Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 5
lượt xem 9
download
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5 tự tin, tự vươn lên trong học tập, biết tự đặt ra nhiệm vụ học tập và có khả năng tự học để hoàn thành môn học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 5
- PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn sang kiên: ́ ́ Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách các em. Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng bởi vì: Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc Trung học. Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có được phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong học tập và trong đời sống . Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập Toán; góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng ứng xử và giải quyết những tình huống nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống; nhờ đó mà hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động mới trong xã hội hiện đại Cũng như các môn học khác, muốn học tốt môn toán lớp 5, trước hết mọi học sinh phải có lòng say mê, hứng thú học tập. Bên cạnh đó giáo viên đặc biệt chú ý đến tâm sinh lí của học sinh cũng như khả năng tiếp thu kiến thức của các em. Do vậy giáo viên ngay từ những ngày đầu năm học giáo viên phải hệ thống lại các kiến thức và kĩ năng đã học. Từ đó tạo tiền đề để các em tiếp nhận những kiến thức mới của năm học này. Tuy nhiên trong thực tế, mỗi học sinh có trình độ nhận thức không giống nhau dẫn đến việc tiếp thu kiến thức không đồng đều. Trong lơp đ ́ ược phân thanh nhiêu ̀ ̀
- ́ ượng, trong đo cân quan tâm nhât la nh đôi t ́ ̀ ́ ̀ ưng hoc sinh ch ̃ ̣ ưa hoan thanh môn hoc. Vì ̀ ̀ ̣ thế, để chất lượng giảng dạy môn Toán được tốt, đòi hỏi giáo viên đứng lớp phải quan tâm và phải có biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng học sinh đê giup cac ̉ ́ ́ ̣ em hoan thanh môn hoc. Trong th ̀ ̀ ực tế giảng dạy lớp 5, tôi đã nghiên cứu thực hiện ́ Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa và đã đúc kết thành sang kiên: “ ́ hoan thanh môn Toán l ̀ ̀ ớp 5”. 2. Điêm m ̉ ơi cua sang kiên ́ ̉ ́ ́: ́ ́ Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoan thanh môn Toán Sang kiên “ ̀ ̀ lớp 5” xuât phat t ́ ́ ừ việc đổi mới đánh giá học sinh theo TT30/2014/TTBGDĐT ngày 28/8/2014 vê Qui đ ̀ ịnh đánh giá học sinh tiểu học. Sáng kiến đưa ra nhưng giai phap ̃ ̉ ́ ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ nhăm giup hoc sinh hoan thanh môn hoc ma lâu nay giao viên th ̀ ́ ường quen goi hoc ̣ ̣ sinh yêu kem. ́ ́ Sang kiên có ý nghĩa thi ́ ́ ết thực và mang tính thực tiễn cao, đáp ứng được nhu cầu của giáo viên trong giai đoạn giáo dục hiện nay. Nó giúp häc sinh cha hoµn thµnh m«n to¸n lớp 5 tự tin, tự vươn lên trong học tập, biết tự đặt ra nhiệm vụ học tập và có khả năng tự học đê hoan thanh môn hoc. ̉ ̀ ̀ ̣ Đông th ̀ ơi đ ̀ ề cao tính tự chủ, tự lập cua ch ̉ ủ thể của học sinh, người thầy chỉ làm vai tro h ̀ ướng đạo, áp dụng tính ưu việt của mô hinh VNEN trong qua trinh d ̀ ́ ̀ ạy học phat huy t ́ ối đa tính tích cực, ̣ sang tao, ch ́ ủ động của người học. 3. Phạm vi ap dung: ́ ̣ Sang kiên áp d ́ ́ ụng trong thời gian tư tháng 9 năm 2014 đ ̀ ến tháng 3 năm 2015 vơí ́ ượng học sinh lớp 5 tôi đang day đôi t ̣ ở đơn vị công tác. Vơi sang kiên nay, tôi không ́ ́ ́ ̀ có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình ̉ ̣ ̣ vào công tác giang day hoc sinh, giup cac em hoan thanh môn Toan theo h ́ ́ ̀ ̀ ́ ương đôi ́ ̉ mơi đanh gia hoc sinh tiêu hoc. Tôi mong mu ́ ́ ́ ̣ ̉ ̣ ốn sẽ có được những giải pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn day hoc nhăm nâng cao chât ̣ ̣ ̀ ́ lượng giao duc ́ ̣ ở trương va trong huyên nha. Đi ̀ ̀ ̣ ̀ ều này càng có ý nghĩa nếu sang kiên ́ ́ ̉ ̀ ̣ giúp học sinh đat đ co tinh kha thi thi viêc ́ ́ ̣ ược yêu câu vê chuân kiên th ̀ ̀ ̉ ́ ức ki năng môn ̃
- ̣ ̣ ̉ ̣ ̣ ợi bởi vi đây la môn hoc công cu đê Toan cang đat hiêu qua. Hoc sinh cang thuân l ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ̣ ̣ ̉ giuṕ ́ ̀ ́ ́ ́ ớp trên va trong cuôc sông cua minh. cac em co hanh trang quy bau lên cac l ́ ̀ ̣ ́ ̉ ̀
- PHÂN II ̀ : PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TIẾP SỨC HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TOÁN LỚP 5: 1. Thuận lợi: Cơ sở vật chất cua nha tr ̉ ̀ ương ngày càng tăng tr ̀ ưởng phuc vu cho viêc day hoc ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̉ ̉ ̉ ơi. đam bao theo đôi m ́ Đội ngũ giáo viên phần đa trẻ, khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách nhiệm với nhiệm vụ được phân công. ́ ̣ ̉ ực trong hoc tâp. Viêc đanh gia theo Đa sô hoc sinh chăm ngoan, nô l ̣ ̣ ̣ ́ ́ thông tư ̣ ợi cho hoc sinh châm tiên bô, cac em không con tâm ly t 30/2014/TTBGDĐT thuân l ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̀ ́ ự ̣ ̉ ̀ ́ ự cô găng v ti, măc cam ma co s ́ ́ ươn lên. Cung v ̀ ơi s ́ ự hợp tac giup đ ́ ́ ỡ cua cac ban ̉ ́ ̣ ̣ ́ ́ ức cua giao viên cac em đa co s trong nhom, cac biên phap tiêp s ́ ́ ̉ ́ ́ ̃ ́ ự tiên bô. ́ ̣ Phụ huynh đã có sự nhận thức sâu sắc đến công tác giáo dục con em trên địa bàn. 2. Khó khăn: a/Về học sinh: ̣ ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ̣ Môt sô hoc sinh kha năng tiêp thu bai con châm, vân dung th ́ ̀ ̀ ực hanh luyên tâp ̀ ̣ ̣ ̀ ̣ con han chê nên ch ́ ưa hoan thanh môn hoc. ̀ ̀ ̣ Tính tự giác của môt sô h ̣ ́ ọc sinh trong học tập chưa cao, chưa nhận thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập, các em còn ham chơi, lười học. Trong một lớp học có học sinh chưa hoan thanh d ̀ ̀ ẫn đến tiến đô h ̣ ọc tập ca l ̉ ơṕ chậm lai, giao viên danh nhiêu th ̣ ́ ̀ ̀ ơi gian kem căp làm ̀ ̀ ̣ ảnh hưởng đến những học sinh khác. ̣ ̣ Theo quy đinh hiên nay giáo viên không ra bài tập về nhà cho học sinh, nên việc tự học bài ở nhà của một số học sinh hâu nh ̀ ư không có, nếu có thì cũng chỉ học qua loa. b/Về phía giáo viên: Giáo viên ít có kinh nghiệm trong việc vận dụng mô hình trường học mới nên vẫn con lung tung ̀ ́ ́ trong công tác giảng dạy. Khi lên lớp giáo viên thường quen sử
- dụng các phương pháp dạy học truyền thông, vi ́ ệc vận dụng phương pháp đổi mới trong dạy học vân ch ̃ ưa linh hoat. ̣ Giao viên ch ́ ưa co ki năng đanh gia hoc sinh theo ́ ̃ ́ ́ ̣ thông tư 30/2014/TT BGDĐT. c/Về phụ huynh học sinh Một số p hụ huynh học sinh không quan tâm đến việc học của con em mình, phó thác cho nhà trường và thầy cô giáo. Do đó, các em học sinh thường không có ý thức trong học tập, thậm chí các em không hề xem bài hay học bài ở nhà. 3. Số liệu thống kê: Qua thời gian tích cực thực hiện công tác giảng dạy, phụ đạo học sinh chưa hoan thanh. Tôi theo dõi th ̀ ̀ ấy các em học sinh chưa đạt môn Toán ở đợt kiểm tra đầu năm như sau: Sĩ số 9 10 7 – 8 5 – 6
- Một số em bị hỏng một số kiến thức, kĩ năng ở lớp trước, khả năng tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng chậm. Phương pháp học tập của một số em chưa phù hợp, thiếu khoa học. Một số em hay lơ là thiếu tập trung, chủ quan hay tính nhẩm mà không chịu làm ra nháp, làm xong bài không thử lại. 4.3. Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa nắm thật vững những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của bài dạy, giảng dạy còn mang tính dàn trải, chưa theo dõi sát sao, xử lý chưa kịp thời những biểu hiện sa sút của học sinh. Khi phát hiện học sinh hỏng kiến thức giáo viên không dám mạnh dạn dừng bài dạy để giúp các em nắm lại kiến thức. Vì vậy các em không hiểu bài, dễ mặc cảm, chán nản, không có hứng thú trong học tập. Giáo viên khi đứng lớp có vận dụng đổi mới phương pháp nhưng chưa đạt hiệu quả cao vì giáo viên còn ảnh hưởng phần nào thói quen nói nhiều hay lặp lại câu trả lời của học sinh; nhận xét thay cho học sinh. Giao viên ch ́ ưa tin tưởng vào khả năng tự học của các em nên chưa tạo nhiều cơ hội cho các em tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức, hợp tac nhom. Chính vì l ́ ́ ẽ đó mà còn hạn chế khả năng phát triển của học sinh. Tổ chức giúp đỡ, tiếp sức cho các em còn chung chung không có biện pháp cụ thể cho từng đối tượng học sinh nên số lượng học sinh chưa hoan thanh môn toán ̀ ̀ ́ Giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là con không it . ̀ học sinh chưa đạt. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa hoàn thành môn học mà bản thân nhận thấy trong quá trình làm công tác dạy học. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, giúp đỡ tiếp sức cho các em. Trong phạm vi của đê tai, tôi ch ̀ ̀ ỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5.
- II. CAC BI ́ ỆN PHÁP THỰC HIÊN: ̣ Biện pháp thứ nhất: Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí . Việc thua kém bạn bè trong học tập làm cho các em gặp những khó khăn về mặt tâm lí như tự ti, chán học. Vì vậy giúp các em khắc phục vượt qua các khó khăn trở ngại về tâm lí này sẽ tạo điều kiện cho các em vươn lên đạt kết quả trong học tập. Để làm tốt điều đó, tôi luôn gần gũi, chăm sóc uốn nắn các em, tạo cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vì lứa tuổi các em là hiếu động, khả năng tập trung chú ý tuy đã tiến bộ hơn các lớp trước nhưng vẫn dễ bị phân tán. Thật là một cực hình nếu các em phải ngồi im không nói, không cựa quậy. Vì vậy, tôi cần hướng tính năng động của các em vào hoạt động có mục đích để giờ học đạt hiệu quả. Trong giảng dạy trước đây, chủ yếu tôi đặt câu hỏi cho từng học sinh trả lời, không cho trả lời tập thể, hạn chế đồng thanh. Vì vậy một số em không được gọi thì không có việc để làm. Những em này không tập trung suy nghĩ, không khí lớp học không sôi nổi, cho nên tôi nghĩ phải làm sao cho các em vui mà học, học mà chơi, vừa học vừa chơi. Chơi là hình thức, vui là tính chất, học là mục đích cuối cùng. Muốn được như vậy thì hình thức cung cấp kiến thức, kĩ năng cho học sinh phải phong phú không chỉ khô khan: cô giảng trò nghe, cô hỏi trò trả lời, mà cần phải tổ chức cho từng học sinh được tham gia hoạt động. Cụ thể ở bài Milimét vuông. Bảng đơn vị đo diện tích( Trang 27SGK): . Thay vì tôi đặt câu hỏi cho học sinh nêu những đơn vị đo diện tích đã học để hình thành bảng đơn vị đo diện tích cho học sinh, tôi đã chuyển cái mệnh lệnh khô khan ấy bằng trò chơi truyền điện: đầu tiên tôi nêu một đơn vị đo diện tích rồi gọi một học sinh khác trả lời, em này có nhiệm vụ nêu tiếp một đơn vị đo diện tích nhưng không được trùng với đơn vị trước và không được chậm quá 5 giây. Nếu nêu xong em có quyền gọi bạn khác. Cứ như thế cho đến lúc tôi thấy đủ số đơn vị ở bảng ôn
- thì dừng lại. Hình thức chơi này, tuy chỉ từng em nói nhưng vẫn gây được hào hứng và sôi nổi vì tất cả các em đều trong tư thế chuẩn bị đón nhận luồng điện truyền đến. Các em còn hứng thú vì đây không phải là lệnh của cô giáo mà là của bạn bè và bản thân các em được gọi bạn em sau khi trả lời đúng. Để khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến ngoài việc khen ngợi tuyên dương những ý đúng, ý sáng tạo, tôi cũng không bác bỏ những ý kiến chưa hợp lí của các em một cách thô bạo mà tôi luôn nhẹ nhàng, hóm hỉnh dẫn dắt các em phát biểu vào trọng tâm vấn đề. Còn đối với những học sinh chưa đạt hay nhút nhát tôi vẫn chấp nhận những ý kiến mà các em lặp lại của bạn hay của cô. Tôi thiết nghĩ đối với học sinh tiểu học giáo viên nên khen ngợi kịp thời khi các em hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời động viên các em chưa hoàn thành nhiệm vụ. Không nên trách phạt, chê bai các em mà cần động viên khuyến khích là chính. Việc tạo cho các em một không khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi thoải mái tao ̣ cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui với nhiều trò chơi học tập. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp các em khắc phục vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí. Biện pháp thứ hai: Hình thành khả năng tự học ở học sinh. Theo cách dạy truyền thống các em đến trường chỉ nhận được lượng kiến thức duy nhất từ thầy cô. Những kết luận bài học đều do thầy cô cung cấp. Cách dạy học như thế tạo cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Chính vì thế chưa hình thành khả năng tự học ở học sinh. Do đó, muốn hình thành cho học sinh kĩ năng tự học thì tôi phải lựa chọn, phối hợp nhiều hình thức giảng dạy như: cá nhân, nhóm, cả lớp. Các em được thực sự cùng nhau trao đổi, tìm tòi khám phá kiến thức qua các hoat đông hoc tâp đ ̣ ̣ ̣ ̣ ể tìm ra lời giải hoặc để hiểu bài; chỗ nào chưa rõ thì hỏi cô giáo hoặc bạn trong nhóm để có thêm gợi ý giải thích…HS tiến bộ rõ về sự tự tin cũng như mạnh dạn hơn trong giao tiếp; các em có sự chia se giúp đ ̉ ỡ nhau trong học tập, kĩ năng tự học và tự đánh giá được nâng lên; các em có cơ hội phát biểu, nêu vân đê con th ́ ̀ ̀ ắc mắc và hiểu được
- bài học. Đăc biêt chu trong đên ph ̣ ̣ ́ ̣ ́ ương phap day hoc nêu vân đê đê cac em tim cach ́ ̣ ̣ ́ ̀ ̉ ́ ̀ ́ ̉ ́ ơi hoc sinh con châm, giao viên tiêp s giai quyêt, v ́ ̣ ̀ ̣ ́ ́ ức gợi mở đê tim ra ph ̉ ̀ ương an. ́ Tôi phải chăm chút từng đối tượng học sinh nhất là học sinh chưa hoàn thành theo hướng cá thể hóa dạy học. Tôi thường xuyên đi đến từng nhóm, từng học sinh để giúp đỡ các em, mối thân thiện sẽ hình thành từ đây và các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ, hiểu biết của mình với giáo viên. Tôi luôn yêu cầu cao đối với bản thân và xác định các yếu tố quyết định sự thành công của giờ học là phương pháp dạy của người thầy và cach h ́ ọc của trò. ̉ ̣ ̣ Chăng han, day bai ̣ ́ ̀ Diên tich hinh tam giac: ̀ ́ GV yêu cầu HS lấy ra 2 hình tam giác bằng nhau, cắt 1 hình tam giác theo một đường cao rồi ghép lại thành một hình chữ nhật A E B Đường cắt 1 2 1 2 D H C Yêu cầu HS so sánh diện tích một hình tam giác với diện tích hình chữ nhật vừa tạo ra (HS nhận ra diện tích hình tam giác bằng 1/2 diện tích hình chữ nhật), Yêu cầu HS nhắc lại cách tính diện tích hình chữ nhật, so sánh cạnh đáy hình tam giác với chiều dài hình chữ nhật, chiều cao hình tam giác với chiều rộng hình chữ nhật. Từ cách tính diện tích hình chữ nhật suy ra cách tính diện tích hình tam giác. Sau bước này GV mới cho HS rút ra công thức tính diện tích hình tam giác a x h S= 2 Phải tạo không khí lớp học sinh động từ khâu giới thiệu bài, hình thành bài mới như thế nào để lôi cuốn các em tham gia hoạt động một cách tích cực. Tôi cũng rèn cho các em biết cách sắp xếp và sử dụng đồ dùng học tập như thế nào cho nhanh, chính xác. Tôi luôn nghiên cứu bài dạy đề ra mục tiêu cho sát, rõ
- về kiến thức, kĩ năng, thái độ không chung chung quá nặng so với trình độ học sinh. Xây dựng cho mình kế hoạch bài dạy sát với trình độ của học sinh, làm sao cho tất cả học sinh đều làm việc như vậy các em sẽ tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô. Đầu tiết học tôi thường kiểm tra kiến thức cũ có liên quan đến bài mới rồi từ đó dần dắt vào bài mới để các em dễ nắm được bài. Biện pháp thứ ba: Kiểm tra đánh giá mức độ kiên th ́ ưc ́ ở cac l ́ ơp d ́ ươi, có k ́ ế hoạch bổ sung những kiến thức mà các em bị hỏng. Kiến thức các lớp dưới là nền tảng để tiếp thu các kiến thức lớp trên. Do vậy tôi đã tiến hành kiểm tra, phân loại đối tượng học sinh, lên kế hoách bổ sung các kiến thức liên quan ở các lớp dưới. Các kiến thức cần ôn tập bổ sung tôi chia làm các nội dung sau: Kĩ năng tính toán. Kĩ năng đổi đơn vị đo. Các quy tắc, công thức tính chu vi diện tích các hình đã học. Kĩ năng giải các dạng toán điển hình... Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi thường xuyên theo dõi kết quả học tập của các em với nhiều hình thức kiểm tra để nắm được số lượng học sinh chưa hoàn thành môn toán. Từ đó có phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho thích hợp đối với từng đối tượng. Nếu giáo viên không phát hiện kịp thời thì các em dần dần hỏng kiến thức rồi các em sẽ chán học. Biện pháp thứ tư: Chia đối tượng học sinh chưa hoàn thành ra từng nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau. Sau khi nắm được đối tượng học sinh chưa hoàn thành môn Toán, tôi không áp dụng cách giúp đỡ, tiếp sức một cách chung chung cho tất cả các đối tượng mà tôi tiến hành phân chia các em ra thành nhiều nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau và có phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho từng nhóm. Nhóm 1: Học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học.
- Các em này có khả năng tiếp thu được kiến thức. Nhưng các em còn ham chơi và hiếu động nên không tập trung trong giờ học dẫn đến các em chưa nắm được kiến thức. Nhóm 2: Học sinh chưa biết cách giải bài toán có lời văn Các em này có khả năng tính toán được nhưng kĩ năng giải toán có lời văn còn hạn chế hoặc còn nhầm lẫn giữa các dạng toán. Nhóm 3: Học sinh tính toán chậm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tư duy các em phát triển chậm, bị hỏng các kiến thức, kĩ năng của các lớp trước, không năm đ ́ ược quy tăc th ́ ực hiên ̣ ̉ tinh, quên bang c ́ ửu chương... Biện pháp thứ năm: Giao viên ́ lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành giúp đỡ,tiếp sức đôi v ́ ới từng nhóm nhỏ: a/ Đối với nhóm 1: Các em lơ là thiếu tập trung. Để các em có ý thức tốt tập trung nghe giảng, ở giờ học trên lớp giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở quan tâm đến các em, gọi các em phát biểu, làm bài với câu hỏi, yêu cầu vừa sức với các em. Cần động viên khen ngợi khi thấy các em có tiến bộ. Bên cạnh đó giáo viên cần tạo cho không khí lớp học thoải mái bằng các hình thức trò chơi, câu đố có liên quan đến bài học. Khi dạy bài “Mét khối” giáo viên có thể cho học sinh chơi trò chơi Rung chuông vàng ở bài tập 2 (a.Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là đềximét khối: 1cm3 ; 5,216m3; 13,8m3; 0,22m3 . b. Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là xăngtimétkhối: 1 1dm3; 1,969dm3; dm3; 19,54dm3 ) 4 Học sinh suy nghĩ rồi ghi kết quả vào bảng con, giáo viên nhận xét khen ngợi những học sinh giải đúng. Đến cuối tiết học tôi quan tâm đến đối tượng này xem các em có nắm được kiến thức hay chưa? Nếu chưa nắm được tôi cần chú ý nhiều hơn ở tiết ôn luyện
- cho đến khi các em nắm được kiến thức mới thôi. Dần dần sẽ thúc đẩy được động cơ học tập của các em, nếu chúng ta không quan tâm, các em sẽ chán học dẫn đến không nắm được kiến thức. Vào các tiết ôn luyện ở cuối mỗi mạch kiến thức tôi thường tổ chức cho các em chơi các trò chơi mà các em thích như trò chơi hái hoa dân chủ đểgiúp các em ôn tập và hệ thống hoá lại kiến thức đã học.Trong trò chơi này mỗi bông hoa tôi ghi tên một quy tắc tính đã học. Sau đó cho một số em lên bảng hái và nêu to cho cả lớp nghe quy tắc tính có tên trong bông hoa mà mình đã hái. Giáo viên nhận xét khen ngợi những em nêu đúng động viên khuyến khích những em nêu chưa được về ôn lại và cố gắng ở lần sau. b/ Đối với nhóm 2: Học sinh han chê gi ̣ ́ ải bài toán có lời văn Để khắc phục được tình trạng này tôi cần phải lưu ý các em nhiều hơn trong hoạt động giải toán có lời văn. Ngay từ những bài đầu cần tập cho các em cách phân ̉ tích bài toán chi ra nh ững yếu tố bài toán đã cho và những yếu tố cần phải tìm và mối quan hệ giữa các yếu tố này, từ đó hướng dẫn các em lập kế hoạch giải bài toán một cách khoa học, dễ hiểu. Nếu làm tốt bước này ngay từ đầu thì khi gặp những bài toán có lời văn cơ bản các em có thể giải một cách thuận lợi hơn. * Với dạng bài tập này học sinh thường mắc phải những sai lầm sau: + Một số em không hiểu đề bài, đọc đề toán mà không tóm tắt được bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? (do đề toán dài, thực lực của một số em còn yếu) + Một số em không biết phân tích bài toán theo hướng đi lên, từ cái cần tìm đến cái đã cho để lập kế hoạch giải toán. +Học sinh không nắm được mối liên hệ của các phép tính trong một bài toán giải. Có những em tìm ra được điều kiện để giải bài toán song lại không biết sử dụng nó cho bước tiếp theo mà chỉ dựa vào yếu tố bài toán cho phần đầu, giải một phần bài toán theo quán tính (ví dụ: thấy hình chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng thì
- tính diện tích, hay hình hộp chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng và chiều cao thì tính thể tích) rồi bỏ ngõ bài toán. + Nhiều em biết các bước làm song việc vận dụng các kiến thức thực tế cũng như cách giải các dạng toán điển hình vào một phần của bài toán còn nhiều lúng túng(do các em thiếu kiến thức thực tế, việc vận dụng một cách tổng hợp nhiều kiến thức trong một bài toán hạn chế). * Biện pháp khắc phục: + Hướng dẫn HS đọc kĩ đề bài, tóm tắt bài toán, nắm chắc những dữ liệu bài toán cho, những yêu cầu cần tìm. + Phân tích bài toán theo hướng đi lên, muốn có cái cần tìm này thì cần phải biết thêm cái gì, và để tìm cái tiếp theo phải làm như thế nào, cần sử dụng dạng toán nào để giải quyết. Cứ như vậy cho đến khi định hướng được cách giải bài toán đó. + Lập kế hoạch giải bài toán + Đối chiếu các đơn vị đo xem đã phù hợp chưa, đổi đơn vị đo nếu có. + Trình bày bài giải. Ví dụ: Hướng dẫn HS giải bài toán sau: Một bể nước dạng hình hộp chữ nhật có kích thước trong lòng bể là: chiều dài 2m, chiều rộng 1,5m và chiều cao 1m. Khi bể không có nước, người ta mở vòi cho chảy vào bể, mỗi giờ được 0,5m3 . Hỏi sau mấy giờ bể sẽ đầy nước? Đầu tiên cho HS đọc kĩ đề toán( ít nhất 3 lần) Cho HS tóm tắt bằng cách chỉ ra những dữ liệu bài toán cho, những yêu cầu cần tìm. +Hướng dẫn HS phân tích: Hỏi HS: Nếu cứ mỗi giờ vòi chảy được 0,5m3, muốn biết sau mấy giờ vòi chảy đầy bể cần biết gì? (Cần biết lượng nước có trong bể). Muốn biết lượng nước trong bể cần tính gì? ( thể tích của bể) Nêu cách tính thể tích của hình hộp chữ nhật? ( Lấy chiều dài nhân với chiều rộng rồi nhân với chiều cao, cùng đơn vị đo) Nhắc HS lưu ý các số đo phải cùng một đơn vị.
- +Hướng dẫn HS lập kế hoạch giải: Gọi HS nêu các bước giải: Dựa vào phân tích bài toán, theo em bước 1 cần tìm gì? (thể tích của bể ) Khi đã biết thể tích của bể bước tiếp theo em tính gì ? (Số giờ để vòi chảy đầy bể) GV chốt: B1: Tính thể tích của bể. B2: Tính số giờ để vòi chảy đầy bể. Chẳng hạn trong tiết ôn luyện tuần 21 khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 2: Một người thợ gò một cái thùng tôn không nắp dạng hình hộp chữ nhật có chiều dài 6dm, chiều rộng 4dm và chiều cao 9dm. Tính diện tích tôn dùng để làm thùng( không tính mép hàn) (SGK trang 110) tôi yêu cầu các em phân tích, tóm tắt bài toán bằng cách đưa ra các câu hỏi: Bài toán cho biết gì? ( Bài toán cho biết một cái thùng tôn không nắp có chiều dài 6dm, chiều rộng 4dm, chiều cao 9dm Bài toán yêu cầu gì? ( Bài toán yêu cầu tính diện tích tôn dùng để làm thùng?) Thùng không nắp thì có mấy mặt? ( Thùng không nắp có 5 mặt bao gồm 4 mặt bên và 1 mặt đáy.)) Sau đó tôi tiếp tục đặt câu hỏi để giúp các em lập kế hoạch giải toán theo mô hình phân tích bài toán như sau: Giáo viên hỏi: Học sinh trả lời: Có diện tích xung quanh rồi, ta cần tính thêm yếu tố nào nữa? Tính diện tích một mặt đáy thung tôn ̀ Muốn tính diện tích tôn làm thùng Tính diện tích xung quanh thung tôn ̀ Trước hết ta phải tính cái gì? Bài toán yêu cầu làm gì? Tính diện tích tôn dùng để làm thùng
- Từ sơ đồ trên tôi yêu cầu học sinh giải theo thứ tự từng bước từ trên xuông. ́ ̣ ̣ ́ ( Tinh DT môt măt đay thung tôn Tinh DT xung quanh thung tôn Tinh DT tôn dung ́ ̀ ́ ̀ ́ ̀ ̉ ̀ đê lam thung tôn đo. ̀ ́ Với đối tượng hoc sinh ch ̣ ưa hoan thanh n ̀ ̀ ếu các em không giải được các bài toán hợp thì GV tách bài toán đó ra làm hai hoặc ba bài toán đơn, cho HS giải từng bài toán đơn rồi sau đó gộp các bài toán đơn thành một bài toán hợp và yêu cầu HS giải. Trong các tiết ôn luyện có dạng toán giải tôi cũng yêu cầu các em tự tóm tắt và lập sơ đồ như thế, sau khi các em lập xong sơ đồ tôi sẽ xem xét chỉnh sửa (nếu cần thiết). Cứ làm kiên trì như thế các em sẽ nắm được cách giải các bài toán có lời văn và giải một cách thành thạo. c/ Đối với nhóm 3: Học sinh tính toán chậm. Đây là một trong những đối tượng tương đối khó, giáo viên cần phải tốn nhiều thời gian và công sức nhất, khi học chính khóa cũng như lúc giúp đỡ, tiếp sức thêm. Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hóa kiến thức kỹ năng cho các em. Khi chưa nắm rõ kiến thức các em thường ghi nhớ một cách máy móc. Dân dân ̀ ̀ ́ ́ ́ ́ ́ ́ ́ ́ ươc tinh khi th giup cac em năm chăc cac quy tăc tinh, cac b ́ ́ ực hiên. Bên c ̣ ạnh đó giáo viên cần khéo léo sắp xếp cho các em học sinh yếu ngồi cạnh một học sinh khá tạo điều kiện cho các em có thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Sự có mặt kịp thời của giáo viên trước những khó khăn của học sinh yếu khi làm bài có tác dụng nâng cao niềm tin cho các em trong học tập. Trong tiết học, giáo viên cần tạo điều kiện cho các em phát biểu nhiều lần bằng cách nêu những câu hỏi, đưa những bài tập vừa sức các em làm được để tạo niềm tin trong học tập cho các em đã làm được những bài tập đó, giáo viên nên khen ngợi kip thời và tăng dần bài tập ở mức học sinh trung bình có thể làm được. Như vậy là tôi đã giao việc cho các em từ mức dễ đến mức vừa sức. Đối với các tiết ôn luyện của mỗi tuần tôi thường đưa ra các bài tập có dạng tương tự nhau để các em luyện cho quen dạng bài. Sau mỗi mạch kiến thức tôi lại hệ thống hoá lại các kiến thức cơ bản để các em dễ nhớ. Đối với những bài có kiến
- thức dễ lẫn sau khi các em đa năm được từng dạng tôi sẽ ra mỗi bài tập ở mỗi dạng yêu cầu các em làm rồi giúp các em rút ra điểm khác nhau của mỗi bài để các em khắc sâu và ghi nhớ cách làm của mỗi dạng. Ví dụ: Khi dạy phép chia số thập phân là phép tính mà các em thường sai nhiều, bởi đối với từng dạng bài thì có cach th ́ ực hiên khác nhau. ̣ Cách khắc phục là khi ôn luyện, tiếp sức tôi cho các em làm cùng lúc cả 4 dạng: Chia một số thập phân cho một số tự nhiên, chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số thập phân, chia một số tự nhiên cho một số thập phân, chia một số thập phân cho một số thập phân để dễ dàng rèn kĩ năng tính và nhấn mạnh sự khác biệt. Cụ thể: Đặt tính rồi tính: 5,28 : 4; 882 : 36; 702 : 72; 8,216 : 5,2 Đối với dạng toán về tỉ số phần trăm các em cũng dễ lẫn giữa dạng 2 và dạng 3. Để khắc phục tôi cũng làm tương tự cho các em làm cùng lúc hai dạng bài này chẳng hạn: “tìm 20% của 100” và “ 20% của một số là 100, tìm số đó?” Khi giúp đỡ tiếp sức cho nhóm này tôi đặc biệt rèn cho các em kĩ năng tính toán, bởi có tính toán được thì các em mới có thể làm được các dạng toán khác. Cụ thể tôi sẽ giúp các em thực hiện đặt tính, sau đó thực hiện tính. Khi các em đã tính được kết quả các phép tính mà tôi đưa ra, tôi sẽ hướng dẫn các em cách thử lại kết quả đó để các em tự kiểm tra xem mình đã làm đúng chưa. Biện pháp thứ sau: ́ Phối kết hợp với cha mẹ học sinh. Sau một thời gian giảng dạy, tôi nắm được một số học sinh chưa hoàn thành môn Toán của lớp mình. Ngoài việc họp tất cả cha mẹ phụ huynh học sinh, tôi tiến hành mời cha mẹ học sinh theo từng thời điểm của từng nhóm để trao đổi cặn kẽ về đặc điểm của từng nhóm học sinh. Từ việc trao đổi từng nhóm riêng lẻ tôi và phụ huynh học sinh có điều kiện bàn bạc để tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những hạn chế của các em.
- Hàng tháng tôi thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để báo cáo kết quả học tập cũng như những biểu hiện thất thường của học sinh để cho phụ huynh nắm mà có biện pháp cụ thể đối với các em. Biên phap th ̣ ́ ư bay ́ ̉ : Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn động viên, khuyến khích học sinh. Đặc biệt quan tâm đến sự tiến bộ của đối tượng học sinh chưa hoan thanh, trân trong s ̀ ̀ ̣ ự tiên ́ ̣ ̉ ̀ ̀ ́ ́ ử dụng các hình thức khen thưởng như: Khen trước lớp, bô cua cac em du la rât it. S ́ khen trước toàn trường. Ngoài ra ở lớp, tôi còn lập quỹ khen thưởng, trích quỹ thưởng cho những học sinh có sự tiên bô ro rêt tháng sau h ́ ̣ ̃ ̣ ơn tháng trước. Trong năm ̣ ̣ hoc nay, viêc th ̀ ực hiên đanh gia hoc sinh theo ̣ ́ ́ ̣ thông tư 30/2014/TTBGDĐT mang ́ ơ hôi đ tinh nhân văn sâu săc. Cac em co c ́ ́ ́ ̣ ược nha tr ̀ ường khen thưởng, đo la đông l ́ ̀ ̣ ực lơn thuc đây s ́ ́ ̉ ự nô l ̉ ực phân đâu v ́ ́ ươn lên ở hoc sinh. ̣ Không nhưng thê, tôi luôn đ ̃ ́ ộng viên gia đình học sinh đặt mục tiêu khen thưởng ở nhà va theo doi s ̀ ̃ ự tiên bô cua con em đê khen kip th ́ ̣ ̉ ̉ ̣ ời. III. KẾT QUẢ ĐAT Đ ̣ ƯỢC: Qua nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho các em chưa hoàn thành môn Toán của lớp mình phụ trách, tôi nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em biết cách tính toán và tỉ lệ các em thực hiện tính đúng kết quả các phép tính mà giáo viên đưa ra là rất cao. Đa số các em đã biết cách giải những bài toán có lời văn cơ bản. Những em hay lơ là thiếu tập trung trong giờ học nay các em đã hào hứng tham gia một cách sôi nổi, càng ngày các em chưa hoàn thành môn học thể hiện rõ nét tiến bộ của mình. Theo thống kê kết quả bài kiểm tra định kìcuối học kỳ I, năm học 2014 2015 như sau: Sĩ số Điêm 9 10 ̉ Điêm 7 – 8 ̉ Điêm 5 6 ̉ Điêm
- Từ các bảng số liệu trên cho ta thấy qua nghiên cứu và thực hiện số học sinh đạt yêu cầu cơ bản tăng từ 75,9 % lên 100% , không co h ́ ọc sinh chưa hoan thanh môn ̀ ̀ ̉ Toan ( giam 21,1% so v ́ ơi đâu năm). Đ ́ ̀ ặc biệt các em rất tự tin, hứng thú trong học tập. Điều này cho ta thấy một số biện pháp giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán đã mang lại kết quả tương đối khả quan. Nhiều em vào đầu năm học rất nhút nhát hay trốn học nay em có tiến bộ rất nhiều có thể tự học được bài. PHÂN III: PH ̀ ẦN KẾT LUẬN 1. Y nghia cua sang kiên: ́ ̃ ̉ ́ ́ Việc nghiên cứu những biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán ở trong nhà trường có y nghĩa rât quan trong trong công tác nâng cao ́ ́ ̣ chất lượng dạy học. Qua thơi gian th ̀ ực hiên, tôi rut ra bài h ̣ ́ ọc kinh nghiệm cho bản thân, đó là: Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí. Giáo viên phải tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, ham thích học toán Phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự học của học sinh. Kiểm tra đánh giá mức độ kiên th ́ ưc ́ ở cac l ́ ơp d ́ ươi, có k ́ ế hoạch bổ sung những kiến thức mà các em bị hỏng. Phân chia đối tượng học sinh yếu ra từng nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau. Giao viên ́ lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành giúp đỡ, tiếp sức đôi v ́ ơi ́ từng nhóm nhỏ. Phải thường xuyên kết hợp với cha mẹ của các em trong qua trinh giup đ ́ ̀ ́ ỡ hoc̣ sinh chư hoan thanh. ̀ ̀ Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh đung m ́ ưc, kip th ́ ̣ ơi. ̀ 2. Nhưng kiên nghi đê xuât: ̃ ́ ̣ ̀ ́ Để duy tri đ ̀ ược kêt qua va ap dung day hoc trong ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ nhưng năm tiêp theo, tôi có m ̃ ́ ột số kiến nghị như sau :
- Về phía phụ huynh: Cần quan tâm đến việc học của con em, ngay từ đầu năm học các bậc phụ huynh phải giúp các em hình thanh thói quen và n ̀ ề nếp tự học ở nhà. Nhắc nhở con em đến lớp cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập, sách vở để các em có điều kiện học tốt . Tạo mọi điều kiện để con em đi học chuyên cần, thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình. Đăc biêt cha me ̣ ̣ ̣ ̣ hoc sinh th ực sự vao cuôc tham gia giup đ ̀ ̣ ́ ỡ hoc sinh hoc tâp, ren luyên va đanh gia ̣ ̣ ̣ ̀ ̣ ̀ ́ ́ con em minh. ̀ Về phía giáo viên: Phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí vui để học giúp các em chưa hoàn thành yêu thích môn học. Vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học tích cực để các em có cơ hội phát triển kiến thức của mình. Cần tăng cường rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động học tập. Về phía nhà trường: Tăng cương h ̀ ơn nưa viêc tô ch ̃ ̣ ̉ ức cac chuyên đê, hôi thao ́ ̀ ̣ ̉ ̣ ̣ ́ ức giup đ vê công tac phu đao, tiêp s ̀ ́ ́ ỡ hoc sinh ch ̣ ưa hoan thanh môn hoc. ̀ ̀ ̣ Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành trong môn Toán. Để vận dụng vào thực tế dạy học rộng rãi trong các trường học, kính mong các cấp lãnh đạo, quý thầy cô đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm đây đu h ̀ ̉ ơn nhăm mang tinh kh ̀ ́ ả thi cao.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn