intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Những phương pháp tạo hứng thú trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT Đông Sơn 1

Chia sẻ: | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

111
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm với mục tiêu phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ môn học và nâng cao vị trí của môn học. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Những phương pháp tạo hứng thú trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT Đông Sơn 1

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ Trường Trung Học Phổ Thông Đông Sơn 1 ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM      Tên đề tài:         NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ TRONG DẠY HỌC  MÔN GIÁO DỤC CÔNG  DÂN LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN 1                                         Người thực hiện: Th.s  Trần Thị  Hồng                                          Chức vụ :               Giáo viên                                         Đơn vị công tác : Tổ Sử ­ Địa – GDCD                                         Trường THPT Đông sơn 1 1
  2. Thanh Hoá, Năm học 2011 ­ 2012 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Bộ  môn giáo dục công dân  ở  trường THPT có vai trò và ý nghĩa rất  quan trọng. Đó là một trong những môn học góp phần tạo nên nội dung   dạy học, giáo dục trên toàn diện. Việc hình thành và giáo dục thường   xuyên phương pháp luận khoa học, đạo đức và pháp luật cho học sinh do   tất cả  các môn học, các hình thức, giáo dục của nhà trường thực hiện.  Song, chỉ có môn giáo dục công dân mới có thể giáo dục trực tiếp cho học   sinh những tri thức theo một hệ thống xác định, toàn diện. Đặc biệt, môn  giáo dục công dân ở lớp 12 chủ yếu giúp học sinh hiểu về pháp luật, sống   theo pháp luật, biết được những quyền và nghĩa vụ  cơ  bản của công dân  trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, kiến thức môn giáo dục  công dân ở lớp 12 tương đối khô khan, nhiều khái niệm, khó học, khó nhớ. Mặt khác, thực tế dạy học môn giáo dục công dân hiện nay cho thấy,  phương pháp dạy học chủ yếu là lối truyền thụ một chiều, chưa phát huy  được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Với phương pháp  dạy học như vậy, sẽ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ môn học và  làm giảm sút vị trí của môn học. Từ  những yêu cầu và thực trạng trên đã thôi thúc tôi cần phải có sự  thay đổi về  phương pháp dạy học để  tạo hứng thú học tập cho học sinh,  và đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Những phương pháp tạo hứng thú  2
  3. trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12  ở  trường THPT Đông  Sơn 1”. II. NỘI DUNG. 1.  CƠ  SỞ  LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ TRONG   HỌC TẬP.  1.1. Phương pháp tạo hứng thú trong học tập là gì? Hứng thú trong học tập phải là điều đầu tiên mà giáo viên cần đem  tới cho học sinh trong quá trình dẫn dắt học sinh tìm hiểu những kiến thức  bổ  ích. Tạo hứng thú trong học tập là tập hợp nhiều phương pháp nhằm  tạo ra sự  hưng phấn trong tư  duy, trong nhận thức theo hướng phát huy  tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 1.2. Đặc điểm của phương pháp tạo hứng thú trong học tập. ­ Phương pháp tạo hứng thú trong học tập là một hệ  thống các phương  pháp trong đó giáo viên dẫn dắt, tạo được sự  hứng khởi  ở  người học, có   tác dụng tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. ­ Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có những nét cơ bản là tạo cho   người học tự tìm tòi khoa học mà trong đó tư duy, độc lập sáng tạo vừa là  phương tiện vừa là mục đích của quá trình dạy học. ­ Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có yêu cầu cao đối với người  dạy và người học, giúp học sinh nắm chắc kiến thức, nhớ lâu.  3
  4. ­ Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có thể  áp dụng rộng rãi cho   nhiều môn học, nhiều dạng bài học ở những mức độ khác nhau. 1.3. Một số phương pháp tạo hứng thú trong học tập. Tạo hứng thú trong học tập là một hệ thống các phương pháp nhằm   tạo sự hưng phấn, phấn khích trong tư duy để từ đó phát huy tính tích cực,  tự  giác, độc lập và sáng tạo trong học tập của học sinh. Trong khuôn khổ  sáng kiến kinh nghiệm này tôi không thể  nêu lên tất cả các phương pháp,   mà chỉ  nêu một số  phương pháp đặc trưng nhất, phù hợp nhất với giảng  dạy môn giáo dục công dân lớp 12, đó là các phương pháp sau: ­ Sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động. ­ Kể những câu chuyện gần gũi trong cuộc sống. ­ Phương pháp xử lý tình huống kết hợp với tiểu phẩm. 1.4. Vị trí, vai trò của phương pháp tạo hứng thú trong học tập trong   dạy học giáo dục công dân lớp 12. ­ Vị trí và nhiệm vụ của môn giáo dục công dân lớp 12. + Vị trí: Cùng với môn học khác, môn giáo dục công dân lớp 12 góp phần   đào tạo ra những con người lao động mới, có tri thức khoa học, có đạo   đức, có năng lực hoạt động thực tiễn, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, có   ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, với gia đình và với chính bản thân  mình. Môn giáo dục công dân lớp 12 góp phần hình thành và phát triển  nhân cách toàn diện cho học sinh. + Nhiệm vụ: Môn giáo dục công dân lớp 12 có nhiệm vụ  giáo dục trực   tiếp cho học sinh kiến thúc về pháp luật một cách tương đối có hệ thống,  toàn diện, giúp học sinh hiểu rõ bản chất và vai trò của pháp luật đối với   sự phát triển của công dân, đất nước và nhân loại; hiểu rõ quyền và nghĩa  vụ cơ bản của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. ­ Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 12 ở trường THPT. 4
  5. Quá trình dạy học về  bản chất là quá trình nhận thức của học sinh.   Quá trình nhận thức của học sinh về  cơ  bản diễn ra theo quy luật nh ận   thức là: “ Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng, từ  tư  duy trừu   tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý,  nhận thức hiện thực khách quan”. ( V.I Lênin, toàn tập, tập 29 trang 152 –   153) Đối với học sinh lớp 12 bậc PTTH  ở vào lứa tuổi 17, 18 các em đã   tương đối trưởng thành về  mặt nhận thức. Đặc điểm tâm sinh lý của các   em là thích những gì mới có liên hệ thực tế, kiến thức được tiếp thu phải   mang đầy màu sắc và có tính lung linh  ước mơ. Bên cạnh đó, hoạt động  lại phải tạo được môi trường để  các em tự  khẳng định mình. Đặc trưng  nổi bật của các em là: yếu tố  về  niềm tin, ý thức về  đạo đức không chỉ  thể hiện ở khối lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ  yếu ở  tính tích  cực độc lập tư  duy, thái độ  đối với công việc, với những định hướng giá   trị  tình cảm, những hứng thú học tập của học sinh. Vì vậy, đối với học  sinh lớp 12 ở trường THPT giáo viên cần phát huy tính tích cực nhận thức,   tránh áp đặt trong giáo dục. Bởi vì, đối với các em, không dễ  gì các em   chấp nhận ngay những lời khẳng định của Thầy mà các em thường đặt ra  câu hỏi: nó có thật đúng hay không? Nếu đúng thì đúng ở điểm nào? .... Vì  ngoài học ở trường ra, các em đã có sự nhận thức trong cuộc sống thực tế  xung quanh mình. Nếu giáo viên buộc học sinh chấp nhận ngay những  điều mà mình giáo dục qua nội dung bài giảng thì tức là bắt học sinh tiếp  thu một cách thụ  động, giờ  học sẽ  tẻ  nhạt, khô cứng, không gây được   hứng thú cho học sinh. ­ Vai trò của phương pháp tạo hứng thú trong việc dạy học môn giáo dục   công dân lớp 12. Tạo hứng thú trong học tập sẽ giúp người học tham gia vào các hoạt   động học tập  ở  mức độ  cao. Người học không học thụ  động, chỉ  nghe  5
  6. thầy giảng và truyền đạt kiến thức mà học tập tích cực bằng hành động  của chính mình. Những trí thức trong môn giáo dục công dân lớp 12 chủ yếu là những  nội dung cơ  bản của pháp luật nên rất khô khan, khó nhớ, khó dung nạp.   Vì vậy, tạo hứng thú trong học tập sẽ  giúp học sinh đỡ  mệt mỏi, nhàm  chán, học sinh sẽ phấn khởi tham gia vào hoạt động như  là một quá trình  tự học, tự đào tạo. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa mức độ lưu giữ thông tin của   học sinh với các phương pháp dạy học như sau: Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa mức độ lưu giữ thông tin của học sinh  đối với các phương pháp dạy học: Phương pháp Độ lưu trữ thông tin Nghe thuyết trình 5% Đọc 10% Nghe nhìn 20% Trình diễn 30% Nhóm thảo luận 50% Thực hành bằng cách làm thực tế 75% Xử   lý   tình   huống   kết   hợp   với   tiểu  90% phẩm Nguồn: Theo nghiên cứu được tiến hành tại phòng đào tạo quốc gia (54­ 129) Như vậy: Những phương pháp như thực hành bằng cách làm thực tế,  đặc biệt là phương pháp để  học sinh tự  xử  lý tình huống sẽ  rất có hiệu  quả với sự lưu trữ thông tin của học sinh. Tạo hứng thú trong học tập môn giáo dục công dân lớp 12 sẽ khuyến  khích lòng say mê, tính tự  giác, chủ  động trong học tập của người học,   giúp người học phát triển các kỹ năng tư duy và kỹ năng giao tiếp cơ bản,   6
  7. đó cũng là những kỹ  năng cần thiết để  người học trở  thành người lao  động có hiệu quả, có khả năng học suốt đời trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 2. THỰC TRẠNG VỀ DẠY VÀ HỌC MÔN GDCD LỚP 12 . 2.1. Thực trạng về học tập môn giáo dục công dân lớp 12. Qua kết quả kiểm tra, thi cử: Kết quả điểm tổng kết kỳ I năm học 2011 – 2012 của tổng số 247 em  học sinh khối 12 đạt được như sau:   Bảng 2.1:               Xếp loại môn GDCD học kỳ I năm học 2011 – 2012 của 6 lớp  12. Số lượng học  Xếp loại Tiêu chuẩn phân loại Tỉ lệ % sinh Loại giỏi Từ 8.0 trở lên 3 1,2 Loại khá Từ 6.5 đến 7.9 150 60,7 Loại   trung  Từ 5.0 đến 6.4 89 36,0 bình Loại yếu kém Dưới 5.0 5 2,0 Qua bảng xếp loại học tập môn giáo dục công dân ở lớp 12 ở Trường   THPT Đông Sơn 1 ta thấy: ­ Số học sinh đạt loại giỏi trong học tập môn giáo dục công dân rất ít chỉ  có 1,2%. ­ Số  học sinh xếp loại trung bình môn giáo dục công dân cò tương đối  nhiều, chiếm 36% ­ Đặc biệt số học sinh xếp loại yếu, kém trong môn giáo dục công dân vẫn  còn, chiếm 2%. ­ Mức độ hứng thú học tập môn giáo dục công dân. Bảng 2.2:  Điều tra mức độ hứng thú học tập môn GDCD Số học  Có thích học môn GDCD Không thích học môn GDCD Không  7
  8. Vì  Vì  Vì  môn  Vì  thầy  thầy  học  Lí  Cộng tỉ  khó  Lí  Cộng tỉ  HS được  giảng  giảng  bổ  do  lệ học,  do  lệ trả lời điều tra rất  không  ích,  khác (%) khó  khác (%) hấp  hấp  cần  nhớ dẫn dẫn thiết Lớp 12A7:  10 5 0 15=37,5 20 5 0 25= 62,5 40 HS Lớp 12A8:  42 HS 11 4 1 16=38 21 3 2 26= 62 Lớp 12A9:  39 HS 13 3 0 16 =41 15 3 5 23 =59 Lớp12A10 :  14 4 0 18 =45 16 4 2 22 =55 40 HS Lớp12A11 :  12 2 0 14 =37,8 14 3 6 23 = 62,2 37 HS Lớp12A12 :  13 4 1 18=36,7 20 4 7 31 =63,3 49 HS Tổng:24 97 = 39% 150 = 60,7% 7 Qua kết quả điều tra, chúng ta nhận thấy: Có 39% học sinh cảm thấy thích học môn giáo dục công dân. Trong  số  này có 22% số  học sinh thích học môn GDCD vì lí do giáo viên giảng   bài hấp dẫn. Có 60,7% số học sinh không thích học môn GDCD . Trong số này có  22/150 = 14,6%  cho rằng vì  giáo viên giảng bài khong hấp dẫn và  có  106/150 = 70% học sinh cho rằng vì môn GDCD lớp 12 khó học, khó nhớ. 8
  9. Như  vậy: Qua kết quả  điều tra thu được và qua trò chuyện, tâm sự  với học sinh, tôi nhận thấy: ­ Đa số  học sinh chưa nhận thức đúng về  vị  trí, vai trò và tầm quan trọng  trong việc học tập môn GDCD, nhiều học sinh cho rằng đó chỉ là môn học  phụ, học cũng được, không học cũng được. ­ Đa số học sinh còn chưa hứng thú trong việc học tập môn GDCD, chiếm   60,7%. Thậm chí còn có một số học sinh chán học môn này. ­ Có hai nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng học sinh không thích học  môn GDCD là do nội dung môn học khó học, khó nhớ và do thầy giảng bài   không hấp dẫn. Do nhận thức chưa đúng vị trí, vai trò của môn GDCD và do giáo viên  giảng bài không hấp dẫn lại thêm nội dung môn học khó học, khó nhớ dẫn  đến một thực trạng phổ biến là học sinh chưa thích học môn GDCD và do  vậy kết quả xếp loại học tập cũng chưa cao. Đa số học sinh trường THPT   Đông Sơn 1 chỉ xếp loại khá và trung bình, chiếm 96,7% số học sinh. 2.2. Thực trạng việc dạy học của giáo viên. Đi  sâu   tìm   hiểu  về   các  phương  pháp  dạy  học  của  giáo  viên  môn  GDCD tôi nhận thấy còn nhiều hạn chế sau: Thứ nhất: Giáo viên chưa chú ý đến việc tìm hiểu thật kỹ nội dung   để từ đó lựa chọn phương pháp phù hợp. Việc lựa chọn phương pháp tùy  tiện, không có cơ  sở  khoa học, chưa thấm nhuần tư tưởng. Phương pháp   là hình thức vận động của nội dung việc sử dụng các phương pháp không  theo một quy trình chặt chẽ, trên cơ sở khoa học. Với nội dung có thể vận  dụng. Phương pháp dạy học tích cực như  trực quan, thảo luận, xử lý tình   huống, kết hợp tiểu phẩm ... nhưng phần lớn giáo viên vẫn chỉ  sử  dụng   phương pháp thuyết trình là chủ yếu. 9
  10. Thứ  hai: Giáo viên chuẩn bị  bài lên lớp còn sơ  sài, chưa đầu tư  thời  gian, công sức và tâm huyết vào khâu chuẩn bị  này nên việc áp dụng các  phương pháp để tạo hứng thú cho học sinh còn chưa được thường xuyên. Thứ ba: Qua việc dự giờ của một số giáo viên, tôi nhận thấy: Về  cấu trúc của giờ  học, đa số  giáo viên đều làm theo một khuôn  mẫu, một trình tự  nhất định ( gọi là các bước lên lớp),  ổn định tổ  chức  ( hỏi xem có em nào vắng mặt không?), kiểm tra bài cũ ( Từ 1 đến 2 em),   sau đó thầy giảng bài mới theo trình tự nội dung sách giáo khoa, cuối cùng  là củng cố, dặn dò. Với phương pháp làm việc như vậy, làm cho học sinh   khi bước vào đầu giờ học đã biết thầy làm những gì. Đó là điều khô cứng,   máy móc, làm cho học sinh thiếu hứng thú trong học tập, vì các em không   thấy điều gì mới lạ, mà những điều mới lạ mới kích thích nhận thức, mới  thu hút sự chú ý của các em. Những hạn chế trên đã không tạo ra được sự hứng thú trong học tập,  ảnh hưởng đến tính tích cực nhận thức của học sinh. Và do đó giảm chất  lượng học tập bộ môn. Như  vậy, chúng ta có thể  khẳng định: Vì sao chất lượng giáo dục   chưa tốt. Đó là vì trình độ của giáo viên chưa đủ tốt để dạy tốt ... Ngoài ra,  còn nhiều nguyên nhân khác nhau nữa, nhưng phải thấy cái chủ yếu, cái có  tác dụng quyết định nhất vẫn là đội ngũ giáo viên chưa đủ trình độ về mọi   mặt: Kiến thức, phương pháp, kinh nghiệm và lòng nhiệt tình yêu nghê. 3.   CÁCH   THỰC   HIỆN   MỘT   SỐ   PHƯƠNG   PHÁP   TẠO   HỨNG   THÚ  TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD. 3.1. Sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động. Bước 1: Chuẩn bị. ­ Giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy và các sách hướng dẫn giảng  dạy. 10
  11. ­ Giáo viên chuẩn bị những hình ảnh trực quan sẽ đưa vào bài học cho phù  hợp với nội dung. Để  có hình  ảnh, giáo viên hãy truy cập mạng Internet sưu tầm hình  ảnh  trên các trang báo, liên hệ với tòa soạn báo tuổi trẻ, báo an ninh để xin hình   ảnh tư  liệu. Giáo viên có thể  tự  chụp những hình  ảnh về  cuộc sống đời  thường. Bước 2: Trình diễn các hình ảnh trực quan. ­ Giáo viên phải nắm chắc kỹ thuật trình diễn. Nếu là tranh  ảnh minh họa bằng giấy thì đơn giản hơn, nhưng với  những hình ảnh sử dụng ở máy tính thì giáo viên nắm chắc khâu kỹ thuật  để trình chiếu. ­ Khi trình diễn các hình ảnh trực quan, giáo viên nên kết hợp với các câu  hỏi kèm theo để  học sinh vừa quan sát vừa suy nghĩ tìm tòi kiến thức  ẩn  chứa trong đó. Bước 3: Học sinh xem hình ảnh trực quan và suy nghĩ trả lời: ­ Giáo viên phải dành một khoảng thời gian nhất định để  học sinh cả  lớp  có thể tiếp cận được với các hình ảnh trực quan. ­ Khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên hãy tỏ  ra hài lòng đối với các câu  trả lời của các em và luôn luôn khen ngợi các câu trả lời đúng. Học sinh sẽ  cảm thấy tự tin hơn khi giáo viên cười hay có lời khen. Nếu câu trả lời bị  sai, giáo viên nên nêu ra lý do tại sao lại sai ( mà không vứt bỏ câu trả lời   này), sau đó đặt câu hỏi khác để đưa học sinh trở lại đúng hướng. Bước 4: Kết luận Giáo viên phải biết thu về những hình ảnh trực quan đúng lúc và biết  kết luận về những hình  ảnh đã đưa ra, thống nhất lại nội dung (chốt lại  vấn đề). Đây là giai đoạn cuối rất quan trọng để  học sinh căn cứ  vào đó   điều chỉnh, bổ sung thêm kiến thức mà mình đã suy nghĩ. 3.2. Kể những câu chuyện gần gũi trong cuộc sống. 11
  12. Bước 1: Chuẩn bị. ­ Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy. ­ Giáo viên chuẩn bị sẵn sàng những câu chuyện mà mình sẽ kể. Những câu chuyện minh họa cho bài giảng pháp luật rất nhiều. Giáo   viên có thể sưu tầm trên mạng, trên sách báo, đặc biệt là báo tuổi trẻ, báo   an ninh. Những câu chuyện mà giáo viên được chứng kiến trong trường  lớp, trong cuộc sống. Bước 2: Giáo viên kể chuyện minh họa cho học sinh nghe. ­ Giáo viên có thể  đọc một câu chuyện trong báo đã chuẩn bị  hoặc tự  kể  bằng ngôn ngữ của mình. Ví dụ: ­ Trong bài 2: Thực hiện pháp luật – SGK lớp 12 ở mục: Các loại vi phạm   pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Giáo viên có thể  kể  những câu chuyện   có thật về hành vi vi phạm hình sự như hành vi xâm phạm tính mạng ( vụ  án Lê Văn Luyện); những vi phạm hành chính như  những câu chuyện về  buôn bán hàng giả; điều khiển giao thông vi phạm quy định về an toàn giao   thông. ­ Trong bài 6, bài 7, bài 8: có rất nhiều câu chuyện, nhiều tình huống đời  thật giáo viên có thể  kể  cho học sinh nghe. Đó là những câu chuyện về  quyền bất khả xâm phạm về  thân thể, quyền bất khả  xâm phạm về  chỗ  ở.... Bước 3: Kết luận. Qua những câu chuyện đã kể, giáo viên phải biết cùng học sinh nhận   xét, chốt lại vấn đề  đó chính là những nội dung bài học mà giáo viên cần   chuyền tải đến học sinh. 3.3. Phương pháp xử lý tình huống kết hợp với tiểu phẩm. Đây là một phương pháp yêu cầu nhiều thời gian và công sức của  giáo viên và học sinh, nhưng nếu chuẩn bị  tốt thì hiệu quả  của phương   12
  13. pháp này rất cao gây được hứng thú cao độ cho học sinh, vì ở học sinh lớp  12 các em rất thích được trình diễn, được tự  khẳng định mình. Đây là   phương pháp “ sân khấu” hóa giờ  học, trong đó học sinh hóa vai vào các  nhân vật trong một tình huống cụ  thể. Tình huống  ở  đây là một kịch bản   nhỏ do giáo viên hoặc chính học sinh soạn sẵn. Bước 1: Chuẩn bị. ­ Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một giáo  án thật tốt. Phải nghiên cứu kỹ nội dung để lựa chọn những tình huống có  thể xây dựng được một kịch bản nhỏ. Kịch bản này, theo tôi giáo viên nên phác thảo ý tưởng và phần mở  đầu, phần còn lại nên để  học sinh tự  thảo luận trong nhóm và xây dựng  tiếp, có như  vậy mới phát huy được cao độ  óc sáng tạo và tính tự  khẳng   định mình của học sinh. Ví dụ:  Khi dạy học bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật  ở  mục 2.   Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. ­ Nội dung của phần này là giúp học sinh hiểu rõ: Công dân dù ở địa vị nào   làm bất cứ nghề gì khi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp  lý theo quy định của pháp luật. Khi công dân vi phạm pháp luật với tính  chất và mức độ  vi phạm như  nhau, trong một hoàn cảnh như  nhau thì từ  người giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước cho đến người lao động  bình thường đều phải chịu trách nhiệm pháp lí như nhau, không phân biệt   đối xử. ­ Với nội dung như  trên, giáo viên có thể  xây dựng một tiểu phẩm nhỏ  như sau:  Nhân vật:  Công an  Công dân 1: là người lao động bình thường  13
  14. Công dân 2 là cháu của một cán bộ cấp tỉnh. + Nội dung kịch bản: Cả 2 công dân đều vượt đèn đỏ ở Ngã tư Phú Sơn và  bị công an mời về bốt điều khiển ở đó để giải quyết. Công an đã làm đúng   nhiệm vụ  của mình và yêu cầu cả  2 công dân phải nộp tiền phạt vì vi  phạm luật an toàn giao thông. Tình huống xảy ra là: Công dân 1 nộp phạt, còn công dân 2 không nộp  phạt, gọi điện cho chú là cán bộ cấp tỉnh để xin không bị phạt, người chú  đó gọi điện lại cho công an. + Người chú đó nói gì với công an? + Công an đó đã xử lý như thế nào? ­ Phần nội dung còn lại đó giáo viên chia lớp thành 2 tổ, mỗi tổ  tự  thảo   luận, đưa ra phương án giải quyết của công an và sau đó tự  cử  3 bạn lên   diễn toàn bộ tiểu phẩm. Với nội dung tiểu phẩm này, giáo viên nên chuẩn bị mượn trước một   bộ quần áo công an, một còi để học sinh diễn. ­ Hoặc cũng với nội dung bài học trên giáo viên có thể xây dựng một kịch   bản có nội dung Tòa án nhân dân xét xử  vụ  án Lương Cao Khải, nguyên  phó vụ  2 Thanh tra chính phủ  và đồng phạm liên quan 4 dự  án của tổng  công ty dầu khí Việt Nam, Lương Cao Khải bị phạt 17 năm tù giam, ... Bước 2: Xử lý tình huống và diễn tiểu phẩm. Giáo viên cung cấp các thông tin để  học sinh hiểu nội dung của tình   huống và chia lớp thành 2 nhóm để các em tự diễn theo sáng tạo của mỗi  nhóm. Ví dụ:  Ở tình huống đã nêu các em rất hào hứng khi được tự diễn và còn rất  sáng tạo trong xử  lý tình huống diễn xuất vai công an. (ở  lớp đã thực  nghiệm, học sinh diễn vai công an đã nói rất rõ ràng và dứt khoát với ông   chú của công dân 2 là: “ Anh  ạ, anh  ấy (người vi phạm – công dân 2) là  14
  15. cháu của anh còn tôi, đang làm nhiệm vụ  và tôi là cháu Bác Hồ!” sau đó  cúp máy và vẫn yêu cầu người vi phạm nộp phạt giống công dân 1.) Bước 3. Kết luận. ­ Sau khi các tổ diễn xuất để xử lý tình huống xong giáo viên phải tổ chức   cho lớp thảo luận nhanh và đánh giá cách giải quyết tình huống mà học  sinh đã thực hiện. ­ Cuối cùng học sinh phải hiểu được nội dung của bài học thông qua tiểu  phẩm một cách rõ ràng, tường tận. Các em sẽ có niềm vui của sự tự mình  khám phá, tự mình thể hiện. 4. HIỆU QUẢ. Trong năm học 2011 – 2012 tôi được nhà trường phân công giảng dạy   11 lớp, trong đó có 6 lớp 12 với 247 học sinh. Vì vậy, tôi đã có nhiều điều  kiện để làm thực nghiệm và có lớp để đối chứng kết quả. ­ Với những lớp đã được vận dụng một số  phương pháp tạo hứng thú  trong học tập cho học sinh, kết quả thu được rất khả quan. + Học sinh học tập với không khí sôi nổi, hào hứng, tình trạng chán học,   thụ  động không còn nhiều đa số  các em đều tham gia tích cực vào những  hoạt động mà giáo viên đưa ra. + Kết quả  học tập cũng thu được tốt hơn, tất nhiên giáo viên phải có  phương pháp kiểm tra, đánh giá theo tình thần đổi mới. + Bản thân chính giáo viên cũng thấy vui hơn, yêu nghề  và yêu học sinh  hơn vì được gần gũi, được cùng nhau chia sẻ  trong các câu chuyện, các   tình huống của bài học. 4.1. Tiến hành thực nghiệm. Đối tượng thực nghiệm: Lớp 12A9, 12A10, 12A11 Nội dung thực nghiệm: Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản 15
  16. Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ Lớp đối chứng: 12A7, 12A8, 12A12 4.2. Kết quả thực nghiệm. ­ Kết quả  xếp loại học kỳ  I của 3 lớp thực nghiệm cao h ơn 3 l ớp  đối   chứng. Cụ thể: ở lớp thực nghiệm có 3 học sinh được xếp loại giỏi môn GDCD,  không có học sinh xếp loại yếu kém, số học sinh xếp loại khá chiếm hơn  70%. Ở các lớp đối chứng, không có học sinh nào xếp loại giỏi, vẫn còn 5  em xếp loại yếu kém và số học sinh xếp loại khá chỉ chiếm 50%. Đặc biệt, sang học kỳ  II của năm học 2011 – 2012,  ở  các lớp thực   nghiệm, kết quả bài kiểm tra 15 phút và bài kiểm tra 1 tiết đều rất cao. Cụ thể: Ở lớp 12A9 bài kiểm tra 1 tiết có 28/39 học sinh được điểm   từ 8 ­> 10, không có học sinh bị điểm dưới trung bình. Trong khi đó,  ở  lớp đối chứng như  12A8, cũng bài kiểm tra 1 tiết,   không có học sinh nào được điểm 8 trở lên, ở bài kiểm tra 15 phút vẫn còn  8/42 học sinh bị điểm dưới trung bình. Như  vậy: Sau khi thực nghiệm và có kiểm tra, đánh giá kết quả, so  sánh với lớp đối chứng và so sánh kết quả  của lớp thực nghiệm trước và   sau khi vận dụng phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh, kết quả  đã chứng minh được tính hiệu quả  của việc vận dụng một số  phương   pháp nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Tính hiệu quả  không chỉ  thể  hiện  ở  kết quả  điểm số  các bài kiểm tra cao hơn mà còn thể  hiện  ở  việc người học dễ dàng nắm vững kiến thức đã được học, khắc sâu kiến  thức trong trí nhớ vì những kiến thức này chủ yếu là do người học đã tích  cực, chủ động, sáng tạo, và có hứng thú trong quá trình học tập. Vận dụng   một số  phương pháp tạo hứng thú vào giảng dạy còn giúp học sinh rèn  luyện được một số kỹ năng sống cơ bản như hợp tác, làm việc theo nhóm,  16
  17. thể hiện quan điểm ... từ đó người học có thái độ yêu mến, thích học môn  GDCD. 5. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG. Để  vận dụng được một số  phương pháp gây hứng thú học tập vào  dạy môn GDCD lớp 12 cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là tất  cả  các yếu tố  tham gia vào quá trình dạy học,  ở  đây tôi chỉ  nêu ra những   điều kiện thật cần thiết đối với giáo viên, học sinh, chương trình, SGK và  thiết bị dạy học. 5.1. Đối với giáo viên. Để  vận dụng tốt các phương pháp gây hứng thú cho người học môn  GDCD, điều kiện không thể  thiếu được và vô cùng quan trọng đối với  giáo viên đó là việc chuẩn bị giáo án. Nếu giáo án được chuẩn bị kỹ càng,   được đầu tư nhiều công sức thì sẽ quyết định phần lớn đến hiệu quả của  giờ  dạy học. Nếu giáo án chuẩn bị  sơ  sài thì khi lên lớp giáo viên dạy sẽ  khó hấp dẫn, không gây được hứng thú học tập cho học sinh. Muốn vận dụng được phương pháp tạo hứng thú học tập cho học   sinh thì giáo viên soạn giáo án phải thể  hiện được rõ ràng từng nội dung   đơn vị kiến thức của bài học tương ứng với nó là từng hoạt động của giáo   viên và hoạt động của học sinh. 5.2. Đối với học sinh. Để vận dụng tốt phương pháp gây hứng thú học tập cho học sinh thì  chính học sinh phải có ý thức học tập một cách tự  giác, tích cực và sáng  tạo. Sẽ không thể vận dụng được tốt nếu học sinh học tập một cách thụ  động, giáo viên bảo như thế nào thì miễn cưỡng làm theo mà không động  não, không suy nghĩ. Bản chất của quá trình dạy học là biến quá trình đào   tạo thành quá trình tự đào tạo, quá trình truyền thụ kiến thức của giáo viên   thành quá trình tự học của học sinh. Học sinh phải chủ động tiếp thu kiến  thức, phải có nhu cầu muốn tìm hiểu, tìm tòi những kiến thức mới.  17
  18. Xét đến cùng, học sinh mới là chủ  thể  của quá trình tiếp nhận kiến  thức mới. 5.3. Chương trình và SGK. Từ  năm học 2011 – 2012, Bộ  Giáo dục đào tạo đã có công văn về  điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng tinh giảm các nội dung, để  giáo  viên và học sinh dành thời gian cho các nội dung khác. Đây là điều kiện rất   thuận lợi để giáo viên và học sinh có nhiều thời gian hơn cho việc áp dụng   một số phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh như đã trình bày. 5.4. Thiết bị dạy học. Thiết bị  dạy học là điều kiện không thể  thiếu được khi vận dụng  những phương pháp dạy học tích cực. Khi giáo viên muốn trình chiếu các  hình   ảnh   để   phục   vụ   bài   giảng   nhất   thiết   phải   có   máy   chiếu,   những  phương tiện này hiện nay  ở  trường THPT Đông Sơn 1 chỉ  có  ở  một số  phòng học, thường là dành cho các buổi thao giảng, còn ở tất cả các phòng  học bình thường đều không có, điều này là một khó khăn lớn khi giáo viên  muốn vận dụng phương pháp dạy học có sử  dụng phương tiện, thiết bị  dạy học. 18
  19. III. KẾT LUẬN. Tạo hứng thú học tập cho học sinh nói chung và trong môn GDCD,  nói riêng là việc làm mang lại ý nghĩa và hiệu quả cao trong công tác giảng  dạy.   Những   hình   ảnh   thuyết   phục,   những   tiểu   phẩm   hay,   những   câu  chuyện pháp luật gần gũi với cuộc sống sẽ  mang lại cho học sinh không  khí học tập vui vẻ, sôi nổi và để lại trong tâm trí các em nhiều đáng nhớ,  độ lưu giữ thông tin cao và lâu. Trong thực tế dạy học của mình, tôi đã cố  gắng để làm cho bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn và học sinh do đó  học tập cũng hứng khởi hơn, kết quả học tập cũng được nâng cao hơn. Việc vận dụng được một số phương pháp dạy học nhằm tạo ra hứng  thú học tập cho học sinh, cũng không phải là khó khăn lắm đối với giáo  viên, chỉ cần chúng ta yêu nghề, yêu học sinh và đầu tư thời gian, công sức   vào là có thể làm được. 19
  20. Do thời gian và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên sáng kiến kinh  nghiệm này còn những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong sự  đóng góp ý  kiến của các thầy cô và các bạn đọc để  chất lượng dạy học  ở  trường   THPT nói chung và bộ  môn GDCD nói riêng ngày càng tốt hơn, đáp  ứng  được nhu cầu đào tạo con người mới trong thời đại ngày nay. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1