intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

33
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN

Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> <br /> MỤC LỤC<br /> Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br /> <br /> <br /> Mụ Tên đề mục Trang<br /> c<br /> <br /> I.  Đặt vấn đề 2<br /> <br /> II. Mục đích nghiên cứu 3<br /> <br /> <br /> <br /> Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> <br /> <br /> <br /> Mụ Tên đề mục Trang<br /> c<br /> <br /> I. Cơ sở lí luận của vấn đề 3<br /> <br /> II. Thực trạng của vấn đề 4<br /> <br /> III.  Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 8<br /> <br /> IV. Tính mới của giải pháp 20<br /> <br /> V.  Hiệu quả của sáng kiến. 21<br /> <br /> Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ<br /> <br /> Mụ Tên đề mục Trang<br /> c<br /> <br /> I. Kết luận 23<br /> <br /> II. Kiến nghị 24<br /> <br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 1<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> <br /> Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br /> <br />             I. Đặt vấn đề <br /> Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba  <br /> hướng: Đổi mới sách giáo khoa  ở  tất cả  các cấp học phổ  thông, đổi mới phương <br /> pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh.   Đi đôi với việc đổi mới <br /> SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với <br /> phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã  <br /> thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và  <br /> khơi dậy được năng lực học tập thực sự  của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu <br /> hết các giáo viên chỉ  mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, <br /> nắm được kiến thức cơ  bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá  <br /> giỏi có năng lực tư  duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được <br /> quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ  học, chưa khuyến khích phát triển tối đa <br /> và tối  ưu những khả  năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới  <br /> phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần <br /> được thực hiện ngay  ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng, <br /> ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo <br /> chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh <br /> có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác. <br /> Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng  <br /> mức, hầu hết các giáo viên chỉ  dừng  ở  mức độ  trang bị  kiến thức cơ  bản cho đối <br /> tượng học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm <br /> bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ  họ  chưa mạnh dạn, sợ  cháy <br /> thời gian, không đủ thời gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo <br /> viên mặc dù đã dạy   theo Mô hình trường học mới nhưng vẫn còn dạy theo cách <br /> như đã từng dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược <br /> lại, một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực  <br /> sự  quan tâm đến sự  tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu <br /> trong lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư  tưởng sợ  học, giáo <br /> viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ  học chính <br /> khóa. Bên cạnh đó là một số  phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình,  <br /> đàm thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được <br /> nhược điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như thế nào để trong một <br /> tiết dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi, <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 2<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> trang bị  kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ  hổng cho <br /> học sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể  áp dụng được trong các tiết học <br /> Tiếng Việt hoặc các môn khác cho tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp bằng  <br /> những hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những  <br /> biện pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Qua  <br /> khảo sát xét thấy tính khả thi và hiệu quả của đề tài rất cao nên trong năm học này,  <br /> tôi đã mạnh dạn áp dụng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh  lớp ba của trường  <br /> tiểu học Lý Tự Trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài:   <br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN. <br /> Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân <br /> hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác <br /> nhau. Mỗi người có một năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sở trường riêng, <br /> điều kiện riêng. <br /> II. Mục đích nghiên cứu<br /> Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt  ở  lớp Ba để <br /> vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ <br /> bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua <br /> đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.<br /> Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học  <br /> phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan  <br /> hệ  giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp <br /> dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định  <br /> hệ  thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những <br /> sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng <br /> Việt. <br /> Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.<br /> Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ <br /> <br /> I. Cơ sở lý luận của vấn đề<br /> Xu hướng dạy học phân hóa  ở  nhiều nước được thực hiện bằng cách định <br /> hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học  ở các môn học tự chọn.  <br /> Các định hướng này tạo cho HS các cơ  hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù  <br /> hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất  <br /> phát từ  chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 3<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ <br /> có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những <br /> khả  năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách  <br /> thức phù hợp. <br /> Nghị  quyết Hội nghị  Trung  ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ <br /> phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện  <br /> thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên  <br /> tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy ­ học”.“Đổi mới tư  duy giáo dục <br /> một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu <br /> và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện  <br /> nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; <br /> khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. <br /> Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công  <br /> bằng về  cơ  hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để  toàn xã hội học tập và  <br /> học tập suốt đời, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên  <br /> thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên  <br /> lớp đã có ý thức chuẩn bị  công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ  nhận thức chung <br /> của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên  <br /> cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.<br /> Dạy học phân hóa xuất phát từ  yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả  mục  <br /> đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng <br /> của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi <br /> nhọn", giữa phổ  cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành <br /> theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền <br /> tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ  phát triển chung và điều kiện chung <br /> của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương  <br /> pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ  và điều kiện chung  <br /> đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp  <br /> với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu  <br /> kém lên trình độ  trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để  có thể <br /> hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung. <br /> II. Thực trạng của vấn đề<br /> Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, sở trường riêng, tình cảm và <br /> động lực học tập khác nhau  mà trong các tiết dạy  giáo viên chỉ áp dụng một cách  <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 4<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> dạy chung cho cùng một đối tượng học sinh thì chính người giáo đã bỏ  lỡ  mất  <br /> nhiều cơ hội cho những học sinh khác. Chính vì thế trong các tiết học giáo viên biết  <br /> áp dụng tốt các biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ  rõ ràng, phù hợp với  <br /> từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng <br /> lực cá nhân của bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ  đáp  ứng và phát huy được <br /> nguyện vọng, sở trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác <br /> nhau. Dạy học phân hóa trong giờ  Tiếng Việt càng giúp học sinh có nhiều cơ  hội  <br /> để  phát triển. Mỗi cá nhân dù  ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ  hội để  phát <br /> huy hết sở trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện  <br /> thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại  <br /> trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một  <br /> cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt. <br /> Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc  <br /> sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những <br /> phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ  để <br /> nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn <br /> học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về  tư  tưởng, đạo <br /> đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát <br /> triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho  <br /> học sinh có năng khiếu về  môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất <br /> nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm <br /> mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.<br /> Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân  <br /> hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ  học Tiếng Việt, việc bảo đảm <br /> thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến <br /> khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng <br /> quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả <br /> năng cá thể  hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở  thành chủ  thể  của quá <br /> trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng  <br /> lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ  hội hiểu và nắm được <br /> mức độ  nhận thức của từng cá thể  học sinh để  đề  ra những biện pháp tác động,  <br /> uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa  <br /> trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa  <br /> bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia <br /> tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối  <br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 5<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả  năng, trí tuệ  của mình. Không gây cảm <br /> giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt  <br /> dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở  ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị <br /> cũng như  tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện  <br /> thiết bị  hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà  <br /> trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt theo Mô hình trường học mới xóa bỏ <br /> mặc cảm, khoảng cách giữa học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít  <br /> lại gần nhau hơn qua sự tác động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều  <br /> kiện cho đối tượng học sinh yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các  <br /> em có cơ hội giúp đỡ nhau cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức  <br /> của giờ học.<br /> Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi  <br /> mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách <br /> quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở <br /> trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu  <br /> hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và  <br /> thực hiện lên kế hoạch bài dạy đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề <br /> ra kế  hoạch dạy học phù hợp với thực tế  của nhà trường, có những quyết định  <br /> đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi  <br /> trọng việc  phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ  sở  năng lực, hoàn cảnh, <br /> nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ  chính trị  của nhà trường. Hàng năm đều tổ <br /> chức bồi dưỡng cho GV về  chuyên môn, nghiệp vụ  như  việc thực hiện chương  <br /> trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học… Việc dự giờ <br /> thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả  bài giảng theo quan điểm  <br /> phân hóa đã được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý <br /> hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự  giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo <br /> quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh <br /> tra chuyên môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để  kiểm tra đánh giá <br /> việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu  <br /> năm học. Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ <br /> học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu  <br /> hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi  <br /> dưỡng chuyên môn nghiệp vụ  trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy  <br /> học, trang bị cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp  ứng yêu cầu dạy học  <br /> theo quan điểm dạy học phân hóa.<br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 6<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> Thế nhưng trên thực tế dạy học, đại đa số  giáo viên chỉ áp dụng hình thức ,  <br /> phương thức tổ  chức  ở các tiết dạy chỉ  cho cùng một đối tượng học sinh mà thôi. <br /> Vì nhiều khi  áp dụng phương pháp dạy học phân hóa  nhược điểm cơ bản của đại  <br /> đa số  giáo viên là trước khi lên lớp phải chuẩn bị  bài soạn, hệ  thống bài tập phân <br /> hóa, đầu tư mất nhiều thời gian công sức. Tổ  chức lớp học hiện nay hầu hết đều  <br /> có số  học sinh đông, bàn ghế  chưa phù hợp với Mô hình dạy học mới, chênh lệch  <br /> nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có <br /> thể  chưa kịp nắm được trình độ  nhận thức của từng học sinh. Nề  nếp, thói quen <br /> học tập  ở  một số  lớp không  ổn định khi không có giáo viên chủ  nhiệm nên phần <br /> nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác. Nhiều khi ở các tiết dạy <br /> tăng cường giáo viên chưa thật sự  mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội  <br /> dung. Các nội dung trong tiết dạy còn cơ cấu cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên <br /> việc điều chỉnh thời lượng khó thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với  <br /> nghề, rất yêu trẻ  nhưng chưa thật sự  gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học <br /> sinh bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin cũng như  hứng thú trong học tập, nhu cầu  <br /> học tập cho trẻ nhất là học sinh yếu. Việc tổ chức các hoạt động sôi nổi trong các <br /> tiết học cho học sinh còn hạn chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không <br /> tập trung vào hoạt động học. Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá, <br /> trung bình, yếu, cá biệt,..), sĩ số  lớp đông nên khi thiết kế  bài dạy giáo viên mất  <br /> nhiều thời gian, gặp khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan <br /> tâm, bất hòa nên các em chán học, ngại học,  ỷ lại làm  ảnh hưởng đến nề  nếp và  <br /> không khí lớp học.<br /> Mặc khác trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối <br /> tượng HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải <br /> chi tiết, cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế <br /> hoạch dạy học. Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết  <br /> kế các tiết dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến  <br /> HS yếu, không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của  <br /> bản thân; HS giỏi, khá dễ  bị  nhàm chán. Việc sử  dụng phương tiện dạy học còn  <br /> hạn chế do trình độ sử dụng của giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.<br /> Theo kết quả  khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự  Trọng năm học <br /> 2017 – 2018 và năm học 2018 ­ 2019 vào tháng 9 nêu lên thực trạng về các  tiết học <br /> theo phương pháp dạy học đại trà. <br /> <br /> Lớp TSHS Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành<br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 7<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> <br /> 0 22 em 9 em<br /> 3B 31 2017 ­ 2018<br />              0 71.0 % 29.0%<br /> <br /> 2 em 25 em 6 em<br /> 3B 33 2018 ­ 2019<br /> 6.1% 75.8% 18.1%<br /> <br /> Qua kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng thực trạng về việc dạy học cho  <br /> cùng một đối tượng HS không đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS  trung <br /> bình và yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn ngại học, không  <br /> có động lực và hứng thú học tập trong các tiết học. Nguyên nhân một phần là do các <br /> em chưa có ý thức tự  giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em có <br /> cùng một nhiệm vụ học tập nên nhiều khi học sinh khá giỏi hoàn thành nhiệm vụ <br /> ttrước, nhanh, không được giao nhiệm vụ tiếp theo nên các em thấy tiết học quá dễ <br /> dãi, nhàm chán. Ngược lại những học sinh yếu kém thì cảm thấy áp lực với một số <br /> yêu cầu quá sức của bản thân.. Do vậy, vai trò của người GV trong việc dạy học  <br /> phân hóa cho phù hợp với nhận thức của các đối tượng học sinh giúp các em đạt  <br /> được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học và có khả  năng phát triển năng lực sở <br /> trường của bản thân nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức <br /> quan trọng.<br /> Đại đa số  bộ  phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới <br /> dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù <br /> hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm  <br /> dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số <br /> phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân <br /> phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa  <br /> phù hợp). Nhiều giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong  <br /> tiết dạy. Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối <br /> tượng học sinh của lớp. Thêm nữa họ chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo <br /> quan điểm dạy học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học  <br /> sinh, gia đình và nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như <br /> quản lý học tập của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng  <br /> túng chưa quen với phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của  <br /> môn học còn tương đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải <br /> với HS, nhất là với những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập <br /> trong tài liệu học tập chưa được thiết kế  theo hướng dạy học phân hóa các đối  <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 8<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> tượng học sinh, chưa có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn  <br /> hạn chế  về  năng lực thật sự. Chưa thực sự  dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách  <br /> nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức  <br /> được đầy đủ  vai trò, vị trí của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của <br /> giáo viên cũng như môi trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy <br /> học mới. Một số GV chưa nhận thức đầy đủ  tầm quan trọng về  chuẩn kiến thức,  <br /> kỹ năng đã quy định trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh còn khó  <br /> khăn, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của gia đình,  gia đình chưa tạo điều <br /> kiện thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là <br /> học sinh sống xa gia đình, bố  mẹ  đi làm ăn xa) nên họ  chưa dành nhiều thời gian <br /> cho việc đáp  ứng các hoạt động  ứng dụng của con em tại gia  đình, do đó  ảnh <br /> hưởng đến chất lượng dạy học. <br /> III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề <br /> Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan <br /> trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có  <br /> cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn  <br /> mà học sinh có được qua các giờ  học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về  cách tổ  chức <br /> dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. Góp phần cung cấp, hỗ  trợ <br /> thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng, kĩ thuật dạy học phân hóa trong các <br /> tiết dạy. Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả  năng, trí tuệ  của  <br /> bản thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập.<br /> Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế <br /> giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí,  <br /> sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các <br /> em mà tìm cách dạy cho phù hợp. <br /> Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ  phát triển chung của học sinh <br /> trong lớp làm nền tảng, bổ  sung một số  nội dung và biện pháp phân hóa để  giúp  <br /> học sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ  sở  đã đạt được những <br /> yêu cầu cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên <br /> trình độ chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình <br /> trường học mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện  <br /> thuận lợi để dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết <br /> vấn đề,… đặc biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ  học chính  <br /> khóa, buổi học thứ  hai (các tiết dạy tăng cường) trong ngày sẽ  giúp học sinh phát <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 9<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> huy được hết khả năng của mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ  động, sáng tạo <br /> tùy theo mức độ  nhận thức của từng đối tượng học sinh. Đạt được như  vậy mới <br /> thực sự  là đổi mới phương pháp dạy học, góp phần xây dựng đào tạo con người  <br /> mới: chủ động, sáng tạo phù hợp với sự phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay.  <br /> Trong những năm học vừa qua, người giáo viên dù đã vào nghề  nhiều năm hoặc <br /> mới chập chững bước vào nghề đều gặp vướng  mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy <br /> môn Tiếng Việt thường gặp nhiều khó khăn hơn bởi bộ  môn này chiếm tỷ  trọng <br /> lớn nhất so với các bộ môn khác và còn có nhiều phân môn khác nhau.  <br /> Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy  <br /> học phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ  hổng kiến thức, tạo động lực thúc  <br /> đẩy học tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói <br /> cách khác, dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học  <br /> đồng loạt. Đảm bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ  năng <br /> các môn học trong chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS  <br /> trung bình, yếu. Dạy học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ  năng giúp cho giáo <br /> viên biết được lượng kiến thức mới và thực hành rèn kỹ  năng qua mỗi bài học để <br /> xác định yêu cầu cần đạt cho từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội <br /> dung cần nâng cao cho đối tượng HS giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ  cho HS <br /> trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình  <br /> bày ngắn gọn, cụ  thể, dễ  hiểu. Từ  đó, giáo viên xác định được những kiến thức  <br /> trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS  <br /> giỏi, khá được giáo viên căn cứ  vào Chuẩn tối thiểu để  mở  rộng việc cung cấp  <br /> kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh trung bình, yếu có cơ <br /> hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự  hứng thú và đam mê trong học  <br /> tập, không thấy bị thua kém bạn bè. <br /> Giải pháp 1. Các bước tổ  chức dạy học theo quan điểm dạy học phân <br /> hóa<br /> <br /> + Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi lên lớp. <br /> Sự  giống và khác nhau về trình độ  phát triển nhân cách của mỗi cá thể  học <br /> sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội  <br /> tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong <br /> năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối <br /> tượng. Có như  vậy mới giúp cho tất cả  học sinh đều tiếp thu được những kiến  <br /> thức và kỹ năng tối thiểu. Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 10<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> học. Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để phân  <br /> loại học sinh trong lớp, thường tôi chia lớp theo 3 đối tượng học sinh: Học sinh có  <br /> nhịp độ  nhận thức nhanh ( khá giỏi), học sinh có nhịp độ  nhận thức chậm ( yếu  <br /> kém), và học sinh có nhịp độ  nhận thức trung bình. Qua đó, đề  ra những yêu cầu <br /> khác nhau đối với từng đối tượng học sinh: mức độ  khó dễ các câu hỏi đàm thoại, <br /> mức độ  yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, số  lượng và yêu <br /> cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối với hai đối tượng khá giỏi và yếu kém <br /> tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ  năng cơ  bản, có  <br /> những sai lầm nghiêm trọng, kết quả  kiểm tra thường dưới mức trung bình. Song  <br /> tôi cố  gắng tìm ra nguyên nhân học kém môn Tiếng Việt của các em. Có em học  <br /> kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ  nghèo nàn, ..có em học yếu vì nguyên nhân <br /> khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có vướng mắc về tư <br /> tưởng nên chưa tập trung …), để  từ  đó có biện pháp giáo dục, giúp đỡ  như: xây <br /> dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh thủ sự <br /> quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu những đặc  <br /> điểm về  tư  duy, về  phương pháp suy nghĩ của các em thường thể  hiện  ở  3 đặc <br /> điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập <br /> chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng  <br /> học sinh kém Tiếng Việt để  có phương pháp giúp đỡ.  Ở  đối tượng học sinh có <br /> thành phần từ ­ logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói, <br /> đi từ  tư duy đến hình tượng. Ở  đối tựong học sinh có thành phần trực quan ­ hình  <br /> tượng mạnh hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ  sở  trực quan, đi từ <br /> hình tượng đến tư  duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập môn Tiếng <br /> Việt các em thường có khả năng học tốt môn Tiếng Việt  thường có xu hướng thích  <br /> đọc sách báo, đọc những bài văn hay, dùng từ,  dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu <br /> loát nhưng thường coi nhẹ  các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm <br /> chắc kiến thức cơ  bản. Vì vậy, điều quan trọng nhất là hình thành  ở  các em lòng  <br /> ham thích, hứng thú, say mê học Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên <br /> trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn sàng giúp đỡ  bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ. <br /> Trong giờ  học, tôi suy nghĩ tìm tòi để  đề  ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu <br /> (chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu trong tài liệu bằng cách khác.<br /> Ví dụ:  Ở  hoạt động thuộc về  phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều  <br /> làm việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ đã cho sẵn trong tài liệu <br /> thì nhóm hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ  làm việc nhanh, hoàn thành tốt <br /> yều cầu của hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa <br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 11<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> cho nhau nghe hoặc tự  chọn từ và đặt câu có hình  ảnh so sánh hoặc nhân hóa với  <br /> một trong các từ đó, phù hợp với nội dung kiến thức  trong chuẩn kiến thức kĩ năng  <br /> của thời điểm học tập hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn <br /> giản. Với học sinh trung bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản theo  <br /> bài tập yêu cầu; làm đầy đủ  và đạt yêu cầu các hoạt động với sự  gợi ý ở  mức độ <br /> hạn chế  của giáo viên, có thể  học sinh trung bình cũng có thể  tiếp thu phần nào  <br /> kiến thức nâng cao của học sinh khá giỏi.)<br /> Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về  khả  năng <br /> lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có <br /> thể được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy <br /> học, tôi thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên  <br /> hoặc xuống nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi.  <br /> Tuy nhiên, để  đảm bảo mục đích và hiệu quả  sư phạm, có thể  tùy thuộc vào đặc  <br /> điểm và số lượng học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn <br /> phân thành 6 nhóm: 2 nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi  <br /> gợi niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua <br /> học tập giữa các nhóm. Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay <br /> áp dụng ở các tiết dạy tăng cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng <br /> kiểu chia nhóm ngẫu nhiên hoặc nhóm đa trình độ  để  tạo điều kiện cho học sinh <br /> khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém. Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau.<br /> + Lập kế  hoạch dạy học, thiết kế  tiết dạy từ  việc phân tích nhu cầu <br /> của HS<br /> Ở  mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu  <br /> của bài học. Đây là vấn đề  trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong  <br /> việc thiết kế  bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung  <br /> kiến thức bài học thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng  <br /> vào từng tình huống cụ  thể  cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình. <br /> Tôi thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong  <br /> tài liệu hướng dẫn học tập và những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế <br /> các pha dạy học đồng loạt tôi sử dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và  <br /> giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải  <br /> quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư <br /> duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng tạo cho các đối tượng học sinh. Những  <br /> tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh <br /> được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và thực hiện được phương pháp giải <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 12<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần quan trọng trong dạy học theo  <br /> xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Tình huống có vấn đề là tình  <br /> huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy nghĩ, phải có tri thức mới,  <br /> những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay có thể  là tình huống có <br /> mâu thuẫn. Để  phát huy tính tích cực, tự  giác học tập của học sinh cần tạo ra các  <br /> tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có nhiều biện pháp tạo  <br /> ra tình huống. Khai thác phần hoạt động  ứng dụng ở  gia đình hoặc khai thác phần  <br /> kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức mới. Tôi đặt <br /> vấn đề  mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn chưa giải  <br /> quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn cho  <br /> các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó. <br /> Ví dụ: Hoạt động  ứng dụng  ở  bài 27 C yêu cầu tìm hiểu về  con suối hoặc  <br /> dòng sông gần nơi em ở.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />        <br /> Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông đó. Thêm nữa để <br /> các em tự  tìm hiểu về sông suối trong thực tế sẽ không phù hợp vì sự  an toàn của <br /> các em. Lúc này HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để hoàn thành bài tập ứng dụng <br /> khi mình không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối <br /> đó. Giáo viên có thể  gợi ý cho các em nhờ  đến sự  hỗ  trợ, giúp đỡ  của người thân  <br /> hoặc thực hiện bằng cách tìm hiểu qua sách báo  ở  thư  viện, qua truyền hình hoặc <br /> qua mạng Internet, …Khi đó học sinh sẽ  rất hứng thú và bản thân thấy mình là  <br /> người có trách nhiệm các em sẽ thấy vui hơn, có nhiều động lực mới để  tiếp tục  <br /> nhiệm vụ học tập. <br /> Hoặc  ở bài 4C tập 1A  ở phần thực hành hoạt động 6: Kể  một kỉ  niệm đẹp  <br /> nhất về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất <br /> lúng túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết ra  được một câu nào nhưng đó <br /> <br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 13<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> không phải là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em  <br /> không có ông bà. <br /> Tình huống có vấn đề  được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống  <br /> phải lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề  giáo viên đưa học <br /> sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề  đặt ra bằng hệ <br /> thống câu hỏi dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm  <br /> được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư  duy sáng tạo và có tiềm <br /> năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết  <br /> hợp lý các vấn đề xảy ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt  <br /> học sinh suy luận. Không lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội <br /> dung dưới nhiều hình thức khác nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất <br /> vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau. Hệ  thống  <br /> câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được  <br /> vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì  <br /> đằng sau nó là sự phát hiện mới. <br /> Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh  <br /> khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ  khác nhau của học  <br /> sinh. Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu <br /> thích hợp. Có thể  phân hóa về  yêu cầu bằng cách cho sử  dụng mạch hoạt động  <br /> phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yêu cầu ở bậc cao hơn so với <br /> các đối tượng học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động  <br /> có yêu cầu ở mức thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá  <br /> cao, quá xa. Nhiều bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung  <br /> bình hoặc khá giỏi. Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể  tiến hành dạy <br /> phân hóa nếu như  hoạt động đó đảm bảo yêu cầu cho cả  ba nhóm đối tượng học  <br /> sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ  hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị  kiến thức  <br /> chuẩn cho học sinh trung bình và vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi. <br /> Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về  phân môn Tập làm văn <br /> như: Kể  về  một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự <br /> của phân môn tập làm văn. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 14<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Để cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng thực hiện một yêu cầu,  <br /> tạm thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng thú trung bình. Đối với  <br /> nhóm hứng thú trung bình, tôi chỉ hướng dẫn học sinh kể theo 4 gợi ý như yêu cầu <br /> của hoạt động. Theo dõi giúp đỡ các em cách dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, đúng <br /> chính tả. Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để các em hình <br /> dung ra một người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn tượng và tự <br /> kể  lại không theo gợi ý trong hoạt động về  người đó, đồng thời khuyến khích các  <br /> em sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình ảnh nên sử dụng biện pháp <br /> so sánh, nhân hóa trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự  của mình vào trong đoạn  <br /> viết khi kể về người hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được càng nhiều chi  <br /> tiết về  người đang kể  càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung bình giáo viên <br /> cũng có thể định hướng, khuyến khích thêm cho các em, để các em cũng viết được  <br /> đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng sủa và cũng có <br /> được những cảm xúc thực sự khi nói về người hàng xóm đó.<br /> + Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ <br /> chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học. <br /> Xem xét các yếu tố   ảnh hưởng đến quá trình học tập khi thực hiện các pha <br /> phân hóa: môi trường, phương tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng  <br /> Việt, tôi thường sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng học tập khác nhau như: <br /> phiếu học tập, bảng nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy <br /> màu xốp hoặc các lá cờ be bé xinh xinh để làm phần thưởng kích thích cho học sinh <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 15<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> hứng thú học tập khi nhóm có kết quả  hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò <br /> chơi tìm từ, tìm nhân vật bí  ẩn,…đây là một yếu tố   ảnh hưởng rất lớn đến chất  <br /> lượng giờ học nên trong các tiết dạy tôi thực sự quan tâm và chú trọng. <br /> Thông thường trong các giờ  học, tôi tổ  chức cho học sinh học tập trong lớp  <br /> học song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí,  <br /> làm mới môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế  cho học sinh từng nhóm <br /> học ở không gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả <br /> tôi thường chú ý đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết  <br /> … các yếu tố đó có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học <br /> sinh nên tôi đề ra các phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học. <br /> Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều  <br /> kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động học tập nên là một yếu tố  quan trọng  <br /> không thể thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực <br /> hóa hoạt động của học sinh. Mỗi giờ  học tôi sử  dụng các phương tiện dạy học <br /> khác nhau tùy thuộc vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri  <br /> thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích hứng thú học tập, tổ chức điều khiển quá trình  <br /> học tập … Tôi phối hợp sử  dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng  <br /> tình huống cụ thể để  lấy điểm mạnh của phương tiện này bổ  sung điểm yếu của <br /> phương tiện khác, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương  <br /> tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học tập, trò chơi học tập, câu đố  vui, … là <br /> những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi tổ chức các pha phân hóa trong giờ <br /> học nên tôi  cố gắng sử dụng hợp lý, vì chúng vừa góp phần tổ chức điều khiển quá  <br /> trình học tập đến từng cá thể học sinh, phát huy khả năng của mình, kích thích hứng  <br /> thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của giáo viên và học sinh, trong đó  <br /> các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm bảo. <br /> + Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.<br /> Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong  <br /> suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ  để  tôi biết được mức độ  tiến bộ   ở  từng  <br /> nhóm, từng đối tượng học sinh. Từ  đó có những biện pháp khích lệ  kịp thời, giúp <br /> học sinh phát huy tốt hơn nữa  ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn <br /> động lực giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập.<br /> Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử <br /> dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như: <br /> quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh,  <br /> <br /> Người thực hiện: Dương Thị Kim Truyền     –     Trường TH Lý Tự Trọng      Trang <br /> 16<br /> Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN<br /> <br /> đánh giá sản phẩm của nhóm,…để  đánh giá sự  tiến bộ  của học sinh hoặc những <br /> điểm học sinh cần cố  gắng để  có kế  hoạch động viên, giúp đỡ  học sinh kịp thời,  <br /> đồng thời giúp tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ  chức các hoạt  <br /> động dạy học và kịp thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi  <br /> nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui  <br /> thích với các hoạt động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh <br /> nghiệm, tự điều chỉnh bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và <br /> rèn luyện để  học sinh ngày càng tiến bộ  hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học  <br /> sinh khi đến trường. Khuyến khích các em   tự  học, sáng tạo.   Quan điểm của tôi <br /> trong dạy học phân hóa là luôn cố  gắng tạo mối quan hệ  dân chủ  giữa cô và trò, <br /> giữa trò và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn.<br /> Giải pháp 2. Quy trình tổ chức các pha phân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2