học sinh luyện tập cấu trúc câu. This house was build by those workers S + Be + V_ (PP) + by + O This house was built by those workers - Học sinh có thể vận dụng phong cách sửa lỗi của giáo viên để tự sửa lỗi (Learners' preferred style of teacher's correction) Trong thực tế học sinh không thích cách chữa lỗi trực tiếp của giáo viên. nghĩa là gạch chân lỗi và chửa nó. Khi được hỏi tại sao thì các học sinh sẽ trả lời là các em mong muốn có liên quan đến quá trình chữa lỗi. Nói cách khác là giáo viên chỉ làm một phần của công việc, chỉ ra các lỗi, tạo cơ hội cho học sinh vận dụng kiến thức, trí não của mình để tìm ra cách sửa chữa sai sót. Chính nổ lực này của học sinh làm cho quá trình chữa lỗi của học sinh có ý nghĩa hơn và có lợi cho học tập bởi thông qua cách làm này học sinh lại một lần nữa ghi nhớ và khắc sâu hơn kiến thức đã gặp. - Sửa lỗi cả lớp (Class correction) Giáo viên có thể cho học sinh nói hoặc viết tự do, ghi lại những lỗi cơ bản sau đó sửa chung cho cả lớp- tránh tình trạng nêu lỗi của một ai vì làm như thế dễ gây cảm giác “mất mặt” (loosing face) cho học sinh. Một bài viết của học sinh sẽ được đưa lên có thể bằng bảng phụ, trình chiếu qua máy chiếu projector làm như một ví dụ. Giáo viên cùng với học sinh thảo 10
- luận, phát hiện những lỗi trong bài viết. Đây là cách mà học sinh rất thích nhưng giáo viên cũng cần chú ý đến cách làm, cách thể hiện và thái độ của học sinh trong quá trình chữa bài. - Sửa lỗi nhóm (Group correction) Đây cũng là một cách chữa lỗi rất dễ gây được hứng thú cho học sinh. Học sinh làm việc theo nhóm, vừa luyện tập, vừa chửa lỗi. Cách chửa lỗi theo nhóm sẽ làm cho giờ học nói và viết của học sinh trở nên nhẹ nhàng và thú vị hơn. Ví dụ: Giao bài của nhóm này cho nhóm khác sửa lỗi hoặc thành lập nhóm luyện nói, hoặc luyện viết đủ các đối tượng học sinh: học sinh khá, giỏi làm việc với học sinh trung bình ,yếu để các em sửa lỗi lẫn nhau. 3.2.5. Một số kĩ thuật sửa lỗi: Rất khó để có thể quyết định được nên chữa như thế nào và chữa bao nhiêu trên một bài viết của học sinh. Học sinh có thể nảy sinh thái độ tiêu cực đối với bài viết của mình mà giáo viên sửa tất cả các lỗi hoặc nếu giáo viên chỉ sửa một số ít các lỗi thì có thể các em lại nghĩ rằng giáo viên chưa dành đủ thời gian xem xét việc làm bài của mình. Sau đây là một số thủ thuật chữa lỗi mà tôi đã từng thực hiện: + Dùng bút đánh dấu khác màu vào những lỗi của các em Ví dụ: Bài viết của học sinh. Lan get up at six o’clock. She brushes her teeth, washes her face and have breakfast. Tôi đã đánh dấu khác màu các lỗi sai và yêu câu học sinh tự sửa lỗi của mình + Sửa lỗi bằng cách gạch chân lỗi của học sinh và viết hình thức thích hợp vào đúng vị trí của nó. Đây là phương pháp sửa lỗi trực tiếp tôi thường sử dụng kĩ thuật này khi thời gian bị hạn chế. Ví dụ: She bought many egges eggs. 11
- + Sử dụng kí hiệu ở bên lề hoặc ngay trên đầu lỗi để báo loại lỗi cho học sinh: Ví dụ: Khi học sinh mắc lỗi sai về các lỗi như thì động từ, trật tự từ, chính tả...... tôi đã sử dụng các ký hiệu sửa lỗi ( error correction codes) để sửa. Các ký hiệu này phải được cung cấp trước cho học sinh và yêu cầu học sinh nhớ ý nghĩa của từng biểu tượng trong suốt cả quá trình học tập. Các ký hiệu sửa lỗi ( error correction codes) như: S/V= use to highlight subject- WC = use to indicate a word verb agreement problems (lỗi về choice problem (lỗi về chọn từ sự hòa hợp giữa chủ từ và động đúng) từ) S/P = use to highlight singular/ ^ = use to indicate that there is a plural problems (lỗi về ngôi/ số) missing word (lỗi về thiều từ ) VT= use to highlight a verb tense / = use to indicate that a word is problem (lỗi về thì động từ) unnecessary (lỗi thừa từ) WO = use to indicate a word C = use to show that there is a order problem (lỗi về trật tự từ) problem with capitalization (lỗi viết hoa) WF = Wrong form Sp = Wrong spelling Ví dụ: Khi cho học sinh thực hiện phần writing theo nhóm, tôi sẽ đi lại để xem học sinh mắc những lỗi cơ bản nào, tôi sẽ ghi chú lỗi đó lên và sử dụng nhứng ký hiệu sửa lỗi lên phía trên góc phải của từ đó và gạch chân từ, hoặc đặt ký hiệu vào vị trí lỗi ví dụ : Code Explanation Example sentence WF Wrong form He is a good driveWF WT Wrong tense I knewWT him for 12
- years. Sp Wrong grandfathorSp spelling + Có thể viết bên lề số lượng lỗi trong mỗi dòng, sau đó thử để cho học sinh tự xác định lỗi và chửa lỗi. .2..The natural disaster call “Tidal wave” often occured suddenly. It is the ..1..result of a abrupt shift in the underwater movement of the Earth. In late ..0..2004, a series of tidal waves struck the seaside of Indonesia, Thailand, and ..1..some other Asian country. The famous resorts such as Phuket and Fiti ..0..were completely destroyed .A large numbers of people were killed. Học sinh nhìn vào số lượng lỗi bên lề và cố gắng để tìm ra và chữa lại. + Phân cặp hoặc nhóm, yêu cầu học sinh chữa lỗi cho nhau bằng cách sử dụng một trong những phương pháp trên. + Trao đổi bài của em này cho em khác chữa bằng cách sử dụng một trong những phương pháp trên. + Tôi có thể dùng tranh, thẻ ...để sửa lỗi trong giờ luyện nói một số điểm ngữ pháp đặc trưng. Ví dụ: Khi học sinh mắc lỗi về động từ thêm ING ở thì hiện tại tiếp diễn, tôi đã sử dụng “thẻ- ING” Tiếng Anh gọi là “ING – Card ” Tôi đã sử dụng kỹ năng này để dạy : Unit 8 A1(English 6) Phương pháp làm như sau: Lúc đầu tôi gọi một học sinh đứng dậy nhìn vào tranh để nói về các hoạt động mà những người sau đây đang làm, kết quả là HS này nói thiếu “ing” 4/6 câu. Sau đó tôi đặt “ING – CARD ” của tôi ngay dưới động từ và yêu cầu cả lớp đọc lại ba lần. Hầu hết học sinh đều rất ấn tượng với cái thẻ ING của tôi, và ít học sinh gặp phải lỗi tương tự khi chia động từ ở thì hiện tại tiếp diễn. 13
- Ngoài việc sử dụng “ING– CARD ” để sửa lỗi khi chia động từ ở thì hiện tại tiếp diễn ra thì chúng ta cũng có thể sử dụng “ING – CARD ” để sửa lỗi về động từ thêm ING ở thì quá khứ tiếp diễn, hoặc dùng “S- CARD” sửa lỗi trong luyện tập danh từ số ít, số nhiều, hoặc động từ chia ngôi thứ ba số ít của thì hiện tại đơn. Trong các phương pháp sửa lỗi trên thì phương pháp tự sửa lỗi là hiệu quả nhất trong việc học Tiếng Anh hay bất kỳ một ngôn ngữ nào khác. Khi học sinh nhận ra và tự sửa lỗi một cách chính xác thì các em càng tiếp thu ngôn ngữ một cách hiệu quả. 3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp: -Hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất đảm bảo, trang thiết bị đồ dùng được BGD quan tâm, đầu tư, cung cấp đầy đủ, kịp thời. -Đồ dùng dạy học đa dạng, phong phú, phù hợp với học sinh, có tính thẩm mỹ và giáo dục cao. -Hệ thống đồ dùng thường xuyên được bổ xung ( Mua mới, làm bổ xung qua các cuộc thi làm đồ dùng của GV) -Nhà trường yêu cầu giáo viên khi thực hiện giờ dạy phải có đồ dùng ( chỉ tiêu để đánh giá giờ dạy và xếp loại giáo viên). Ban giám hiệu, tổ chuyên môn thường xuyên kiểm tra sổ mượn đồ dùng của giáo viên, sổ báo giảng, tử đựng dồ dùng) -Hệ thống máy tính, máy chiếu, mạng Wifi được nâng cấp, đầu tư tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hệ thống đồ dùng dạy học ảo thuận tiện và hiệu quả. -Đội ngũ giáo viên năng động, sáng tạo, có khả năng sử dụng đồ dùng khá tốt, đặc biệt là khả năng UDCNTT và dạy học. 3.3.1. Tầm quan trọng của cơ sở vật chất - trang thiết bị để các hình thức và thủ thuật vào bài trong giảng dạy bộ môn Tiếng Anh THCS có hiệu quả. Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi hứng thú cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập. Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với 14
- dạy học cá thể, dạy học hợp tác, tạo không gian thân thiện cho các hoạt động dạy học các hiệu quả. Việc sửa lỗi tiếng anh cần thiết phải đầu tư hệ thống mạng Wifi đảm bảo, các phần mềm từ điển... để giúp giáo viên sửa lỗi trực tiếp cho học sinh. Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà trường cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa. Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và bổ sung đối với trường cũ phòng học bộ môn, phòng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các phòng học bộ môn. Thực tế hiện nay thì các CSVC và trang thiết bị phục vụ cho các trường dạy học ngoại ngữ ở miềm núi vẫn còn chưa đáp ứng được với xu thế hội nhập. Do vậy ngành giáo dục cần xây dựng danh mục thiết bị tối thiểu phục vụ cho việc dạy và học ngoại ngữ trong các cấp học, trình độ đào tạo; ban hành tiêu chuẩn phòng học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và phòng đa phương tiện. Mặt khác, các địa phương cần chú trọng từng bước đầu tư mua sắm các thiết bị dạy và học ngoại ngữ phù hợp cho các cơ sở giáo dục, bảo đảm các trường có phòng học ngoại ngữ đáp ứng tốt các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Tập trung xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ về công tác sử dụng thiết bị dạy và học ngoại ngữ thiết thực và hiệu quả; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, kích thích tinh thần tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên. Bảo đảm chế độ làm việc và tổ chức các nhóm giáo viên tiếng Anh theo trường hoặc cụm trường để các giáo viên có thể liên kết, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh nhằm thực hiện có hiệu quả đề án dạy ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. 3.3.2. Kiểm tra đánh giá: Kiểm tra đánh giá là khâu quan trọng đối với mọi hoạt động dạy học. Mục đích chính của hoạt động kiểm tra đánh giá là đo lường hiệu quả của quá trình dạy học so với mục tiêu đã đặt ra ban đầu. Từ đó có thể đánh giá hiệu quả của các hình thức tổ chức dạy học sau khi thực hiện và tùy theo kết quả đạt được cụ thể mà điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Phương pháp kiểm tra đánh giá thường gắn liền với phương pháp và hình thức dạy học, do vậy đổi mới phương 15
- pháp kiểm tra đánh giá cũng đồng nghĩa với đổi mới phương pháp dạy học. Là tổ trưởng chuyên môn khối tôi thường xuyên có kế hoạch dự giờ KT, đánh giá các tiết dạy của mỗi GV( qua các đợt sinh hoạt CM, dự giờ thăm lớp...) đánh giá cao các GV sử dụng các UDCNTT vào việc sửa lỗi cho HS trong các tiết dạy.Qua đó cần động viên khuyến khích tuyên dương các GV tích cực sử dụng CNTT vào giảng dạy có hiệu quả, đồng thời yêu cầu các GVchưa nhận thức đúng về việc sửa lỗi trực tiếp trong các tiết học bằng phương tiện hiện đại, đáp ứng được xu thế GD hiện nay. 3.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 3.4.1 .Các tiêu trí đánh giá: Việc đánh giá hiệu quả kỹ năng sửa lỗi cho hoc sinh, ngoài việc đánh giá trình độ sử dụng UDCNTT của GV trong các tiết dạy thì cần đánh giá hiệu quả đạt được sau khi thực hiện các tiết dạy. Việc ứng dụng UDCNTT giúp giáo viên tổ chức tốt hoạt động dạy học, tạo hứng thú trong học tập của học sinh, góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh không còn thấy tự ti, nhút nhát khi thực hiện sai các kỹ năng của môn tiếng anh, GV cũng tự tin, đỡ vất vả hơn khi sửa lỗi cho HS. Hiệu quả của công việc “chữa lỗi” cho hai hoạt động ngôn ngữ trên sẽ cao hơn rất nhiều nếu người dạy biến việc chữa lỗi trở thành một hoạt động cuối mỗi buổi học (follow – up activity), trở thành cơ hội để học sinh có thể giao tiếp, trao đổi, cùng rút kinh nghiệm. Hãy đưa ra những nhận xét tích cực khi học viên đã nỗ lực hết sức để truyền đạt một điều gì đó mà không hề dễ dàng đối với trình độ hiện tại của các em, mặt khác phân loại lỗi sai học viên mắc phải và gợi ý cách sửa dựa trên những gì họ đã học. Hãy vận dụng những bí quyết sau để việc chữa lỗi không những trở thành một phần của bài học mà còn là một công cụ học tập hữu hiệu cho học sinh: - Hãy để việc chữa lỗi vào cuối buổi học. - Ghi lại lỗi mà nhiều học sinh cùng mắc phải. 16
- - Phân loại lỗi sai. - Gợi ý lỗi sai và để các em tự sửa; - Hỏi học sinh nhận xét về lỗi mắc phải mà tự giải thích tại sao lại mắc lỗi. Hầu hết người học đều mong muốn được giáo viên của mình chỉ ra lỗi sai. Tuy nhiên, cách mà giáo viên chỉ ra lỗi đóng vai trò quan trọng, bởi sau khi chữa lỗi, liệu các em có tiếp tục tự tin vào cách dùng ngôn ngữ của mình hay chính việc đó lại khiến các em có cảm giác bị hăm dọa. Việc chữa lỗi nếu được tiến hành như một hoạt động cuối buổi học và để tự người học chữa lỗi cho nhau đều có tác dụng khích lệ học sinh sử dụng tiếng Anh hơn là lo lắng vì đã phạm lỗi quá nhiều 3.4.2.Kết quả sau khi đánh giá: Qua quan sát học sinh trong các giờ học, tôi nhận thấy học sinh hào hứng và sôi nổi tham gia học tập, sử dụng tiếng anh, không e ngại, sợ sai. Do đó kết quả về kĩ năng nói và kĩ năng viết ở những khối lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã có sự chuyển biến tốt, cụ thể như sau: Kiểm tra kĩ năng nói: Unit 13 (English 8 ) Speak Tôi chú ý kiểm tra cách dùng động từ hiện tại và tương lai để nói về sự chuẩn cho ngày tết. Lớp Số học sinh Số học sinh tham gia nói đúng 8A 8 7(87,5%) 8D 8 6(75.0%) Việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này bản thân tôi đó đạt được một số kết quả hết sức khả quan. Trước hết những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương 17
- trình, SGK mới và tâm lý học sinh. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt, mạnh dạn trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thứ và phát triển kỹ năng. Không khí học tập sôi nổi nhẹ nhàng. Học sinh có cơ hội để khẳng định mình, không còn lúng túng, lo ngại khi bước vào giờ hoc. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1.Kết luận. Việc chữa lỗi (correction) cho học sinh là một trong những nhiệm vụ của người giáo viên dạy ngoại ngữ, khi sửa lỗi GV cần có thái độ đúng đắn, tích cực, phù hợp với học sinh mắc lỗi khi sử dụng ngôn ngữ, không quá tập trung sửa lỗi vào một học sinh hoặc một nhóm học sinh tránh tình trạng để học sinh bị “mất mặt” tạo không khí vui tươi gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh có cảm giác thoải mái nếu mắc lỗi khi sử dụng ngôn ngữ và xem việc mắc lỗi khi sử dụng ngôn ngữ là điều không thể tránh khỏi.Giúp học sinh có được dữ liệu ngôn ngữ chính xác và học Tiếng Anh qua các lỗi sai (Learning English through the errors) để năng lực Tiếng Anh của học sinh ngày một tốt hơn. 2.Kiến nghị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài và áp dụng thực tế, bản thân tôi cũng còn gặp một số khó khăn nhất định. Chính vì vậy tôi cũng xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: 1.Mặc dù giáo viên chúng tôi cùng với học sinh cũng đã tự làm một số đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy song vẫn chưa đủ. Vì vậy mong các cấp lãnh đạo cung cấp thêm cho chúng tôi một số thiết bị dạy học đặc biệt là các phần mềm mã nguồn mở với nội dung phù hợp với bộ môn để đảm bảo cho việc dạy học tiếng Anh được nâng cao hơn nữa. 2. Ban giám hiệu, tổ trưởng thường xuyên có kế hoạch kiểm tra việc mượn và sử dụng đồ dùng của giáo viên( Kiểm tra đột xuất trên lớp và sổ mượn của thư viện) khuyến khích, tạo mọi điều kiện để giáo viên sử dụng các đồ dùng hiện đại, 18
- UDCNTT vào giờ dạy, tổ chức các cuộc thi sáng tạo làm đồ dùng để bổ xung đồ dùng dạy học, phù hợp với tình hình của nhà trường, địa phương, mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn! Bình Khê ngày 18 tháng03 năm 2015 Người viết Dương Thị Phượng 19
- TÀI LIỆU THAM KHẢO - The ELTTP Methodology course (NXB Giaó dục). - SGK, SGV Tiếng Anh lớp 6, 7, 8, 9(NXB Giáo dục). - The teaching of English abroad. - The techniques of language teaching. - Teaching grammar and vocabulary. - Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn TA THCS (NXB Giáo dục). - Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kỳ III( 2004-2007- NXB Giáo dục). 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập phân môn Hát ở lớp 6
13 p | 331 | 31
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Tin học lớp 6
21 p | 139 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
16 p | 28 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 31 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp trong việc bảo quản vốn tài liệu tại thư viện trường THCS Nguyễn Lân
15 p | 97 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số dạng bài tập về muối ngậm nước
22 p | 33 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm dạy dạng bài tập đồ thị phần toán chuyển động trong Vật lí THCS
33 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 22 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kiến thức cơ bản khi tìm hiểu Nhân vật trong tác phẩm văn học
16 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số lỗi sai thường mắc và biện pháp khắc phục giúp học sinh học tốt môn nhảy xa kiểu ngồi
21 p | 30 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp trong dạy học nội dung chạy cự ly ngắn (60m) để nâng cao thành tích cho học sinh lớp 8
20 p | 71 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp khắc phục những sai sót khi giải toán liên quan đến bội và ước lớp 6
14 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ dạy Sinh học 8
30 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số bài tập nâng cao chất lượng cho đội tuyển Đá cầu khi tham gia Hội khỏe phù đổng
21 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp tổ chức trò chơi trong giờ học môn Toán lớp 8
15 p | 30 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 8 thành công trong thí nghiệm Hoá học 8
10 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm phát huy kĩ năng rèn luyện sức bền trong giờ học chạy cự li trung bình cho học sinh khối 6
16 p | 19 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn