intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

47
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là kích thích sự phát triển mọi mặt, phát triển toàn diện học sinh lớp mình chủ nhiệm. Phát huy tối đa về nâng cao tinh thần tự quản trong lớp, sôi nổi trong học tập, trong hoạt động vui chơi. Phát huy sự mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin về bản thân học sinh. Giúp học sinh trung thực, đoàn kết. Hình thành một số kĩ năng sống cho học sinh. Chăm học chăm làm, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, lao động, thể dục thể thao, văn nghệ. Tự giác học tập ở trường cũng như ở nhà. Phát huy tối đa tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong môi trường tập thể trường, lớp và bên ngoài. Phát huy vai trò phối hợp của phụ huynh học sinh, giáo viên bộ môn trong công tác giáo dục. Tạo sự đoàn kết một lòng trong tập thể học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh

  1. TÊN CƠ QUAN CHỦ QUẢN TÊN ĐƠN VỊ =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
  2. 1. Lời giới thiệu Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc  đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã hội là việc   làm cấp bách và cần thiết, đòi hỏi sự  dày công của người giáo viên chủ  nhiệm, bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó những tệ  nạn xã   hội đang tồn tại và diễn ra ngay trước mắt các em nó cũng chính là động lực   lôi cuốn các em vào những thói hư tật xấu. Vì vậy, người giáo viên phải vừa  là người mẹ  dịu dàng, vừa là người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi,   trọng tài phân minh, ... Thành công của giáo viên của người giáo viên là làm  cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp  đoàn kết, gắn bó, có nề  nếp tốt, học tập tốt. Trong thực tế, nếu học sinh   không có nề nếp thì việc giáo dục và dạy học sinh trên lớp sẽ không đạt hiệu  quả cao. Đi đôi với chất lượng ­ kết quả học tập, công tác xây dựng nề  nếp  cho học sinh là một trong những nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của giáo viên   tiểu học.  Từ  tình hình thực tế  tôi nhận thấy, người giáo viên chủ  nhiệm lớp  hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế  hệ  trẻ  theo mục đích giáo dục toàn diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò  quan trọng: Vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ  và cũng có lúc  phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể  uốn nắn các em đi theo  quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc   giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt động có nề  nếp tốt sẽ  giúp học sinh có tính tự  lập, nghiêm túc, tích cực trong học tập và lao động, phát huy tính tự giác học  tập của các em, nâng cao vai trò của hội đồng tự quản lớp học. Mặt khác, nề  nếp lớp tốt sẽ làm tăng chất lượng dạy và học, đồng thời rèn luyện cho học   sinh đạo đức, tác phong tốt góp phần hình thành nhân cách con người.  Với các lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề  tài:  “Một số  biện pháp   xây dựng nề  nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh”  để  nghiên cứu với mục đích tìm ra biện pháp tối ưu để: ­ Kích thích sự  phát triển mọi mặt, phát triển toàn diện học sinh lớp  mình chủ nhiệm.  ­ Phát huy tối đa về nâng cao tinh thần tự quản trong lớp, sôi nổi trong  học tập, trong hoạt động vui chơi.  ­ Phát huy sự mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin về bản thân học sinh. 2
  3. ­ Giúp học sinh trung thực, đoàn kết. ­ Hình thành một số kĩ năng sống cho học sinh. ­ Chăm học chăm làm, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, lao   động, thể dục thể thao, văn nghệ.  ­ Tự giác học tập ở trường cũng như ở nhà. ­ Phát huy tối đa tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong môi trường   tập thể trường, lớp và bên ngoài.     ­ Phát huy vai trò phối hợp của phụ  huynh học sinh, giáo viên bộ  môn   trong công tác giáo dục.     ­ Tạo sự đoàn kết một lòng trong tập thể học sinh.     ­ 100 % học sinh của lớp thực hiện đầy đủ  năm nhiệm vụ  của người   học sinh.     ­ 100 % học sinh của lớp hoàn thành chương trình tiểu học với kết quả  cao.     Tôi xin được trình bày sang kiên : ́ ́ “Một số  biện pháp xây dựng nề  nếp  lớp học nhằm nâng cao ý thức tự học cho học sinh ” trước Hội đồng sang kiên ́ ́  cac câp. Rât m ́ ́ ́ ong các  đông chi ̀ ́  góp ý kiến cho tôi  đê sang kiên kinh ́  đong ̉ ́ ́   ̣ nghiêm nay  ̀ ngày một hoàn thiện hơn và có chất lượng tôt  ́ hơn.  2. Tên sáng kiến  Một số  biện pháp xây dựng nề  nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức tự  học cho học sinh. 3. Tác giả sang kiến ­ Họ và tên: Vũ Thị Huệ ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trương Tiêu hoc H ̀ ̉ ̣ ợp Thinh – Tam D ̣ ương – Vinh ̃   Phuc. ́ ­ Số điện thoại: 0349614819 .E_mail: vuhue19@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  Nhà giáo viên: Vũ Thị Huệ. Trương Tiêu hoc H ̀ ̉ ̣ ợp Thinh – Tam D ̣ ương   – Vinh Phuc. ̃ ́ 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học. 3
  4. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Ngay 05 thang ̀ ́  9 năm 2017. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1 Nội dung của sáng kiến  7.1.1. Đối tượng nghiên cứu ­ Học sinh lớp3 trường Tiểu học Hợp Thịnh năm học 2017 – 2018. ­ Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hợp Thịnh năm học 2018 – 2019. 7.1.2. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp quan sát nhận xét. ­ Phương pháp kiểm tra, đánh giá, nhận xét. ­ Phương pháp trò chuyện. ­ Tuyên dương, khen thưởng. ­ Điều tra, tổng hợp. 7.1.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Một số  biện pháp xây dựng nề  nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức tự  học cho học sinh. 7.1.4. Cơ sở của vấn đề Nề nếp là thói quen giữ gìn những cách làm việc hợp lí và sự sinh hoạt   có kỉ luật, có trật tự, có tổ chức. Ngôi trường Tiểu học chính là ngôi nhà chung đầu đời của mỗi con  người. Ở nơi ấy, mỗi một thầy cô giáo lại là người mẹ thứ hai dạy cho học  sinh tất cả những kiến thức đầu tiên, những kỹ năng đầu tiên, trang bị cho các  em một hành trang lớn để các em bước dần đến tương lai. Vậy, người thầy ở  đây phải nắm giữ  một vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò là một người dìu   dắt, người hướng dẫn, người  ảnh hưởng và người trang bị  cho học sinh tất  cả về kiến thức và kỹ năng sống hàng ngày của chính các em.  Một nét đặc thù ở  cấp Tiểu học là mỗi giáo viên đứng lớp đều là một  giáo viên chủ nhiệm (loại trừ giáo viên bộ  môn). Vì thế, để  làm tốt công tác  chủ  nhiệm lớp, theo tôi việc đầu tiên của mỗi giáo viên chủ  nhiệm là phải   nhận thức rõ về vai trò chủ nhiệm của chính mình. 4
  5. Thầy cô chủ nhiệm các em là những người có uy tín với các em nhất, là   người mà các em luôn yêu quý, tin tưởng nhất, phục tùng nhất, các em nghe   lời thầy cô chủ  nhiệm của mình là trên hết. Thầy cô giáo chủ  nhiệm có ảnh   hưởng rất lớn đến mọi hoạt động và sự phát triển của học sinh, Bởi vây: ­  Người giáo viên chủ  nhiệm phải là một người quản lý tốt, quản lý   chặt chẽ, cụ thể, chi tiết và toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm phải có tri thức  về mọi mặt kể cả tri thức về tâm lý giáo dục. Giáo viên chủ  nhiệm phải có   kỹ năng sư phạm, biết tiếp cận, phán đoán học sinh khéo léo và đúng đắn với   học sinh trong hoạt động dạy học và giáo dục. ­ Người giáo viên chủ  nhiệm phải là người cố  vấn cho các hoạt động   tự  quản của tập thể  học sinh. Để  phát huy tốt vai trò cố  vấn giáo viên chủ  nhiệm cần có năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự báo của học   sinh, có khả năng kích thích khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học  sinh tham gia vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế  hoạch giáo dục toàn diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ  học sinh thực hiện kế  hoạch đó. Lưu ý, cố  vấn không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt  động của học sinh mà phải cùng hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ  những khó khăn, tranh thủ  các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường  nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh và tập thể  học sinh tiến hành   thành công các hoạt động, tạo động lực cho học sinh trong những hoạt động  tiếp theo. ­ Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực   lượng giáo dục trong nhà trường. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi  giáo viên chủ nhiệm chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề,   yêu thương học sinh mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết  lập quan hệ tốt đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ  gìn uy   tín, có ý chí vượt khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp   cần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện  lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ. ­ Giáo viên chủ  nhiệm là người tổ  chức phối hợp các lực lượng giáo  dục ngoài nhà trường. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ  vào  khả  năng phối hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài   nhà trường (gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư, …)  về mọi mặt   nhằm thực hiện nội dung giáo dục đối với lớp chủ  nhiệm. Dựa vào đặc  5
  6. điểm, điều kiện của nhà trường, lớp cộng đồng, gia đình học sinh mà giáo   viên chủ nhiệm tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trên. Giáo viên chủ nhiệm không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học  sinh mà còn là người tổ  chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các   bậc cha mẹ  khi cần thiết. Gia đình là nơi các em sinh ra và lớn lên từ  nhỏ,  thời gian các em ở nhà chiếm nhiều thời gian  ở trường. Vì vậy bố mẹ và các  thành viên trong gia đình cần phối hợp để giáo dục các em.   Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy rằng:  Sản phẩm   giáo dục mà chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả  như  bao  sản phẩm của ngành nghề khác. Vì vậy, để làm tốt công tác giáo dục chúng ta  cần phải thật kiên trì, nhẫn nại, chịu khó và phải chịu tốn nhiều thời gian,  công sức để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của học sinh và đặc biệt là phải có   tấm lòng yêu thương, nhân ái của người thầy.  7.1.5. Thực trạng của vấn đề Năm học 2017 ­ 2018 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ  nhiệm lớp 3A.  a. Thuận lợi ­ Đa số  học sinh lớp tôi nhà gần trường. Tất các em đi học đúng độ  tuổi, ngoan ngoãn, lễ phép. ­ Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy tương đối đầy đủ cho từng  khối lớp nên giờ học rất sinh động. ­ Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm cao, thường  xuyên trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau dạy tốt. ­ Được sự  quan tâm giúp đỡ  của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi   điều kiện thuận lợi để giáo viên an tâm công tác. ­ Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp, trường rất nhiệt tình  gắn bó với các hoạt động của nhà trường về  mọi mặt, góp phần động viên  cán bộ, giáo viên nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. ­ Đa số  phụ  huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của   giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học. Họ đã có ý thức tự  giác, thái độ  tích  cực trong việc giáo dục con em mình. ­ Mối quan hệ  giữa nhà trường và gia đình học sinh chặt chẽ, khăng   khít. 6
  7. b. Khó khăn Là một trường nằm trên địa bàn xã trung du, nên học sinh lớp tôi chủ  yếu là con em nông dân, công nhân, cha mẹ các em còn trẻ ham lao động nên  các em còn thiếu sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ, đa số các em chưa có ý thức  tự học. Có những em rất ngoan, rất có ý thức, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình  lại khó khăn, không có thời gian học tập, nên kết quả đạt được không cao. Một số  em gia đình có điều kiện đầy đủ  cho các em nhưng các em lại ham  chơi, không chú ý học tập. Còn có một số  phụ  huynh học sinh có tư  tưởng khoán trắng cho nhà  trường và thầy cô trong việc giáo dục con em mình. Một số em học yếu không có hứng thú học tập, rụt rè, không tự tin khi đến lớp. Vẫn không ít học sinh chưa chuẩn bị bài và đồ dùng học tập trước khi  đến lớp. Học sinh còn nhỏ hay quên và có nhiều học sinh nam nên rất hiếu động. Thầy và trò còn bỡ ngỡ với mô hình trường tiểu học mới. 7.1.6. Một số giải pháp mới 7.1.6.1. Điều tra thực trạng đầu năm học a. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh Nhà giáo dục học K.Đ.Usinxki nói: “Muốn giáo dục cho con người mọi  mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Công tác chủ  nhiệm đòi hỏi phải  hiểu học sinh một cách đầy đủ, cụ  thể  và toàn diện nhằm có thể  lựa chọn  những tác động sư  phạm phù hợp, có khả  năng mang lại hiệu quả  cao nhất.  Thực tiễn giáo dục đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của giáo  viên thậm chí gây thương tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy cô không  hiểu biết đầy đủ về học sinh. Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc  thiết lập quan hệ giao tiếp thuận lợi giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh, là  tiền đề cho việc hình thành tình cảm thầy trò thông hiểu, gắn bó. Năm học 2017 – 2018 này tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A, sau khi   nhận lớp xong, tôi tiến hành điều tra lí lịch của từng học sinh. Vì muốn hiểu   kĩ học sinh, tôi phải biết rõ gia đình các em. 7
  8. Lớp 3A có 34 học sinh trong đó có 21 học sinh nữ, 13 học sinh nam.   Không có học sinh lưu ban. * Trước tiên, tôi tìm hiểu sơ lược về thành phần gia đình từng cá nhân   học sinh. Tôi đã phát cho các em phiếu điều tra: GIỚI THIỆU BẢN THÂN 1. Họ và tên: .................................................................................... 2. Là con thứ: ...................................................trong gia đình 3. Hoàn cảnh gia đình (Giàu, khá, đủ ăn, nghèo) ....................................... 4. Kết quả học tập năm trước: ................................................. 5. Họ tên cha: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp ..................... 6. Họ tên mẹ: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp ..................... 7. Môn học yêu thích: ..................................................................................... 8. Môn học còn gặp khó khăn: ....................................................................... 9. Góc học tập ở nhà: (có, không) ............................................................. 10. Sở thích: .............................................................................................. 11. Địa chỉ gia đình: ................................................................................. 12. Số điện thoại của cha hoặc mẹ: ........................................................... Qua phiếu điều tra này tôi có các thông tin sau: ­ Cha mẹ làm nông: 17/ 34 ­ Cha mẹ làm công nhân: 11/ 34 ­ Cha mẹ buôn bán: 0/ 34 ­ Cha mẹ làm tự do: 03/ 34 ­ Cha mẹ là viên chức nhà nước: 0/34 * Hoàn cảnh gia đình: ­ Số học sinh sống cùng với bố mẹ: 33/ 34 ­ Số học sinh sống cùng mẹ: 01/34 (do không có cha) ­ Số học sinh sống cùng ông bà: 0/ 33 (do bố mẹ đi làm ăn xa) ­ Số học sinh có hoàn cảnh khá: 09/ 34 ­ Số học sinh có hoàn cảnh đủ ăn: 23/ 34 8
  9. ­ Số học sinh có hoàn cảnh khó khăn: 01/ 34 * Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với học sinh: ­ 25 em có góc học tập riêng, số còn lại không có góc học tập riêng.  ­ 18 em được bố, mẹ hoặc anh chị kiểm tra, nhắc nhở việc học ở nhà. ­ 34 em có đầy đủ sách vở và dụng cụ học tập. * Về tình trạng sức khỏe:  ­ Sức khỏe bình thường: 32/34 học sinh. ­ Mắt không tốt: 3/34 học sinh. ­ Sức khỏe yếu: 02/34 học sinh. Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương pháp giáo   dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được hoàn   cảnh của các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự  tin yêu và gắn bó  với mình thì bản thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy,   bằng tình cảm của một người chị, của một người bạn. Vì trẻ em không phải  em nào cũng có tính cách giống nhau. Có em khi sai phạm ta phải hết sức   nghiêm khắc, nhưng cũng có em thì các hình thức trách phạt không phải là  biện pháp tốt để  uốn nắn, sửa chữa mà ta lại phải mềm mỏng, nhẹ  nhàng  phân tích lỗi lầm của trẻ mới nhận ra. b. Điều tra tình hình học tập ­ Với học sinh, sau ba tháng nghỉ  hè, quả  là một khoảng thời gian khá  dài khiến các em quên đi kiến thức cũ. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn phải có sự  chắt lọc kiến thức đầu năm chính xác, để có phương pháp giáo dục thích hợp  nhất với sự tiếp thu của từng học sinh.  ­ Kết hợp ngay trong tuần  ổn định, tôi kiểm tra phần đọc và viết của  học sinh bằng các bài viết chính tả, đọc văn. Qua đó tôi thấy chữ viết của các  em phần lớn rất xấu, sai chính tả, nhiều em đọc bài rất chậm. Cụ  thể  như:   Quang Khánh, Ngọc Khánh, Hào, Kiên. ­ Sau 1 tuần ổn định, tôi tiếp tục tiến hành kiểm tra kiến thức về Toán   học, dựa vào chương trình mà các em đã học ở lớp 2. Để nắm rõ tình hình học  tập của các em như thế nào? Kết quả như sau: 9
  10. TSHS Giỏi Khá Trung  Yếu bình TS % TS % TS % TS % 34 3 0,9 11 32,3 11 32,3 09 26,4 Từ  kết quả  trên, tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên kiến thức cũ,  có những em không thực hiện được phép tính đơn giản.  Bên cạnh đó, nề  nếp lớp học không có, còn gây mất trật tự  trong giờ  học, còn tình trạng học sinh làm việc riêng trong giờ  học. Hơn nữa các em  chưa tự ý thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy   của nhà trường đề  ra. Để  ổn định học sinh và đưa nề  nếp của các em đi vào   quỹ đạo của mình là điều rất khó và phải mất một thời gian dài mới ổn định  được.  Bên cạnh đó, ngay trong tuần đầu của năm học, tôi đã gặp gỡ giáo viên  chủ  nhiệm năm lớp 2 (năm học trước), giáo viên bộ  môn để  nắm tình hình,   xem lại kết quả  học tập của các em qua sổ  chủ  nhiệm, nghiên cứu sổ  bàn  giao của năm học trước, đặc biệt là phần nhận xét của giáo viên trong việc   theo dõi quá trình học tập, nhằm có kế  hoạch rèn luyện cho các em đạt kết   quả cao hơn. Tôi đã thống kê và phân loại như sau: ­ Về mặt đạo đức: Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem em nào  đã thực hiện đầy đủ  năm nhiệm vụ  của người học sinh, em nào chưa thực  hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh. Để  có kế hoạch bồi dưỡng,   giáo dục cho các em. ­ Về tình hình học tập trong giờ học trên lớp:  + Học khá giỏi, hoạt bát, có ý thức xây dựng bài, ngoan ngoãn: (4 em)  + Học khá, ngoan nhưng thụ động: (10 em) + Học trung bình, tiếp thu bài chậm, thụ động: (14 em) + Học còn yếu tính toán khá chậm (6 em). Trong trường hợp này có 3  em đọc còn chậm, đi học không chú ý theo dõi bài và làm bài, gây mất trật tự  trong lớp, 5 em còn viết sai nhiều lỗi chính tả. 10
  11.       Biết được đặc điểm, tính cách, sức học của từng em, tôi đã tiến hành   sắp xếp chỗ  ngồi cho phù hợp. Một em nghe kém ngồi phía trên gần bảng  hơn những bạn khác. Những em thấp, nhỏ ngồi trước, những em cao lớn ngồi  phía sau. Tôi sắp xen kẽ  giữa những học sinh khá, giỏi là những học sinh   trung bình, yếu. Đặc biệt là những em nghịch được tôi bố  trí  ở  chỗ  tôi dễ  quan sát và ngồi cạnh những em hiền ngoan, lễ phép, chăm học để những em   này có cơ hội học ở bạn những điều mình chưa có.  Bản thân tôi luôn xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục  không phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng   không phải là công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp  mà phải là công việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có  thể hiểu học sinh một cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.  Với những thực trạng trên, để  xây dựng nề nếp cho học sinh đòi hỏi người  giáo viên phải nhiệt tình, tính dứt khoát, quan tâm đồng đều đến tất cả  học   sinh mình phụ  trách. Bên cạnh đó người giáo viên còn phải có tấm lòng bao  dung, nhân hậu, biết thương yêu học sinh như con mình. 7.1.6.2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp Sau khi đã điều tra kỹ  đối tượng học sinh, tôi bắt đầu xây dựng cho  mình một kế hoạch chủ nhiệm theo đặc điểm của lớp. Để  đảm bảo có một  kế hoạch hợp lý, khả thi, khoa học, khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tôi căn  cứ vào những vấn đề sau:       ­ Mục tiêu chương trình hành động chung của ngành và cấp học. ­ Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch giáo dục của trường.      ­  Đặc  điểm  của lớp chủ  nhiệm (bao gồm các  đặc  điểm về  truyền  thống, tập thể, những mặt khó khăn và thuận lợi cơ  bản, hoàn cảnh, điều  kiện của số đông học sinh và gia đình học sinh, …).       ­ Mục tiêu, kế  hoạch công tác của các tổ  chức đoàn thể  trong trường   học.       ­ Đặc điểm tình hình của địa phương.       ­ Dự báo của giáo viên chủ nhiệm về khả năng phát triển từng mặt của  lớp.         Kế  hoạch chủ  nhiệm phải thể  hiện tính toàn diện, cụ  thể, có trọng   tâm, trọng điểm của từng thời gian và từng mặt nội dung giáo dục.         Kế  hoạch công tác chủ  nhiệm được xây dựng theo các thời gian: kế  hoạch tuần, tháng, học kỳ và năm học. Sau khi họp đầu năm học, căn cứ vào   chỉ đạo của ngành và kế hoạch của nhà trường, tôi đề  ra kế  hoạch năm cho   lớp mình chủ nhiệm. Từ kế hoạch năm, tôi thực hiện phân tích và đưa ra kế  11
  12. hoạch từng tháng.  Ở  mỗi tháng, theo thời gian từng tuần, tôi vạch ra kế  hoạch cụ  thể  từng tuần học. Trong kế hoạch chủ nhiệm của từng tuần, tôi  luôn đưa ra dự kiến thời gian thực hiện từng kế hoạch cụ thể, biện pháp thực   hiện và kết quả thực hiện.         Kế hoạch chủ nhiệm càng khoa học thì khả năng thực hiện càng cao và  vì vậy mà bản kế hoạch này có khả năng quyết định to lớn đối với hiệu quả  công tác chủ nhiệm của tôi.  7.1.6.3. Tổ chức các hoạt động trên lớp học  a) Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng học sinh tích cực Muốn cho ngôi nhà vững vàng, chịu đựng được gió bão thì cái móng nhà  phải vững chắc. Lớp học cũng vậy, phải có ban cán sự  lớp vững mạnh thì  mọi hoạt động, mọi phong trào chắc chắn sẽ thực hiện tốt. Qua một tuần tìm  hiểu,  ổn định, bước tiếp theo tôi thực hiện ngay việc bình chọn ban cán sự  lớp. Vì đây là lực lượng nòng cốt cùng giáo viên chủ  nhiệm đôn đốc, nhắc   nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn trong năm học. Để được ban   cán sự  “Đầu tàu gương mẫu”, tôi đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn là: những em  học lực phải đạt giỏi – khá, hạnh kiểm thực hiện đầy đủ, hăng hái tham gia  các hoạt động, các phong trào  ở  lớp,  ở  trường với tinh thần tự  giác, có trách  nhiệm cao và điều đặc biệt là những em này luôn được bạn bè tín nhiệm, yêu  thương. Để  xây dựng đội ngũ cán bộ  lớp giáo viên chủ  nhiệm tiến hành  những công việc sau:      ­ Lựa chọn những học sinh tích cực phân công vào các chức danh trong   đội ngũ cán bộ lớp.      ­ Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong đội ngũ cán bộ  lớp.      ­ Làm rõ nội dung công tác của từng cán bộ  lớp và hướng dẫn cụ  thể  về  phương pháp công tác. Trong đó, cần lưu ý hướng dẫn các kỹ  năng công  tác cơ  bản như: cách ghi chép trong sổ  ghi chép công tác, kỹ  năng điều hành  một buổi sinh hoạt lớp, kỹ năng trình bày thuyết phục, vận động, kỹ năng tổ  chức hoạt động tập thể, …      ­ Hướng dẫn cho cán bộ  lớp tổng kết, khái quát kinh nghiệm qua từng   thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn. ­ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ  lớp, giúp các  em khắc phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của các em.       ­ Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể. 12
  13.       ­ Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự  đối lập giữa  cán bộ lớp với các thành viên trong lớp.      Việc tổ  chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các  em bỏ phiếu tín nhiệm. Sau khi có trong tay danh sách ban cán sự lớp tôi tiến  hành họp và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của  mình. Biết được nhiệm vụ  cụ  thể  của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao  đổi về  vấn đề  gì liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ  trực   tiếp gặp gỡ với bạn phụ trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn.      + Chủ tịch hội đồng tự quản (An): chịu trách nhiệm bao quát chung các   hoạt động của lớp, điều khiển chung toàn lớp trong giờ  tập trung sinh hoạt,   kiểm diện hàng ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong tuần nộp  cho giáo viên chủ nhiệm.      + Phó chủ  tịch hội đồng tự  quản (Châm): nắm tình hình chung phần  chuẩn bị  bài, truy bài đầu giờ  của các tổ  hàng ngày, tổng kết điểm thi đua  trong tuần.      + Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Tâm): quản lý việc thực hiện nội quy   lớp, trường, ý thức kỷ luật của học sinh, …      + Trưởng ban văn thể  mỹ  (lớp phó phong trào): (Thu hà): Chịu trách  nhiệm giờ hát của lớp, cùng các bạn tham gia các tiết mục văn nghệ, tham gia  các phong trào của lớp, ...      + Trưởng ban lao động (Linh): Chịu trách nhiệm về  việc vệ  sinh, lao  động.      + Nhóm trưởng (Linh, Huy, Minh Anh, Thùy, Ly): Là những thành viên  có học lực và năng lực quản lý tốt nhất trong nhóm của mình (Nhóm 4 thành  viên, được chia ra từ tổ). Nhóm trưởng có trách nhiệm hướng dẫn điều hành   các hoạt động nhóm trong từng giờ học.       Sau đó hằng ngày, hàng tuần, hàng buổi học ban cán sự  lớp sẽ  tiến   hành công việc như sau:      ­ Đầu giờ  (trước giờ  truy bài đầu giờ): kiểm tra những việc như  sau:  Soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng học tập, đi học  đúng giờ, … tổ trưởng chấm điểm thi đua trong tuần theo quy định như  sau:   (vi phạm một nội dung trừ 01 điểm) 13
  14.      ­ Trong giờ học: theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây  dựng bài thì được cộng điểm thưởng như sau: phát biểu xây dựng bài cộng 1   điểm/lần, nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/lần.      Giáo viên chủ  nhiệm chỉ  đóng vai trò cố  vấn, định hướng cho các em  hoạt động, cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công việc. b) Xây dựng nề nếp tự quản ­ Đề  cử  và gợi ý để  học sinh bầu cử  ra chủ  tịch và các phó chủ  tịch  hội đồng tự  quản là những em nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn, có uy tín có  tinh thần trách nhiệm cao, đoàn kết và có năng lực học tập để giúp giáo viên  điều hành, phân công nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao trong lớp   học. ­ Giờ  sinh hoạt đầu tiên trong 2 tuần sinh hoạt ngoại khoá giáo viên  chủ  nhiệm hướng dẫn học sinh cách điều khiển, các bước trong 1 tiết, sinh  hoạt lớp nhận xét một số nề nếp ( học tập, vệ sinh) lớp trong tuần qua. ­ Các trưởng ban nhận xét hoạt động của ban mình phụ  trách, Chủ  tịch hội đồng điều khiển sau đó giáo viên nêu kế hoạch của tuần đến các em  sẽ thảo luận nêu nhiệm vụ cần làm trong tuần. ­ Sau mỗi buổi sinh hoạt tổ chức các trò chơi nhằm tạo sự  hứng thú  cho các em để các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui từ đó  hạn chế được tình trạng học sinh bỏ học, nguy cơ bỏ học. ­ Cùng các em tổ chức trang trí lớp học thân thiện, mỗi em đề trang trí  từ đó các em có ý thức gìn giữ sản phẩm mình tạo ra  c) Xây dựng nề nếp học tập  Để được giờ học có kết quả tốt thì lớp học phải có nề nếp tốt. Ngay  tuần sinh hoạt ngoại khóa đầu tiên của năm học tôi đã dành thời gian cho học   sinh học nội quy của trường và 10 bước học tập của lớp. Rèn thói quen xin  phép ra, vào lớp, ... Quy định một số thói quen: ­ Giơ tay phát biểu, giơ mặt mếu mặt cười. ­ Quy định về các biểu tượng. ­ Cách ngồi học ngay ngắn, giữ vở sạch chữ đẹp. ­ Trong giờ học không nói chuyện và làm việc riêng. ­ Im lặng khi giáo viên kiểm tra vở. Tôi đã phân loại học sinh ngay từ đầu năm học qua bài khảo sát đầu   năm để  hiểu rõ xem các em chưa hoàn thành về  mặt nào, môn nào từ  đó có   14
  15. biện pháp bồi dưỡng kịp thời, hợp lý. Phân loại học sinh để có kế hoạch phụ  đạo và bồi dưỡng:      * Đối với học sinh năng khiếu:  Trong các tiết dạy, tôi đưa ra từ 1 đến 2 câu hỏi với yêu cầu cao hơn,  dạng các câu hỏi sao (*) hoặc các bài tập nâng cao. Để ra các câu hỏi này, tôi   luôn nghiên cứu kỹ  nội dung bài dạy, tìm hiểu  ở  các tài liệu có liên quan  nhằm mục đích hướng dẫn, kích thích học sinh (nhất là học sinh hoàn thành   tốt kiến thức kỹ  năng môn học) tự  tìm ra kiến thức mới, mở  rộng tầm hiểu   biết của học sinh.      * Đối với học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học:  Các em chán học do bị  mất căn bản  ở  lớp dưới.  Học sinh cảm thấy  việc học rất nặng nề. Qua tìm hiểu theo dõi trong quá trình giảng dạy tôi nắm  được những kiến thức do học sinh bị  hổng. Tôi đưa ra bài tập dễ, sử  dụng   câu hỏi nhỏ, đơn giản, phù hợp với sức học của mỗi em, gọi các em trả  lời  hoặc giải bài tập, đồng thời tuyên dương kịp thời cũng như động viên giúp đỡ  các em trong quá trình thực hiện các bài tập. Từ  các bài tập dễ  tôi nâng dần  lên theo sự tiến bộ của học sinh.  Bên cạnh đó, thành lập các đôi bạn cùng tiến, xếp cho học sinh khá   giỏi ngồi gần bạn yếu, kém. Qua một thời gian tôi thấy các em này tiến bộ rõ  rệt.      Thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để  bổ  sung phương pháp phụ  đạo và bồi dưỡng cho bản thân nhằm nâng cao hiệu   quả bồi dưỡng và phụ đạo mà mình đã đặt ra.      Tạo cho học sinh thói quen và sự  say mê đọc sách bằng cách khuyến  khích các em đọc sách báo ở thư viện mỗi tuần 1 – 2 lần vào giờ ra chơi.      Tôi cố gắng xây dựng ở các em những động cơ học tập, khích lệ các   em vượt mọi trở  ngại bằng sự  quan tâm, nhắc nhở  có sự  khen thưởng kịp   thời.      Trong chương trình Tiểu học, môn toán giữ vị trí quan trọng, thời gian   dành cho môn toán chiếm tỉ  lệ  khá cao trong toàn bộ  quỹ  thời gian các môn  học  ở  Tiểu học. Bởi vì môn toán là một trong những môn khoa học, đối với  bậc Tiểu học, nó góp phần rèn luyện cho học sinh phương pháp   suy luận,  cách giải quyết vấn đề  giúp các em phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ   độc lập, cách xử lý tình huống linh hoạt, sáng tạo. 15
  16.      Dạy học Toán ở  Tiểu học nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức   cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, các đại lượng thông dụng; một số  yếu tố  hình học và thống kê đơn giản. Giải được các bài toán đơn giản có  ứng dụng nhiều trong thực tế  xây dựng nền móng toán học để  các em học   tiếp lên các bậc học trên đồng thời ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng  ngày của các em. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư  duy, khả  năng   suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải   quyết các vấn đề  đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng  tượng, gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương  pháp tự  học và làm việc có kế  hoạch, khoa học, chủ  động, linh hoạt, sáng   tạo.       Muốn lớp mình có nề nếp tốt tôi đã xây dựng kế hoạch chung cho cả  năm học, kế hoạch cụ thể cho từng tháng, từng tuần và cho mỗi kỳ học.   Đối với học sinh chưa hoàn thành, chậm trong học tập thì tôi xếp các  em ngồi lên bàn đầu để các em dễ tiếp thu kiến thức trong mỗi bài học,cũng  để cho giáo viên tiện giúp đỡ và  theo dõi sự tiến bộ của các em .       Phân công rõ nhiệm vụ cho từng em và cho các em tự đăng ký thi đua.  Xây dựng nề  nếp đội ngũ tự  quản cốt cán của lớp. Kết hợp với đội sao đỏ  của liên đội, các em sẽ  tự  kiểm tra về: Nghi thức đội, mặc đồng phục, việc  chuẩn bị học bài và làm bài ở nhà.    Ví dụ: Các trưởng ban theo dõi các thành viên trong Ban và báo cáo  cho Phó chủ  tịch hội đồng tự  quản, Phó chủ  tịch hội đồng tự  quản báo cáo  chủ tịch hội đồng tự quản.  Nêu cao tinh thần tự giác và tăng hứng thú học tập cho học sinh bằng   hình thức thi đua, khen thưởng   Tôi luôn tạo ra tình huống để mỗi học sinh được thể hiện mình trước   tập thể lớp. Từ đó khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ nhỏ của các em.    Chủ tịch hội đồng tự quản theo dõi chung trong lớp.   Động viên đúng mực kịp thời để  các em phấn khởi tự giác trong học  tập cũng như mọi hoạt động khác.   Ngoài khâu tổ  chức lớp, tôi còn vận dụng nhiều phương pháp giáo  dục ngoài giờ  lên lớp để  nâng cao chất lượng giáo dục có nề  nếp như  “ Nói   lời hay, làm việc tốt”; “Nhặt được của rơi trả  lại người đánh mất”; “Đền   ơn đáp nghĩa”; “Lá lành đùm lá rách”   Giáo viên nhắc nhở và tạo thói quen tự  giác học tập, giữ gìn sách vở  ở trường cũng như ở nhà. 16
  17.   Phân công ban học tập tự  lấy và cất đồ  dùng học tập trong giờ  học,   kiểm tra bài làm ở nhà, vở bài tập lúc đầu giờ học    Khuyến khích học sinh hăng say phát biểu, tích cực trong học tập.   Tuyên dương, khen thưởng những em có tiến bộ  trong tuần, trong  tháng.          d) Xây dựng thói quen đoàn kết giúp đỡ bạn cùng lớp ­ Phân công giúp đỡ, gần gũi học sinh yếu, rụt rè, ít hoạt động. ­ Phân công học nhóm giúp đỡ  bạn khi gặp khó khan (nhóm nhà gần  nhau). ­ Tạo thói quen để  học sinh có ý thức tự  giác giúp đỡ  bạn bè thông qua  các bài học môn Đạo đức như: “Có ý thức về việc làm của mình”, “Tình bạn”  ­ Động viên các em tham gia những phong trào đoàn thể, phong trào do   trường tổ chức để rèn luyện thêm sự nhanh nhẹn, bạo dạn và tinh thần đoàn  kết  như: thi văn nghệ  (6 học sinh trong đội văn nghệ  của trường), tham gia   hội khỏe Phù Đổng, thi kể chuyện theo sách đạo đức, … ­ Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phòng chống các tệ  nạn xã   hội xâm nhập vào nhà trường (ký bản cam kết Chiến sĩ an ninh nhỏ). ­ Phối hợp với giáo viên bộ môn dạy cho các em bài hát quy định, trò chơi   dân gian, … nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn. ­ Tổ chức sân chơi cho học sinh ở lớp như: Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu   phú, Rung chuông vàng, … trong các tiết học và hoạt động ngoài giờ  lên lớp  để phát huy và chọn lọc những học sinh có năng khiếu để tham gia các hội thi   do nhà trường tổ chức. e) Xây dựng nề nếp vệ sinh *) Vệ sinh cá nhân ­ Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ vệ sinh thân thể. ­ Phân tích, giảng giải cho học sinh thấy được vai trò của học sinh lớp  5 là lớp lớn nhất trong trường cần phải làm gương cho các em lớp nhỏ  học   tập theo. *) Vệ sinh trường lớp   ­ Giáo viên gương mẫu thực hiện để học sinh noi theo trong mọi hoạt   động dù là hoạt động nhỏ. Ví dụ: Giáo viên nhặt giấy vụn hay túi ni lon trên sân trường, lau vết   bẩn trên tường trong lớp học   17
  18. ­ Cùng với học sinh lau dọn phòng học 1 tuần 2 lần, quét dọn vệ sinh  xung quanh lớp học và trên sân trường, lau các vết bẩn trên tường từ đó hình  thành ý thức bảo vệ, giữ vệ sinh chung của học sinh. ­ Cùng nhau vệ sinh khu vực vệ sinh tự quản của lớp trên sân trường  ngày 2 lần. *) Trồng và chăm sóc bồn cây của lớp  g) Xây dựng nề nếp giờ ra chơi   ­ Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng tập thể dục ngay từ đầu năm,   cử  cán sự  lớp giúp các em lớp 1 xếp hàng tập thể  dục, phân công đội cờ  đỏ  theo dõi để báo cáo với giáo viên kịp thời . ­ Phối hợp TPTĐ hướng dẫn và nhắc nhở các em tập thể dục nghiêm  túc trong giờ ra chơi. ­ Thường xuyên nhắc các em vui chơi an toàn tránh tai nạn thương   tích. Tạo điện kiện để  các em được đọc sách, báo ở thư viện xanh trong giờ  ra chơi để các em tìm hiểu thêm kiến thức đồng thời hạn chế một số tai nạn   trong giờ ra chơi và giữ gìn vệ sinh cá nhân cho các em.  h) Xây dựng nề nếp ra, vào lớp ­ Ngay từ  đầu năm, trong 2 tuần sinh hoạt tập thể  hướng dẫn, nhắc   nhở các em xếp hàng ra vào lớp.    ­ Tôi cho các em đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên   và yêu cầu học sinh phải nhớ số thứ tự.    ­ Khi xếp hàng ra về  các em xếp thành hàng đôi: Lớp trưởng đi đầu  hàng, tiếp theo là thành viên tổ 1 và thành viên tổ hai, ở hàng hai là lớp phó sẽ  dẫn đầu tổ 3 và phía sau là thành viên tổ.     ­ Mỗi khi xếp hàng vào lớp các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị  trí của  mình mà vào ngay hàng ngũ. Cũng như khi ra về ban cán sự lớp đi xen kẽ như  vậy để nhắc nhở các bạn đi cho ngay ngắn, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn  gây mất trật tự,  ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Bắt đầu từ  tháng 11 về  sau   các em đã quen dần và đi vào nề nếp.      Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất nhanh,   tốn ít thời gian và không gây mất trật tự trước lớp học. ­ Cùng với giáo viên bộ môn thể dục nhắc nhở các em đi vào lớp theo   hàng sau mỗi tiết học thể dục không để các em chạy vào lung tung gây ồn ào,  mất tập trung cho các lớp học khác. 18
  19. ­ Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng ra, vào lớp. Phân công đội cờ  đỏ kiểm tra trang phục, khăn quàng, vê sinh ... i) Xây dựng nề nếp lễ phép   Từ đầu năm nhận lớp lớp 3A tôi thấy học sinh nhận quà hay vật gì từ  người lớn, thầy cô ... đều bằng một tay, nói với người lớn trống không. Để tạo được nề  nếp lễ phép ở  học sinh thì trước tiên giáo viên phải  gương mẫu lễ phép để học sinh noi theo, thường xuyên nhắc nhở học sinh lễ  phép với người lớn. ­ Kịp thời tuyên dương những biểu hiện lễ phép của học sinh để  các  bạn noi theo, học tập theo. ­ Giáo dục học sinh qua các bài đạo đức như:   “Kính già, yêu trẻ”,   “Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ”, “Biết ơn thầy giáo, cô giáo” ­ Sau hơn hai tháng thì kết quả đạt được ở lớp tôi là học sinh lễ phép  chào hỏi người lớn không chỉ  là giáo viên trong trường mà cả  người lớn,  người lạ mặt vào trường, chào hỏi, giúp đỡ người già  nhận quà và đồ vật từ  người lớn bằng hai tay k) Xây dựng thói quen phê và tự phê  ­ Tôi đã xây dựng dựa trên tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cho học sinh.   Tập cho các em biết phê và tự phê một cách hồn nhiên, chân thật. Từng tổ các  em sẽ ngồi lại chọn bạn xuất sắc là bạn học tốt, không vi phạm những điều  đã qui định, bạn nào có chuyển biến hơn so với tuần trước thì được chọn là  bạn tiến bộ  cũng được tuyên dương (lấy biểu quyết cả  tổ). Em nào còn vi  phạm cũng được bạn chỉ  ra và nhận sai trước tổ. Tôi đã theo suốt để  tuyên   dương trước lớp những học sinh xuất sắc cũng như  khéo léo xoa dịu, động   viên những em còn sai phạm để sửa chữa ở tuần sau. ­ Phải tìm nguyên nhân   đối với học sinh vi phạm.             *Ví dụ  1: Một học sinh rất ngoan, nhưng  hôm đó em không thuộc bài thì giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân, nếu do   hoàn cảnh khách quan, giáo viên không nên cho điểm kém ngay mà cần động  viên em về học tập cho tốt. Thầy, cô sẽ kiểm tra em lần khác.  *Ví dụ  2: Nếu có em vi phạm nhiều lần về  không học bài và không   làm bài. Giáo viên chủ  nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, nếu do học yếu thì sẽ   phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ bằng cách giảng bài cho hiểu, động viên  em chăm chỉ học tập để không phụ lòng bạn bè, thầy cô. ­ Để  hình thành thói quen cho học sinh, tôi đã duy trì thường xuyên,  liên tục và có điều chỉnh cho phù hợp tình hình của lớp. Đặc biệt luôn tạo   không khí gần gũi, thân mật giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với   nhau.     19
  20.   ­ Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ môn luôn gần gũi các  em, tình thương yêu giữa các em phải công bằng. Chủ  yếu là thái độ  mềm  mỏng, luôn động viên nhắc nhỡ  các em thực hiện tốt. Nhưng cũng cần phải  nghiêm khắc xử lý đối với các em cố tình vi phạm. ­ Sắp xếp không để  thời gian chết  ở  lớp, cũng không để  tiết học  nặng nề, căng thẳng tôi đã chuẩn bị sẵn những bài toán vui, câu đố và chuyện  kể có liên quan nội dung bài để sử dụng cuối tiết. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến 7.2.1. Kết quả môn học và các hoạt động giáo dục * Lớp áp dụng sáng kiến: Lớp 3A ­ Trường Tiểu học Hợp Thịnh * Kết quả đạt được cuối học kì I  môn Toán, Tiếng Việt như sau: Môn TSH Giỏi Khá Trun Yếu S g  bình TS % TS % TS % TS % Tiếng Việt 34 5 21,2 13 36,4 12 36,4 4 6,0 Toán 34 9 27,3 10 30,3 12 39,4 3 3,0     * Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau: Môn TSH Giỏi Khá Trun Yếu S g  bình TS % TS % TS % TS % Tiếng Việt 34 9 39,4 12 33,3 13 27,3 0 Toán 34 12 45,5 14 33,3 8 21,2 0 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2