intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2

  1.  CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP  GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 2 Quảng Bình, tháng 5 năm 2020
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP  GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 2                                     Họ và tên: Nguyễn Thị Lê Trang                                     Chức vụ: giáo viên                  Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mỹ Thủy                                     Quảng Bình, tháng 5 năm 2020
  3. 1. Phần mở đầu:  1.1. Lý do chọn sáng kiến.                 Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà nước ta coi: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bậc Tiểu học được coi là bậc học “ nền tảng” của hệ  thống giáo dục quốc dân. Đó là tiền đề  vững chắc cho việc   đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá,   hiện đại hoá đất nước.            Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành  những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ,thể  chất, thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản để  học sinh tiếp tục học lên trung học cơ  sở.        Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng  nguồn nhân lực phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp  ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ  thông đã và đang được đổi mới mạnh mã theo bốn trụ  cột của giáo dục thế  kỉ  XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết, Học để làm,  Học để tự khẳng định mình.       Từ năm học 2010­2011, Bộ GD­ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng   ghép vào các môn học  ở  bậc tiểu học. Đây là một chủ  trương cần thiết và đúng  đắn. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của   xã hội, các em không chỉ  biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện   những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích  cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào  đời tự tin hơn. 
  4.        Mục tiêu giáo dục là nhằm giúp HS hình thành những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mĩ và các kỹ  năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách  đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây  dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa. Ở  bậc tiểu học là bậc tạo   nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến   thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ  năng sống,  kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã   hội mới.        Năm học 2019­2020 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây   dưng trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ  năng sống cho  học sinh là một trong những nội dung của phong trào. Chính vì vậy nên các nhà  trường cần chú trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.       Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số  vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ  môi trường và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không  phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.       Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã  chọn sáng kiến về  “Một số  kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống   cho học sinh lớp 2” 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm      Ở trường tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng giáo dục kĩ năng sống   có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Để giáo dục  kĩ năng sống cho học sinh  cần hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ  của mình, từ  đó  đưa ra những biện pháp cụ thể để xây dựng tập thể lớp vững mạnh toàn diện.         Đề  xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống   theo hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính 
  5. đặc thù của học sinh Tiểu học và sử  dụng phương pháp, hình thức tổ  chức dạy   học tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung.       Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung   và học sinh lớp 2 nói riêng.      Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp   học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen  ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… 1.3. Phạm vi áp dụng       Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để  “Giáo dục kỹ năng   sống cho học sinh học sinh toàn trường nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng”. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.     Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập  không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa  học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri  thức về  thế  giới trong đó có cả  những mối quan hệ, cách thức  ứng xử  với môi  trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề  quan trọng đối với   mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù  ở  một số  môn học, các  hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề  cập đến. Tuy nhiên, do   nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối   tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.      Qua thực tế giảng dạy HĐNGLL ở lớp 2 trường tiểu học,  bản thân tôi thấy kĩ  năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ  một số  học sinh có hành vi, thói quen, kĩ   năng tốt, các em còn có nhận thức còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về  sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh  thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn  tự nhìn nhận và tự đánh giá về bản   thân, kĩ năng xác định còn hạn chế. Kĩ năng tư duy và  sáng tạo chưa cao. Các em  
  6. còn ngại nói, ngại viết, khả  năng tự  học, tự  tìm tòi, khả  năng đảm nhận trách  nhiệm  còn hạn chế.       Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã   được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù  hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.  a.Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi:  ­ Nhà trường  được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh   học sinh. ­ Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc   dạy học của giáo viên và việc học của học sinh. ­ Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ. ­ Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác giảng dạy. ­ Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. ­  Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau: * Khó khăn:  ­ Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn...  chính điều đó đã  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc học tập cũng như  chất lượng   học của học sinh. ­ Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các   em cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt   cao. ­ Về  đội ngủ  giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy  song còn nhiều khó khăn do có một số  giáo viên trẻ  chưa có nhiều kinh nghiện   trong giảng dạy.  ­ Về phía các bậc phụ huynh:  Cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con;   họ  chỉ  chú trọng đến việc con mình về  nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc   chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! 
  7. b. Thực trạng của HS lớp 2: ­ Năm học 2019­ 2020 tôi được phân công giảng dạy HĐNGLL ở lớp 2. Các em ở  rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại của các em   gặp rất nhiều khó khăn điều đó  ảnh hưởng không nhỏ  đến chất lượng học tập  của các em. Một số em thuộc diện hộ nghèo gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Một   số em con mồ côi, có em mồ côi cả cha lẫn mẹ sống với cô, bác, ông bà.  c. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh  ­ Trong qua trinh rèn kĩ năng s ́ ̀ ống cho trẻ bản thân đa găp nh ̃ ̣ ững thuân l ̣ ợi va kho ̀ ́  khăn sau:     c.1. Thuân l ̣ ợi          Trương hoc n ̀ ̣ ơi bản thân công tac la ngôi tr ́ ̀ ương  đã đat chuân quôc gia nên ̀ ̣ ̉ ́   ̣ ợi trong viêc th thuân l ̣ ực hiên nôi dung xây d ̣ ̣ ựng môi trương giao duc sach đep, an ̀ ́ ̣ ̣ ̣   ̉  Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và   toan cho tre. ̀ biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn  theo sát, quan tâm, hỗ  trợ  cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như  giáo  dục. Chính vì thế bản thân luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp   các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng  động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.     c.2. Kho khăn ́      * Đôi v ́ ới giao viên  ́       Giáo dục  tâp trung nhiêu nôi dung chung cho cac bâc hoc, giao viên ch ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ưa hiêu ̉   ̀ ̀ ội dung phai day tre theo t nhiêu vê n ̉ ̣ ̉ ừng khối lớp nhưng kĩ năng sông c ̃ ́ ơ  ban nao, ̉ ̀   chưa biêt vân dung t ́ ̣ ̣ ừ nhưng kê hoach đ ̃ ́ ̣ ịnh hương chung đ ́ ể  rèn luyện kĩ năng   sống cho học sinh.  Đa sô giao viên l ́ ́ ơn tuôi co nhiêu kinh nghiêm nh ́ ̉ ́ ̀ ̣ ưng viêc đ ̣ ổi   mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự  chuyên cần, tích cực, chủ  động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả  năng tự  học của học sinh coǹ   ̣ ̉ ̉ ́ ơn, năng đông, sang tao nh găp nhiêu kho khăn; giao viên tre tuôi it h ̀ ́ ́ ̣ ́ ̣ ưng lai kho ̣ ́ 
  8. ́ ̀ ương do nhân th trong công tac bôi d ̃ ̣ ưc vê nghê ch ́ ̀ ̀ ưa sâu săc nên ́   giao viên m ́ ơí  thương không an tâm công tac.  ̀ ́       *Đối với học sinh  ­  Trong các nhà trường, trong lớp ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi   nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, ...Các em học  sinh lớp 2 khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như  mạnh dạn bày tỏ  ý kiến.  Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả  lời trống không, không tròn câu và ít  nói lời cảm ơn, xin lỗi với thầy cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều   vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...       * Đối với phụ huynh học sinh ̀ ́ ́ ậc cha me các em luôn nong vôi trong viêc day con; h   ­   Vê phia cac b ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ọ  chỉ  chú   trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán   thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có   một số  bố  mẹ  thì quá nuông chiều con cai khiên tre không co kĩ năng t ́ ́ ̉ ́ ự  phuc vu ̣ ̣  bản thân. Ngược lại, một số  phụ  huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm   giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết…       * Nguyên nhân Một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của các em học  sinh lớp 2 chính là do các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng xác định   giá trị, kĩ năng từ  chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng  thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những  tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự  tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt  qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều.  2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.    Gi   ải  pháp 1:      Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống cho học sinh.
  9.   Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề  rèn kĩ năng sống cho học sinh   tiểu học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học   sinh bậc học tiểu học do Bộ  Giáo dục­ Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu  được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến  thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách   tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc  và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành   vi ứng  xử  cơ  bản trong nhóm bạn, thì trẻ  sẽ  nhanh chóng sẵn sàng và có khả  năng tập  trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Bản thân tôi luôn chịu khó gần gũi  chuyện trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng,  giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh   trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều   hơn, Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn   bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ  các em. Hiệu quả  lớn   nhất là nhà trường đã huy động được sự  tham gia của cha mẹ các em, của các tổ  chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho học sinh,   đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.   Giải  pháp 2:       Xác định những kĩ năng sống cơ  bản và cụ  thể  hóa nội dung  của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học.      Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ  cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1.  Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất   trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự  hợp tác, tự  kiểm soát, tính tự  tin, tự  lập, tò mò, khả  năng thấu hiểuvà giao tiếp.  Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa   chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. 
  10.       Các  nội dung của kĩ năng cơ bản mà người giáo viên cần dạy cho trẻ là:  ­ Kĩ năng sống tự tin : Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân  cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn   cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.  ­ Kĩ năng sống hợp tác: Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng   làm việc với các bạn, thông qua kĩ năng hợp tác giúp  các em sống hài hòa và tránh  xung đột trong quan hệ với người khác.   ­ Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những   kĩ năng quan trọng nhất cần có  ở  các em vào giai đoạn này là sự  khát khao được   học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi  tính tò mò tự nhiên của các em.   ­ Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân biết dung hòa   đối với mong đợi với những người khác, có cách  ứng xử  phù hợp khi làm việc  cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể và diễn đạt ý   tưởng của mình cho người khác hiểu,  học sinh cảm nhận được vị  trí, kiến thức   của mình trong thế  giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ  bản và khá quan  trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc,  viết, làm toán và nghiên cứu khoa học.   Giải  pháp 3:      Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm trong việc dạy:       Giáo viên có thể làm được gì để  dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi  mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học  sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học   sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như  thế  nào để  các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Cần   thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách   thích hợp tuân theo một số  quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh  
  11. vực: thể  chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm­ xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính  tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ  động khám phá tìm tòi, biết vận   dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần  giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp,  các em biết chia sẻ  chăm sóc, trẻ  cần phải học về  cách hành xử, biết lắng nghe  trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau,  giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới.     Gi   ải  pháp 4:      Tạo mối thân thiện và tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ  giáo dục trẻ kĩ năng sống với học sinh.       Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo   viên, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh  được giới thiệu về  mình,   động viên khuyến khích các em chia sẻ  với nhau về  những sở  thích,  ước mơ  tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò  hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự  trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong   gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để  phát triển khả  năng giao   tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường   mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.        Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,   giờ  học nào. Để  việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả  cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.    Gi   ải    pháp 5:   Rèn kĩ năng sống thông qua giáo dục những phẩm chất đạo  đức cho học sinh.        Giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức về  hành vi, thái độ  đối với  bạn bè, thầy cô, bản thân mình. Ghi nhớ năm điều Bác Hồ dạy cho học sinh, học   tập nội quy của nhà trường, của đội, của lớp. Thường xuyên nêu gương người  tốt, việc tốt  cho các thành viên khác để học tập , phấn đấu.
  12.       Động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có sự cố gắng  vươn lên trong học tập và rèn luyện.       Kết hợp với hoạt động Đội, Sao thường xuyên phát động thi đua cùng với các  chủ đề khác nhau để học sinh rèn luyện học sinh như: “ Em làm kế hoạch nhỏ”, ‘ ’Em làm công tác đền ơn đáp nghĩa’’, “ Áo ấm đến trường”, “ Tổ  chức sinh hoạt   dưới cờ  ”... Từ  đó giáo dục truyền thống hào hùng của dân tộc ta một cách sâu  rộng đến từng em để các em noi gương học tập và rèn luyện trở thành con ngoan,   trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.   Gi   ải  pháp 6:     Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học.      Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào  các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An  toàn giao thông .... để những giờ  học sao cho các em được làm để  học, được trải   nghiệm như trong cuộc sống thực.       Trong chương trình lớp 5, Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp   luật xã hội trở  thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo  viên phải sử  dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích  cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh. Tổ  chức cho học sinh thực hiện các hoạt  động học tập phong phú, đa dạng như: kể  chuyện theo tranh; quan sát tranh  ảnh,  băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử  lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm,  múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích  cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc  sử  dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ  hội để thực  hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Hình thành  cho các em kĩ năng giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu , đề nghị,  bày tỏ sự thông cảm và chia sẻ....         Ví dụ: Khi dạy: “Hợp tác với người xung quanh” bản thân tổ chức cho các em,  khám phá bài học dựa vào các câu hỏi để học sinh cùng suy nghĩ và trả  lời sau đó   giúp học sinh kết nối thông qua các hoạt động tìm hiểu bản chất của hợp tác. 
  13. Hoạt động ích lợi của việc hợp tác và cuối cùng là tìm hiểu các yêu câu trong hợp   tác,. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ  chức cho các em đứng thành  vòng tròn đóng vai, thảo luận, tổ chức các trò chơi,…  Lúc đầu các em rất ái ngại   không tự tin khi đóng vai, thảo luận bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp  thời  nhắc nhở  các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một   môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái   nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc  gọn, mạnh dạn hơn. Thông qua bài học học sinh có được kĩ năng biết hợp tác với   bạ  bè và mọi người xung quanh trong công việc chung. Các em có kĩ năng đảm   nhận trách nhiệm hoàn tất nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác.         Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em,   đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Luyện  tập làm đơn. Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Luyện tập viết đoạn đối thoại;  phân vai, đọc diễn màn kịch. Luyện tập làm biên bản cuộc họp( Môn tập làm văn).   Kể  chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Kể  chuyện lớp trưởng lớp tôi ....   được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp,  ứng xử phù hợp, tư  duy sáng tạo,  lắng nghe phản hồi tích cực và kĩ năng hợp tác. Bản thân chỉ  gợi mở  sau đó cho  các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều   bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc  giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị  cho việc hình thành một số  kĩ năng giao  tiếp cộng đồng , kĩ năng xác định giá trị và thể hiện rõ xác định giá trị, thể hiện sự  thông cảm hoặc phản hồi lắng nghe tích cực,…hoặc cung cấp những câu chuyện   mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống.        Ví dụ: Khi dạy bài: “Lập chương trình hoạt động” môn Tập làm văn: bản thân  cho học sinh chuẩn bị  kế  hoạch hoạt động: Phân công chuẩn bị  và chương trình  cụ  thể vào cuối tiết. Nhóm nào lập được chương trình hoạt động , phân công cụ  thể  nhất sẽ  được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ  chức cho các em   trao đổi : “Muốn tổ chức một hoạt động liên quan đế  nhiều người đạt được kết  
  14. quả tốt, các em cần lập chương trình hoạt động như thế nào? ”... qua đó các em sẽ  bộc lộ những suy nghĩ của mình. Qua bài học các em có những kĩ năng sống đó là:   Đảm nhận trách nhiệm, có khả  năng tổ  chức lập kế  hoạch và phối hợp hoạt   động. Các em hợp tác có hiệu quả, thuyết trình tự tin.        Rèn kĩ năng sống có hiệu quả  còn được bản thân vận dụng khá nhiều trong   trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung  gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.        Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Con người cần  gì để sống? Vai trò của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số bệnh  do thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phòng tránh tai nạn đuối nước;...”  giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ  chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ  mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên  làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ  sinh cá nhân hằng ngày, tự  giác thực hiện nếp sống vệ  sinh, khắc phục những   hành vi có hại cho sức khoẻ.  Học sinh có kĩ năng phân tích và đối chiếu các đặc  điểm.Biết tham gia các hoạt động và nghỉ  ngơi một cách hợp lí để  có sức khoẻ  tốt.          Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương  tích khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông, Khoa   học, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phòng chống tai  nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các  em xử lí.         Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi   qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở  đâu? Em có   nên chơi đùa trên đưòng làng không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như  thế  nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự  cần thiết phải đội mũ bảo 
  15. hiểm?”; “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn  xảy ra?”...          Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính  xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ  khác   với   mọi   người   trong   gia   đình;  luôn   hoà   đồng   với   bạn  bè;   tự   tin  khi   nói  năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo  môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua  các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp  bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn.         Ngoài ra, bản thân còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ,   kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học:   Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập  tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt  cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức   khỏe tốt và bảo vệ  được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không  làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ  thuộc vào những điều rất giản dị.   Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học.       Gi   ải  pháp 7:      Giáo dục kĩ năng sống thông qua lao động hướng nghiệp.       Lứa tuổi các em chưa yêu cầu ở mức độ công việc nặng. Bước đầu giáo viên   giúp các em làm quen với những buổi trực nhật, vệ sinh, chăm sóc hoa và đặc biệt   là chú trọng vệ sinh cá nhân hằng ngày.             Lên lịch trực nhật cho từng tổ  rõ ràng, cụ  thể. Hướng dẫn tổ  trưởng điều   khiển, quản lý việc trực nhật của các tổ viên.        Cuối tuần có đánh giá, tuyên dương tổ, cá nhân có ý thức trực nhật tốt. Kết  quả các em rất thích công việc trực nhật, chăm sóc hoa.        Gi   ải    pháp 8:    Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong và tổ  chức các hoạt  động 
  16. vui chơi, rèn luyện thể lực bảo về sức khỏe.     ­  Bao giờ  tôi cũng xem mình là một người chị  phụ  trách Đội  để  chỉ  đạo các  hoạt động trong lớp một cách thường xuyên nhịp nhàng. Ví dụ: Trong các buổi sinh hoạt Đội, tôi luôn luôn kết hợp với giáo viên tổng  phụ  trách Đội để  nắm bắt chủ  đề, chủ  điểm hoạt động nhằm hướng dẫn lớp  mình xây dựng, thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua.     ­ Tham mưu chặt chẽ với Ban chỉ huy Liên đội tuyên dương những em có thành   tích cao trong học tập, lao động vào Đội.      ­ Triển khai kịp thời các phong trào, hoạt động của trường, Đội cho học sinh   của lớp mình như: phong trào mua tăm tre cho hội người mù huyện Lệ Thủy, ủng   hộ bạn nghèo,  “áo ấm đến trường”….     ­  Nề nếp sinh hoạt đầu giờ, giữa buổi các em đều nắm bắt rõ và thực hiện tốt.     ­  Đặc biệt, việc bố trí  ban chỉ  huy chi đội hoạt động theo dõi hằng ngày khá  đều  tay. Các phân đội trưởng có ý thức chăm lo đến chất lượng, kết quả của chi đội mình. Để  động viên khích lệ  các em tôi thường tuyên dương, khen ngợi những  phân  đội, những cá nhân tham gia tốt các hoạt động của Đội nên các em rất thích hoạt  động này.     ­ Thông qua những tiết học thể  dục tôi luôn cho học sinh hiểu được tầm quan  trọng của việc rèn luyện thể dục thể thao.    ­ Tổ chức cho các em tập luyện các động tác thể dục trong chương trình và tập   múa các bài hát của Đội. Nhìn chung các em rất hào hứng.    ­ Luôn tạo không khí vui tươi thoải mái trong các tiết học bằng các trò chơi mà   các  em yêu thích.  Giải    pháp 9:     Rèn kĩ năng sống hiệu quả  qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt   động giáo dục, vui chơi.
  17.       Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các  phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về  trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi   được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn  tuổi... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp.   Bản thân học cách lắng nghe, tìm  hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ  mềm mỏng bằng những tình cảm, cử  chỉ  yêu  thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh nói nặng lời để  các   em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.        Để  rèn kĩ năng sống có hiệu quả  bản thân còn vận dụng thông qua các hoạt   động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.                     Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20­11. Đội đã phát   động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội trong toàn trường. Bản thân đã   hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo. Qua hoạt động  này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình,  đoàn kết và hợp tác nhau rất tốt.          Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân luôn khuyến khích các em xung phong   trả  lời những câu hỏi mà thầy Tổng phụ  trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội  dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện   tốt các phong trào          Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của   các em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan trọng  ̣ trong viêc ren kĩ năng sông cho các em. Các em  ̀ ́  lớn lên, học hành và khám phá   thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết   các vấn đề, thực hành các ý tưởng.   Không những thế, bản thân còn khuyến khích   các em cùng chia sẻ  những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình  với cô với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. 
  18.         Giúp trẻ phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể  vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng. Phối hợp với các tổ  chức trong nhà trường  tổ  chức các hoạt động văn nghệ, thể  thao một cách thiết thực, khuyến khích sự  tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt   động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào  nội dung trên, tôi đã xây dựng kế  hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách  thiết thực, khuyến khích sự  tham gia chủ  động, tự  giác của trẻ. Cụ  thể  như  sau:   Phát động học sinh làm đồ  chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể  loại  dân ca cho học sinh theo phù hợp theo lứa tuổi học sinh lớp 2 . Năm học này, khi  có chỉ  đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ  chức các trò chơi dân gian và các   hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học   sinh tiểu học . Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh   được học được chơi. Phối hợp với Tổng phụ trách tổ  chức các cuộc thi trò chơi   dân gian trong dịp đầu xuân như: Ô ăn quan, Lò cò, Cướp cờ, hội thi “Hò khoan Lệ  Thủy", hội thi “Vẽ  những điều em mơ   ước”. Đồng thời hàng tuần vào tiết chào  cờ  sáng thứ  hai cho các em còn được nghe tuyên truyền về  xây dựng trường học  an toàn, phòng tránh tai nạn thương tích, phòng tránh tai nạn bom mìn; được nghe   tuyên truyền giáo dục giới tính và bình đẳng giới; tìm hiểu về di tích lịch sử ở địa  phương...       Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang  trí  lớp học xanh ­ sạch ­ đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã  hướng  dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.       Một điều không thể  thiếu để  tạo sự  hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các  em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác  động viên, khen thưởng học sinh.   Giải  pháp10:      Động viên, khen thưởng học sinh.
  19.        Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,  ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho   các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh cùng phối   hợp và dành một khoản riêng để  khen thưởng kịp thời động viên các em để  tạo  cho các em có một động cơ  tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi   hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ  tay, trong tiết sinh hoạt cuối   tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa điểm   mười. Vì vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào  cũng có rất nhiều em được bông hoa điểm mười.              Mỗi học kì, bản thân tổng kết một lần để  khen thưởng những em đã đạt   nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi   được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế  các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa   mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu  quả. Các em sẽ  nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao   tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.   Gi   ải  pháp 11:      Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiên day các em ̣ ̣   các kĩ năng sông c ́ ơ bản        Tôi thấy gia đình ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ về mọi mặt. Do đó tôi thường   xuyên gặp gỡ  phụ  huynh hoặc trao đổi cùng phụ  huynh thông qua các buổi họp,   thông qua phiếu liên lạc để  các bậc phụ  huynh hiểu rõ mục đích nội dung giáo   dục.Trong quá trình trao đổi bao giờ  tôi cũng giúp các bậc phụ  huynh nắm chắc   những  ưu điểm, nhược điểm của con em, động viên cha mẹ  quan tâm đến con   mình. Hơn nữa để  tạo mối quan hệ  khăng khít thường xuyên giữ  nhà trường và   phụ  huynh ngay từ  buổi họp đầu tiên của các cha mẹ. Giáo viên cũng đề  nghị  thành lập chi hội phụ  huynh lớp để  các bậc cha mẹ  truyền đạt lại những kế  hoạch chung của trường, lớp nhằm giúp các bậc phụ huynh khác hiểu rõ hơn. 
  20. Ví dụ: Một số học sinh  thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ  thì cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em  cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em   hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích  học đàn thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm để các  em có đủ  tự  tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ  lớn của trường tổ  chức: 20/11; Văn nghệ “Mừng đảng – Mừng xuân”...         Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết  cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ  dùng, vật dụng khác nhau, (bộ  đồ  bếp, bộ  đồ  ăn, bộ  đồ  uống). Sự  sạch sẽ, gọn   gàng, một thói quen nề  nếp, sự  sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ  dùng,  vật dụng, thái độ  ăn uống từ  tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và   đầm  ấm, những cuộc trao đổi nhẹ  nhàng, dễ  chịu… tất cả  những yếu tố  trên sẽ  giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ  năng sống tự lập sau này.         Tóm lại:  Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho học  sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh   trong nhận thức, trong cư xử, đối xử  tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử  lí  trong mọi trường hợp.                  Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt  ở  nhà   trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo  viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình   giảng dạy.          Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm:  biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp  nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là kĩ  năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể.  Trong sinh  hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp ­ tự nhận thức cho 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2