Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
<br />
MỤC LỤC<br />
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br />
<br />
<br />
Mụ Tên đề mục Trang<br />
c<br />
<br />
I. Đặt vấn đề 2<br />
<br />
II. Mục đích nghiên cứu 3<br />
<br />
<br />
<br />
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br />
<br />
<br />
<br />
Mụ Tên đề mục Trang<br />
c<br />
<br />
I. Cơ sở lí luận của vấn đề 3<br />
<br />
II. Thực trạng của vấn đề 4<br />
<br />
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 8<br />
<br />
IV. Tính mới của giải pháp 20<br />
<br />
V. Hiệu quả của sáng kiến. 21<br />
<br />
Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ<br />
<br />
Mụ Tên đề mục Trang<br />
c<br />
<br />
I. Kết luận 23<br />
<br />
II. Kiến nghị 24<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
1<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
<br />
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br />
<br />
I. Đặt vấn đề <br />
Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba <br />
hướng: Đổi mới sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông, đổi mới phương <br />
pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh. Đi đôi với việc đổi mới <br />
SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với <br />
phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã <br />
thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và <br />
khơi dậy được năng lực học tập thực sự của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu <br />
hết các giáo viên chỉ mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, <br />
nắm được kiến thức cơ bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá <br />
giỏi có năng lực tư duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được <br />
quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ học, chưa khuyến khích phát triển tối đa <br />
và tối ưu những khả năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới <br />
phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần <br />
được thực hiện ngay ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng, <br />
ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo <br />
chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh <br />
có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác. <br />
Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng <br />
mức, hầu hết các giáo viên chỉ dừng ở mức độ trang bị kiến thức cơ bản cho đối <br />
tượng học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm <br />
bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ họ chưa mạnh dạn, sợ cháy <br />
thời gian, không đủ thời gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo <br />
viên mặc dù đã dạy theo Mô hình trường học mới nhưng vẫn còn dạy theo cách <br />
như đã từng dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược <br />
lại, một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực <br />
sự quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu <br />
trong lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư tưởng sợ học, giáo <br />
viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ học chính <br />
khóa. Bên cạnh đó là một số phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, <br />
đàm thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được <br />
nhược điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như thế nào để trong một <br />
tiết dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi, <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
2<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ hổng cho <br />
học sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể áp dụng được trong các tiết học <br />
Tiếng Việt hoặc các môn khác cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp bằng <br />
những hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những <br />
biện pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Qua <br />
khảo sát xét thấy tính khả thi và hiệu quả của đề tài rất cao nên trong năm học này, <br />
tôi đã mạnh dạn áp dụng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp ba của trường <br />
tiểu học Lý Tự Trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: <br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN. <br />
Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân <br />
hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác <br />
nhau. Mỗi người có một năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sở trường riêng, <br />
điều kiện riêng. <br />
II. Mục đích nghiên cứu<br />
Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để <br />
vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ <br />
bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua <br />
đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.<br />
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học <br />
phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan <br />
hệ giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp <br />
dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định <br />
hệ thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những <br />
sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng <br />
Việt. <br />
Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.<br />
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ <br />
<br />
I. Cơ sở lý luận của vấn đề<br />
Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định <br />
hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học ở các môn học tự chọn. <br />
Các định hướng này tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù <br />
hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất <br />
phát từ chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
3<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ <br />
có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những <br />
khả năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách <br />
thức phù hợp. <br />
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ <br />
phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện <br />
thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên <br />
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học”.“Đổi mới tư duy giáo dục <br />
một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu <br />
và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện <br />
nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; <br />
khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. <br />
Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công <br />
bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và <br />
học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên <br />
thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên <br />
lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung <br />
của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên <br />
cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.<br />
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục <br />
đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng <br />
của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi <br />
nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành <br />
theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền <br />
tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung <br />
của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương <br />
pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung <br />
đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp <br />
với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu <br />
kém lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể <br />
hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung. <br />
II. Thực trạng của vấn đề<br />
Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, sở trường riêng, tình cảm và <br />
động lực học tập khác nhau mà trong các tiết dạy giáo viên chỉ áp dụng một cách <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
4<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
dạy chung cho cùng một đối tượng học sinh thì chính người giáo đã bỏ lỡ mất <br />
nhiều cơ hội cho những học sinh khác. Chính vì thế trong các tiết học giáo viên biết <br />
áp dụng tốt các biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ rõ ràng, phù hợp với <br />
từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng <br />
lực cá nhân của bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ đáp ứng và phát huy được <br />
nguyện vọng, sở trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác <br />
nhau. Dạy học phân hóa trong giờ Tiếng Việt càng giúp học sinh có nhiều cơ hội <br />
để phát triển. Mỗi cá nhân dù ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ hội để phát <br />
huy hết sở trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện <br />
thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại <br />
trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một <br />
cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt. <br />
Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc <br />
sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những <br />
phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ để <br />
nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn <br />
học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về tư tưởng, đạo <br />
đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát <br />
triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho <br />
học sinh có năng khiếu về môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất <br />
nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm <br />
mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.<br />
Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân <br />
hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ học Tiếng Việt, việc bảo đảm <br />
thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến <br />
khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng <br />
quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả <br />
năng cá thể hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở thành chủ thể của quá <br />
trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng <br />
lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ hội hiểu và nắm được <br />
mức độ nhận thức của từng cá thể học sinh để đề ra những biện pháp tác động, <br />
uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa <br />
trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa <br />
bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia <br />
tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
5<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình. Không gây cảm <br />
giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt <br />
dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị <br />
cũng như tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện <br />
thiết bị hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà <br />
trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt theo Mô hình trường học mới xóa bỏ <br />
mặc cảm, khoảng cách giữa học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít <br />
lại gần nhau hơn qua sự tác động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều <br />
kiện cho đối tượng học sinh yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các <br />
em có cơ hội giúp đỡ nhau cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức <br />
của giờ học.<br />
Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi <br />
mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách <br />
quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở <br />
trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu <br />
hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và <br />
thực hiện lên kế hoạch bài dạy đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề <br />
ra kế hoạch dạy học phù hợp với thực tế của nhà trường, có những quyết định <br />
đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi <br />
trọng việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh, <br />
nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Hàng năm đều tổ <br />
chức bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, nghiệp vụ như việc thực hiện chương <br />
trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học… Việc dự giờ <br />
thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả bài giảng theo quan điểm <br />
phân hóa đã được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý <br />
hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo <br />
quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh <br />
tra chuyên môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để kiểm tra đánh giá <br />
việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu <br />
năm học. Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ <br />
học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu <br />
hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi <br />
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy <br />
học, trang bị cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp ứng yêu cầu dạy học <br />
theo quan điểm dạy học phân hóa.<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
6<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
Thế nhưng trên thực tế dạy học, đại đa số giáo viên chỉ áp dụng hình thức , <br />
phương thức tổ chức ở các tiết dạy chỉ cho cùng một đối tượng học sinh mà thôi. <br />
Vì nhiều khi áp dụng phương pháp dạy học phân hóa nhược điểm cơ bản của đại <br />
đa số giáo viên là trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài soạn, hệ thống bài tập phân <br />
hóa, đầu tư mất nhiều thời gian công sức. Tổ chức lớp học hiện nay hầu hết đều <br />
có số học sinh đông, bàn ghế chưa phù hợp với Mô hình dạy học mới, chênh lệch <br />
nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có <br />
thể chưa kịp nắm được trình độ nhận thức của từng học sinh. Nề nếp, thói quen <br />
học tập ở một số lớp không ổn định khi không có giáo viên chủ nhiệm nên phần <br />
nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác. Nhiều khi ở các tiết dạy <br />
tăng cường giáo viên chưa thật sự mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội <br />
dung. Các nội dung trong tiết dạy còn cơ cấu cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên <br />
việc điều chỉnh thời lượng khó thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với <br />
nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa thật sự gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học <br />
sinh bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin cũng như hứng thú trong học tập, nhu cầu <br />
học tập cho trẻ nhất là học sinh yếu. Việc tổ chức các hoạt động sôi nổi trong các <br />
tiết học cho học sinh còn hạn chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không <br />
tập trung vào hoạt động học. Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá, <br />
trung bình, yếu, cá biệt,..), sĩ số lớp đông nên khi thiết kế bài dạy giáo viên mất <br />
nhiều thời gian, gặp khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan <br />
tâm, bất hòa nên các em chán học, ngại học, ỷ lại làm ảnh hưởng đến nề nếp và <br />
không khí lớp học.<br />
Mặc khác trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối <br />
tượng HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải <br />
chi tiết, cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế <br />
hoạch dạy học. Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết <br />
kế các tiết dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến <br />
HS yếu, không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của <br />
bản thân; HS giỏi, khá dễ bị nhàm chán. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn <br />
hạn chế do trình độ sử dụng của giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.<br />
Theo kết quả khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự Trọng năm học <br />
2017 – 2018 và năm học 2018 2019 vào tháng 9 nêu lên thực trạng về các tiết học <br />
theo phương pháp dạy học đại trà. <br />
<br />
Lớp TSHS Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
7<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
<br />
0 22 em 9 em<br />
3B 31 2017 2018<br />
0 71.0 % 29.0%<br />
<br />
2 em 25 em 6 em<br />
3B 33 2018 2019<br />
6.1% 75.8% 18.1%<br />
<br />
Qua kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng thực trạng về việc dạy học cho <br />
cùng một đối tượng HS không đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS trung <br />
bình và yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn ngại học, không <br />
có động lực và hứng thú học tập trong các tiết học. Nguyên nhân một phần là do các <br />
em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em có <br />
cùng một nhiệm vụ học tập nên nhiều khi học sinh khá giỏi hoàn thành nhiệm vụ <br />
ttrước, nhanh, không được giao nhiệm vụ tiếp theo nên các em thấy tiết học quá dễ <br />
dãi, nhàm chán. Ngược lại những học sinh yếu kém thì cảm thấy áp lực với một số <br />
yêu cầu quá sức của bản thân.. Do vậy, vai trò của người GV trong việc dạy học <br />
phân hóa cho phù hợp với nhận thức của các đối tượng học sinh giúp các em đạt <br />
được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học và có khả năng phát triển năng lực sở <br />
trường của bản thân nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức <br />
quan trọng.<br />
Đại đa số bộ phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới <br />
dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù <br />
hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm <br />
dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số <br />
phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân <br />
phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa <br />
phù hợp). Nhiều giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong <br />
tiết dạy. Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối <br />
tượng học sinh của lớp. Thêm nữa họ chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo <br />
quan điểm dạy học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học <br />
sinh, gia đình và nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như <br />
quản lý học tập của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng <br />
túng chưa quen với phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của <br />
môn học còn tương đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải <br />
với HS, nhất là với những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập <br />
trong tài liệu học tập chưa được thiết kế theo hướng dạy học phân hóa các đối <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
8<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
tượng học sinh, chưa có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn <br />
hạn chế về năng lực thật sự. Chưa thực sự dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách <br />
nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức <br />
được đầy đủ vai trò, vị trí của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của <br />
giáo viên cũng như môi trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy <br />
học mới. Một số GV chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng về chuẩn kiến thức, <br />
kỹ năng đã quy định trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh còn khó <br />
khăn, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của gia đình, gia đình chưa tạo điều <br />
kiện thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là <br />
học sinh sống xa gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa) nên họ chưa dành nhiều thời gian <br />
cho việc đáp ứng các hoạt động ứng dụng của con em tại gia đình, do đó ảnh <br />
hưởng đến chất lượng dạy học. <br />
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề <br />
Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan <br />
trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có <br />
cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn <br />
mà học sinh có được qua các giờ học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về cách tổ chức <br />
dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. Góp phần cung cấp, hỗ trợ <br />
thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng, kĩ thuật dạy học phân hóa trong các <br />
tiết dạy. Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của <br />
bản thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập.<br />
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế <br />
giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, <br />
sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các <br />
em mà tìm cách dạy cho phù hợp. <br />
Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ phát triển chung của học sinh <br />
trong lớp làm nền tảng, bổ sung một số nội dung và biện pháp phân hóa để giúp <br />
học sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những <br />
yêu cầu cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên <br />
trình độ chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình <br />
trường học mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện <br />
thuận lợi để dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết <br />
vấn đề,… đặc biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ học chính <br />
khóa, buổi học thứ hai (các tiết dạy tăng cường) trong ngày sẽ giúp học sinh phát <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
9<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
huy được hết khả năng của mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo <br />
tùy theo mức độ nhận thức của từng đối tượng học sinh. Đạt được như vậy mới <br />
thực sự là đổi mới phương pháp dạy học, góp phần xây dựng đào tạo con người <br />
mới: chủ động, sáng tạo phù hợp với sự phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay. <br />
Trong những năm học vừa qua, người giáo viên dù đã vào nghề nhiều năm hoặc <br />
mới chập chững bước vào nghề đều gặp vướng mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy <br />
môn Tiếng Việt thường gặp nhiều khó khăn hơn bởi bộ môn này chiếm tỷ trọng <br />
lớn nhất so với các bộ môn khác và còn có nhiều phân môn khác nhau. <br />
Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy <br />
học phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc <br />
đẩy học tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói <br />
cách khác, dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học <br />
đồng loạt. Đảm bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ năng <br />
các môn học trong chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS <br />
trung bình, yếu. Dạy học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng giúp cho giáo <br />
viên biết được lượng kiến thức mới và thực hành rèn kỹ năng qua mỗi bài học để <br />
xác định yêu cầu cần đạt cho từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội <br />
dung cần nâng cao cho đối tượng HS giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ cho HS <br />
trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình <br />
bày ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu. Từ đó, giáo viên xác định được những kiến thức <br />
trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS <br />
giỏi, khá được giáo viên căn cứ vào Chuẩn tối thiểu để mở rộng việc cung cấp <br />
kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh trung bình, yếu có cơ <br />
hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự hứng thú và đam mê trong học <br />
tập, không thấy bị thua kém bạn bè. <br />
Giải pháp 1. Các bước tổ chức dạy học theo quan điểm dạy học phân <br />
hóa<br />
<br />
+ Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi lên lớp. <br />
Sự giống và khác nhau về trình độ phát triển nhân cách của mỗi cá thể học <br />
sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội <br />
tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong <br />
năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối <br />
tượng. Có như vậy mới giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những kiến <br />
thức và kỹ năng tối thiểu. Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
10<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
học. Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để phân <br />
loại học sinh trong lớp, thường tôi chia lớp theo 3 đối tượng học sinh: Học sinh có <br />
nhịp độ nhận thức nhanh ( khá giỏi), học sinh có nhịp độ nhận thức chậm ( yếu <br />
kém), và học sinh có nhịp độ nhận thức trung bình. Qua đó, đề ra những yêu cầu <br />
khác nhau đối với từng đối tượng học sinh: mức độ khó dễ các câu hỏi đàm thoại, <br />
mức độ yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, số lượng và yêu <br />
cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối với hai đối tượng khá giỏi và yếu kém <br />
tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ năng cơ bản, có <br />
những sai lầm nghiêm trọng, kết quả kiểm tra thường dưới mức trung bình. Song <br />
tôi cố gắng tìm ra nguyên nhân học kém môn Tiếng Việt của các em. Có em học <br />
kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ nghèo nàn, ..có em học yếu vì nguyên nhân <br />
khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có vướng mắc về tư <br />
tưởng nên chưa tập trung …), để từ đó có biện pháp giáo dục, giúp đỡ như: xây <br />
dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh thủ sự <br />
quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu những đặc <br />
điểm về tư duy, về phương pháp suy nghĩ của các em thường thể hiện ở 3 đặc <br />
điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập <br />
chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng <br />
học sinh kém Tiếng Việt để có phương pháp giúp đỡ. Ở đối tượng học sinh có <br />
thành phần từ logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói, <br />
đi từ tư duy đến hình tượng. Ở đối tựong học sinh có thành phần trực quan hình <br />
tượng mạnh hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ sở trực quan, đi từ <br />
hình tượng đến tư duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập môn Tiếng <br />
Việt các em thường có khả năng học tốt môn Tiếng Việt thường có xu hướng thích <br />
đọc sách báo, đọc những bài văn hay, dùng từ, dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu <br />
loát nhưng thường coi nhẹ các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm <br />
chắc kiến thức cơ bản. Vì vậy, điều quan trọng nhất là hình thành ở các em lòng <br />
ham thích, hứng thú, say mê học Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên <br />
trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn sàng giúp đỡ bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ. <br />
Trong giờ học, tôi suy nghĩ tìm tòi để đề ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu <br />
(chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu trong tài liệu bằng cách khác.<br />
Ví dụ: Ở hoạt động thuộc về phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều <br />
làm việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ đã cho sẵn trong tài liệu <br />
thì nhóm hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ làm việc nhanh, hoàn thành tốt <br />
yều cầu của hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
11<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
cho nhau nghe hoặc tự chọn từ và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với <br />
một trong các từ đó, phù hợp với nội dung kiến thức trong chuẩn kiến thức kĩ năng <br />
của thời điểm học tập hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn <br />
giản. Với học sinh trung bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản theo <br />
bài tập yêu cầu; làm đầy đủ và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở mức độ <br />
hạn chế của giáo viên, có thể học sinh trung bình cũng có thể tiếp thu phần nào <br />
kiến thức nâng cao của học sinh khá giỏi.)<br />
Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về khả năng <br />
lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có <br />
thể được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy <br />
học, tôi thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên <br />
hoặc xuống nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi. <br />
Tuy nhiên, để đảm bảo mục đích và hiệu quả sư phạm, có thể tùy thuộc vào đặc <br />
điểm và số lượng học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn <br />
phân thành 6 nhóm: 2 nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi <br />
gợi niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua <br />
học tập giữa các nhóm. Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay <br />
áp dụng ở các tiết dạy tăng cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng <br />
kiểu chia nhóm ngẫu nhiên hoặc nhóm đa trình độ để tạo điều kiện cho học sinh <br />
khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém. Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau.<br />
+ Lập kế hoạch dạy học, thiết kế tiết dạy từ việc phân tích nhu cầu <br />
của HS<br />
Ở mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu <br />
của bài học. Đây là vấn đề trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong <br />
việc thiết kế bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung <br />
kiến thức bài học thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng <br />
vào từng tình huống cụ thể cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình. <br />
Tôi thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong <br />
tài liệu hướng dẫn học tập và những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế <br />
các pha dạy học đồng loạt tôi sử dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và <br />
giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải <br />
quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư <br />
duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng tạo cho các đối tượng học sinh. Những <br />
tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh <br />
được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và thực hiện được phương pháp giải <br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
12<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần quan trọng trong dạy học theo <br />
xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Tình huống có vấn đề là tình <br />
huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy nghĩ, phải có tri thức mới, <br />
những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay có thể là tình huống có <br />
mâu thuẫn. Để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh cần tạo ra các <br />
tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có nhiều biện pháp tạo <br />
ra tình huống. Khai thác phần hoạt động ứng dụng ở gia đình hoặc khai thác phần <br />
kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức mới. Tôi đặt <br />
vấn đề mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn chưa giải <br />
quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn cho <br />
các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó. <br />
Ví dụ: Hoạt động ứng dụng ở bài 27 C yêu cầu tìm hiểu về con suối hoặc <br />
dòng sông gần nơi em ở.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông đó. Thêm nữa để <br />
các em tự tìm hiểu về sông suối trong thực tế sẽ không phù hợp vì sự an toàn của <br />
các em. Lúc này HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để hoàn thành bài tập ứng dụng <br />
khi mình không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối <br />
đó. Giáo viên có thể gợi ý cho các em nhờ đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của người thân <br />
hoặc thực hiện bằng cách tìm hiểu qua sách báo ở thư viện, qua truyền hình hoặc <br />
qua mạng Internet, …Khi đó học sinh sẽ rất hứng thú và bản thân thấy mình là <br />
người có trách nhiệm các em sẽ thấy vui hơn, có nhiều động lực mới để tiếp tục <br />
nhiệm vụ học tập. <br />
Hoặc ở bài 4C tập 1A ở phần thực hành hoạt động 6: Kể một kỉ niệm đẹp <br />
nhất về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất <br />
lúng túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết ra được một câu nào nhưng đó <br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
13<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
không phải là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em <br />
không có ông bà. <br />
Tình huống có vấn đề được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống <br />
phải lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học <br />
sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề đặt ra bằng hệ <br />
thống câu hỏi dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm <br />
được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy sáng tạo và có tiềm <br />
năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết <br />
hợp lý các vấn đề xảy ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt <br />
học sinh suy luận. Không lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội <br />
dung dưới nhiều hình thức khác nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất <br />
vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau. Hệ thống <br />
câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được <br />
vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì <br />
đằng sau nó là sự phát hiện mới. <br />
Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh <br />
khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ khác nhau của học <br />
sinh. Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu <br />
thích hợp. Có thể phân hóa về yêu cầu bằng cách cho sử dụng mạch hoạt động <br />
phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yêu cầu ở bậc cao hơn so với <br />
các đối tượng học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động <br />
có yêu cầu ở mức thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá <br />
cao, quá xa. Nhiều bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung <br />
bình hoặc khá giỏi. Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể tiến hành dạy <br />
phân hóa nếu như hoạt động đó đảm bảo yêu cầu cho cả ba nhóm đối tượng học <br />
sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị kiến thức <br />
chuẩn cho học sinh trung bình và vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi. <br />
Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về phân môn Tập làm văn <br />
như: Kể về một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự <br />
của phân môn tập làm văn. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
14<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Để cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng thực hiện một yêu cầu, <br />
tạm thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng thú trung bình. Đối với <br />
nhóm hứng thú trung bình, tôi chỉ hướng dẫn học sinh kể theo 4 gợi ý như yêu cầu <br />
của hoạt động. Theo dõi giúp đỡ các em cách dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, đúng <br />
chính tả. Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để các em hình <br />
dung ra một người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn tượng và tự <br />
kể lại không theo gợi ý trong hoạt động về người đó, đồng thời khuyến khích các <br />
em sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình ảnh nên sử dụng biện pháp <br />
so sánh, nhân hóa trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự của mình vào trong đoạn <br />
viết khi kể về người hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được càng nhiều chi <br />
tiết về người đang kể càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung bình giáo viên <br />
cũng có thể định hướng, khuyến khích thêm cho các em, để các em cũng viết được <br />
đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng sủa và cũng có <br />
được những cảm xúc thực sự khi nói về người hàng xóm đó.<br />
+ Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ <br />
chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học. <br />
Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập khi thực hiện các pha <br />
phân hóa: môi trường, phương tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng <br />
Việt, tôi thường sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng học tập khác nhau như: <br />
phiếu học tập, bảng nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy <br />
màu xốp hoặc các lá cờ be bé xinh xinh để làm phần thưởng kích thích cho học sinh <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
15<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
hứng thú học tập khi nhóm có kết quả hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò <br />
chơi tìm từ, tìm nhân vật bí ẩn,…đây là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất <br />
lượng giờ học nên trong các tiết dạy tôi thực sự quan tâm và chú trọng. <br />
Thông thường trong các giờ học, tôi tổ chức cho học sinh học tập trong lớp <br />
học song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí, <br />
làm mới môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế cho học sinh từng nhóm <br />
học ở không gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả <br />
tôi thường chú ý đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết <br />
… các yếu tố đó có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học <br />
sinh nên tôi đề ra các phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học. <br />
Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều <br />
kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động học tập nên là một yếu tố quan trọng <br />
không thể thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực <br />
hóa hoạt động của học sinh. Mỗi giờ học tôi sử dụng các phương tiện dạy học <br />
khác nhau tùy thuộc vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri <br />
thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích hứng thú học tập, tổ chức điều khiển quá trình <br />
học tập … Tôi phối hợp sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng <br />
tình huống cụ thể để lấy điểm mạnh của phương tiện này bổ sung điểm yếu của <br />
phương tiện khác, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương <br />
tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học tập, trò chơi học tập, câu đố vui, … là <br />
những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi tổ chức các pha phân hóa trong giờ <br />
học nên tôi cố gắng sử dụng hợp lý, vì chúng vừa góp phần tổ chức điều khiển quá <br />
trình học tập đến từng cá thể học sinh, phát huy khả năng của mình, kích thích hứng <br />
thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của giáo viên và học sinh, trong đó <br />
các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm bảo. <br />
+ Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.<br />
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong <br />
suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ để tôi biết được mức độ tiến bộ ở từng <br />
nhóm, từng đối tượng học sinh. Từ đó có những biện pháp khích lệ kịp thời, giúp <br />
học sinh phát huy tốt hơn nữa ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn <br />
động lực giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập.<br />
Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử <br />
dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như: <br />
quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh, <br />
<br />
Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền – Trường TH Lý Tự Trọng Trang <br />
16<br />
Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br />
<br />
đánh giá sản phẩm của nhóm,…để đánh giá sự tiến bộ của học sinh hoặc những <br />
điểm học sinh cần cố gắng để có kế hoạch động viên, giúp đỡ học sinh kịp thời, <br />
đồng thời giúp tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt <br />
động dạy học và kịp thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi <br />
nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui <br />
thích với các hoạt động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh <br />
nghiệm, tự điều chỉnh bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và <br />
rèn luyện để học sinh ngày càng tiến bộ hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học <br />
sinh khi đến trường. Khuyến khích các em tự học, sáng tạo. Quan điểm của tôi <br />
trong dạy học phân hóa là luôn cố gắng tạo mối quan hệ dân chủ giữa cô và trò, <br />
giữa trò và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn.<br />
Giải pháp 2. Quy trình tổ chức các pha phân