intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:50

61
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”. Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 - là một hướng tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” môn GDCD lớp 10.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực   tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 Vĩnh Phúc, 2020
  2. PHỤ LỤC 1. Lời giới thiệu………………………………………………………………… 1 2. Tên sáng  kiến………………………………………………………………...3 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ……………………………………………  …..3 4. Ngày sáng kiến kinh nghiệm áp dụng lần  đầu………………………………3 5. Mô tả bản chất của sáng  kiến………………………………………………..3 5.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 3 5.2. Đối tượng nghiên  cứu…………………………………………………...3 5.3. Phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu…………………… 4 5.3.1. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… 4 5.3.2. Thời gian nghiên  cứu……………………………………………..4 5.3.3. Kế hoạch nghiên  cứu……………………………………………...4 5.4. Khả năng phát triển và ứng dụng thực  tế………………………………4 5.5. Hiệu quả………………………………………………………………… 4 5.6. Nội dung của sáng kiến………………………………………………… 5 5.6.1. Cơ sở lí  luận……………………………………………………….5
  3. 5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực………. ………………….5 5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới giảng  dạy………….....11 5.6.1.3. Những hạn chế trong đổi mới phương  pháp…………...12 5.6.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn  chế…………………...17 5.6.2. Đổi mới phương pháp dạy học trong chuyên  đề………………..21 5.6.2.1. Nội dung chủ yếu của chuyên đề……………………… 21 5.6.2.2. Mục tiêu của chuyên  đề………………………………...21 5.6.3.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh…………………… 22 5.6.3.4. Phương pháp và kĩ thuật dạy học……………………… 22 5.6.2.5. Nội dung đổi mới phương pháp dạy  học……………….23 5.6.2.6. Kết  luận……………………………………………….....37 5.7. Về hiệu quả và khả năng áp dụng sáng  kiến……………………….....37 6. Những thông tin cần bảo  mật……………………………………………...39 7. Các điều kiện cần thiết áp dụng sáng  kiến…………………………….......39 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến…………………………………...39
  4. 9. Đánh giá lợi ích thu được …... ý kiến tác  giả……………………………...40 10. Đánh giá lợi ích thu được… ý kiến các tổ chức, cá  nhân……………….40 11. Danh sách các tổ chức, cá  nhân………………………………………….40 DANH MỤC VIẾT TẮT
  5. Chữ viết tắt Đọc là GDCD Giáo dục công dân HS Học sinh GV Giáo viên PPDH Phương pháp dạy học THPT QG Trung học phổ thông quốc gia KTDH Kĩ thuật dạy học SGK Sách giáo khoa
  6. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. LỜI GIỚI THIỆU  Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa,  thế giới bước vào thời kì 4.0 với những công nghệ vô cùng hiện đại. Vì vậy vấn  đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới  phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành  giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi  cơ sở đào tạo. Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến  chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ  tạo điều  kiện để  giáo viên và người học phát huy hết khả  năng của mình trong việc  truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư  duy. Phương pháp giảng dạy  khoa học sẽ  làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự  hứng   thú, say mê và sáng tạo của người học. Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó  chủ yếu là thầy nói ­ trò nghe. Ngay tận thập niên 1990, phương pháp này vẫn  đang chi phối mạnh  ở các trường trong cả nước. Học sinh thường phải ngồi   nghe liên tục trong một khoảng thời gian dài. Trong phương pháp này, giáo  viên dạy và học sinh  được dạy; giáo viên biết mọi thứ và học sinh không biết  gì; giáo viên suy nghĩ và học sinh buộc phải nghĩ theo cách của giáo viên; giáo  viên nói và học sinh lắng nghe; giáo viên quyết định (chọn lựa) và học sinh  phải làm theo. Nhìn chung, giáo viên là chủ thể còn học sinh là khách thể của   quá trình dạy ­ học. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến  thức,   hướng   đến  mục  tiêu  làm  cho  học  sinh   hiểu  và  ghi  nhớ   kiến  thức.  Phương pháp này ít quan tâm đến việc phát triển tư duy, huấn luyện kỹ năng   và rèn luyện thái độ  cho người học. Nó dẫn đến tình trạng hầu hết học sinh   học tập thụ  động. Hậu quả  của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự  thụ  động của người học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên  nhân tạo cho người học sự  trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu  khả  năng thuyết trình, lười tư  duy và thiếu tính sáng tạo trong tư  duy khoa   học.  Người học còn quan niệm rằng chỉ  cần học những gì giáo viên giảng  trên lớp là đủ. Ngoài ra sự  thụ  động của họ  còn thể  hiện qua phản  ứng của   họ  đối với bài giảng của giáo viên trên lớp. Họ  chấp nhận tất cả  những gì   1
  7. giáo viên trình bày. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ  mang tính một chiều. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để  nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm   tăng khả  năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ  hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí  tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả  năng tổ  chức, sử  dụng kiến thức và khả  năng sáng tạo. Việc áp dụng các  phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có  những tài liệu dạy ­ học mới.  Những tài liệu này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến   khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và   sáng tạo của học sinh.  Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy phát triển năng lực,  phẩm chất người học đang được nhiều giáo viên thực hiện. Đổi mới hương  pháp giảng dạy không có nghĩa là loại trừ  phương pháp thuyết giảng. Thực  chất đó là sự  kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại  với mục tiêu phát huy cao độ  tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của   người học. Với phương pháp này yêu cầu người giảng không chỉ  nắm vững  những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo  ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người giảng có thể truyền thụ những vấn   đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự nhiên, sinh động và hứng thú.    Việt  Nam  chúng  ta  đứng  trước  những cơ   hội  mới  nhưng cũng  gặp  không ít những thách thức khó khăn. Chính vì thế  ngành giáo dục phải đổi  mới thì mới nâng cao được nguồn lực con người, trong đó một việc quan   trọng và cần thiết là đổi mới phương pháp giảng dạy. Môn GDCD trong trường THPT từ trước đến nay đều bị coi là môn học   phụ, không có vị  trí quan trọng đối với học sinh, giáo viên, các cấp quản lí.   Với quan điểm của giáo viên bộ  môn, cá nhân tôi nhận thấy môn GDCD lớp  10 rất quan trọng để hình thành thế giới quan và phương pháp luận và những  quan điểm đúng đắn về đạo đức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,  giữa cá nhân và xã hội. Học sinh có những quan điểm đúng đắn thì xã hội sẽ  có những công dân tốt, là động lực thúc đấy phát triển xã hội. 2
  8. Bài 7­ GDCD lớp 10 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”  ­ là nội dung thuộc triết học duy vật lịch sử mang tính khái quát và trừu tượng  cao. Học sinh biết được quá trình  nhận thức và vai trò của thực tiễn, từ đó vận   dụng vào quá trình học tập và đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân tạo nên  những thành công cho cá nhân và cho xã hội.  Bài 7­ GDCD là một trong những   bài học có vai trò quan trọng trong chương trình GDCD lớp 10 và cũng có vai trò   quan trọng trong hình thành thế  giới quan, phương pháp luận của cá nhân. Do  yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh, sở  giáo dục đào tạo Vĩnh Phúc kiểm tra học kì theo đề chung của sở và thực hiện   chuẩn quy chế coi thi nên cần tiếp thu kiến thức một cách thực sự. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Đổi mới phương   pháp dạy học bài 7 “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”,   GDCD lớp 10. Để góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo  hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh,phát huy tính tích cực học tập   của HS. 2. TÊN SÁNG KIẾN  Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực   tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Đổi mới phương pháp dạy học theo   hướng phát triển năng lực và phẩm chất  của học sinh trong bài  “Thực tiễn   và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. 3. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN  ­  Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Đổi mới phương pháp dạy học bài 7   “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. ­ Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Đổi mới phương pháp dạy học bài   7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. 4.  NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG   THỬ  Tháng 8 năm 2019 5. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN  5.1. Mục đích nghiên cứu  ­ Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực  tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”. 3
  9. ­ Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học  bài 7 “Thực   tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”,  GDCD lớp 10  ­   là một hướng  tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với  nhận thức” môn GDCD lớp 10. 5.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu   Bài nghiên cứu đã được triển khai với học sinh của lớp 10 qua năm học 2018 ­   2019, 2019 ­ 2020. 5.3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu 5.3.1. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu này tôi đã thực hiện các phương  pháp sau: ­ Phương pháp trải nghiệm thực tiễn: Tổ  chức các hoạt động đổi mới  giảng dạy trên các lớp được Nhà trường phân công.  ­   Phương pháp quan sát: Tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của  đồng nghiệp. ­   Phương pháp trao đổi, thảo luận: Trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm từ  đồng nghiệp. ­ Phương pháp so sánh đối chiếu: Kết quả kiểm tra chuyên đề của học sinh đưa ra   nhận xét, rút kinh nghiệm trong giảng dạy. ­ Phương pháp thăm dò ý kiến của học sinh: Phát phiếu thăm dò để biết  ý kiến   của học sinh về đổi mới phương pháp dạy và học, giáo viên tổng kết ý kiến đưa ra  những quyết định phù hợp. 5.3.2. Thời  gian nghiên cứu  Đề tài này đã được tiến hành từ tháng 8 năm 2018 đến nay. 5.3.3. Kế hoạch nghiên cứu Với nhiều năm giảng dạy môn GDCD, vừa tìm tòi, học hỏi về  kiến  thức, phương pháp giảng dạy, sau đó áp dụng phương pháp và kĩ thuật tích  cực vào thực thiễn giảng dạy. Trong quá trình áp dụng đổi mới phương pháp  giảng dạy tự  mình khảo sát tình hình thực tế  rồi tự  đưa ra kết luận về  tính  khả  thi của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Ngoài ra tôi đã học hỏi  kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Từ  đó, rút ra kinh nghiệm đổi mới phương  pháp dạy học, trong giờ học học sinh sẽ là trung tâm, tự học, tự lĩnh hội kiến  thức để nâng cao sự hiểu biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống.  4
  10. 5.4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế ­ Trong sáng kiến này tôi đề cập đến việc giúp giáo viên giảng dạy môn  GDCD tham khảo một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo nên  sự hứng thú cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và nâng cao chất   lượng môn GDCD. ­ Các phương pháp mang tính khả thi cao phù hợp mọi đối tượng học sinh, các  nhà trường.  5.5. Hiệu quả Áp dụng sáng kiến này học sinh học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực  tiễn đối với nhận thức” sẽ tích cực chủ động và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến   thức. 5.6. Về nội dung của sáng kiến 5.6.1. Cơ sở lí luận 5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có  nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. PPDH được hiểu là cách thức,   là con đường hoạt động chung giữa GV và HS, trong những điều kiện dạy học   xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ  rút  gọn, được dùng  ở  nhiều nước để  chỉ  những phương pháp giáo dục, dạy học  theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của người học. “Tích  cực” trong PPDH ­ tích cực được dùng với tức là hoạt động, chủ  động, trái  nghĩa với không hoạt động, thụ  động chứ  không dùng theo nghĩa trái với tiêu   cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động  nhận thức của người học, tức là tập trung vào phát huy tính tích cực của người  học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy   nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so   với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ  đạo cách  học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng  ảnh hưởng tới cách dạy  của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt  động nhưng thầy giáo chưa đáp  ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích   5
  11. cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích   nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng  cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập   chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy   học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy   với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và  học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”. Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của   hoạt động dạy, lại vừa là chủ  thể  của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động   học, dưới sự  chỉ  đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ  động cải biến  chính mình về  tri thức, năng lực, thái độ  hoài nghi, hoàn thiện nhân cách,  không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ  động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy   học sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì   dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy  học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ  thể.  Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học   chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội dung, biện pháp, công cụ,   tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học.  Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực. * Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học ­ đối tượng của hoạt động  “dạy”, song song là chủ thể của hoạt động “học” ­ được cuốn hút vào các hoạt động   học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều  mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy   giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của thực tế, người học trực tiếp quan   sát, bàn bạc, làm thí nghiệm, giải quyết sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ  đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến   thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy  tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ  đơn giản truyền đạt kiến   thức mà còn hướng dẫn học sinh hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp  6
  12. cho từng học sinh biết hoạt động và tích cực dự khán các hoạt động của cộng  đồng. * Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho   học sinh không chỉ là một phương pháp nâng cao công hiệu dạy học mà còn là  một mục tiêu dạy học. Trong tầng lớp hiện đại đang biến đổi nhanh ­ với sự  phát triển khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão ­ thì không thể  nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải  quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ  bậc Tiểu học và càng  lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì then chốt là phương pháp tự  học. Nếu  rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói thường, (lập  trường tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong  mỗi con người) cuối cùng học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì thế, ngày nay  người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ  lực tạo   ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề tự  học ngay trong trường phổ thông, không chỉ  tự  học  ở  hậu đường bài lên lớp  mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. * Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà kiến thức, tư  duy của học sinh không thể  đồng  đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận   sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài  học được thiết kế thành một xâu công việc độc lập.  Áp dụng biện pháp tích cực càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc   sử  dụng các phương tiện công nghệ  thông cáo trong nhà trường sẽ  đáp  ứng  đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học  sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi kiến thức, tài năng, thái độ  hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp   học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy ­ trò, trò ­ trò, tạo nên mối quan hệ  hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung tri thức. Phê  duyệt đàm luận, tranh luận trong tập thể, quan điểm mỗi cá nhân được thổ  lộ, tự  tin tuyên bố  hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ  7
  13. mới. Bài học  ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người  thầy giáo. * Kết hợp đánh giá thầy với tự đánh giá của trò trong quá trình dạy học tích   cực. Trong dạy học, việc đánh giá học trò không chỉ  nhằm mục đích nhận   định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn   cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy. Trước đây, giáo viên giữ  độc quyền đánh giá học trò. Trong phương  pháp tích cực, giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để  tự  sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này, giáo viên cần tạo hoàn cảnh  thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự  đánh giá đúng và  sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự  thành đạt trong cuộc  sống mà nhà trường phải trang bị  cho học sinh. Theo hướng phát triển các  phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích ứng  với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá chẳng thể dừng lại ở tái hiện  các tri thức, lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc  đề  xuất trí sáng ý, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực   tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không  còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên, song cho nhiều thông tin   kịp thời hơn để sửa đổi hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Từ dạy và học bị động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng   vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức, giáo viên trở nên người thiết kế, tổ  chức, chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm   lĩnh nội dung học hỏi, chủ động đạt các mục đích tri thức, năng lực, thái độ hoài  nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp, học trò hoạt động là chính, giáo viên có   vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công  sức, thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành  bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, cổ vũ, cố vấn, trọng tài trong các  hoạt động tìm tòi háo hức, tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ  chuyên trị sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức, chỉ  dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự  kiến của   giáo viên. 8
  14. So sánh đặc điểm của dạy học truyền thống và dạy học tích cực như   sau: Dạy học truyền thống Các mô hình dạy học tích cực Quan  Học   là   qúa   trình   hấp  Học là qúa trình  kiến tạo; học trò tìm tòi,  niệm thụ và lĩnh   hội,   qua   đó  khám phá, phát hiện, tập luyện, khai khẩn  hình   thành   kiến   thức,  và xử lí thông tin , … tự hình thành thông  năng lực, tư  tưởng, tình  hiểu, năng lực và phẩm chất. cảm. Bản  Truyền   thụ tri   thức,  Tổ  chức hoạt   động nhận thức của học  chất truyền thụ và chứng minh  trò. Dạy học trò cách tìm ra chân lí. chân lí của giáo viên. Mục  Chú   trọng cung   cấp tri  Chú  trọng hình  thành các  năng lực (sáng  đích thức, năng lực. Học để  tạo,   hợp   tác…)   dạy biện   pháp và nhận  đối phó với thi cử . Sau  thức  khoa học, dạy cách học. Học để đáp  khi thi xong những điều  ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay  đã   học   thường   bị   bỏ  và tương lai. Những điều đã học cần thiết,  quên hoặc ít dùng đến. hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát  triển xã hội. Nội  Từ   sách   giáo   khoa   +  Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các  dung giáo viên tài liệu khoa học liên quan, thử  nghiệm,  thực tế…gắn với: ­ Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu  cầu của HS. ­ Tình huống thực tiễn, bối cảnh và môi  trường địa phương. ­ Những vấn đề học trò quan tâm. biện  Các   biện   pháp diễn  Các biện pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết  pháp giảng,   truyền   thụ   tri  vấn đề; dạy học tương tác. thức một chiều. Hình  Cố  định: giới hạn trong  Cơ  động, linh hoạt: Học  ở  lớp,  ở  phòng  thức   tổ  4   bức   tường   của   lớp  thử   nghiệm,   ở   hiện   trường,   trong   thực  chức học, giáo viên đối diện  tế… , học cá nhân chủ nghĩa, học đôi bạn,  với cả lớp. học theo cả  nhóm, cả  lớp đối diện với  9
  15. giáo viên. Một số phương  pháp dạy học tích cực phổ quát * Phương pháp vấn đáp Vấn đáp (đàm thoại) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học  sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học  sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ  vào thuộc tính hoạt động nhận  thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp. * Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh  tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề  nảy sinh   trong thực tế  là một năng lực đảm bảo sự  thành công trong cuộc sống, đặc   biệt trong kinh doanh. Vì thế, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và  giải quyết những vấn đề  gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá   nhân, nhà ở và cộng đồng không chỉ  cố  ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học   mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.  Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học trò vừa  nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát  triển tư duy hăng hái, sáng tạo, được để  sẵn một năng lực thích ứng với đời   sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh. * Phương pháp hoạt động nhóm Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, nội  dung của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia không hẹn hay có chủ tâm, được  duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ  hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân  việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm  việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn.  Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí  thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết  quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước  toàn lớp, nhóm có cử  ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình bày   một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.  10
  16. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ  các  băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng  cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ  hiểu  biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học  trở nên quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo  viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi  thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.  Tuy nhiên, phương pháp này bị  ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi   không gian  phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành  thử  giáo viên phải biết tổ  chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương   pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ  rằng, trong hoạt động nhóm, tư  duy   hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương   pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ  chức lao  động. Cần tránh xu hướng hình thức và xơ cua lạm dụng, quan niệm cho rằng  tổ  chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của đổi mới PPDH và   hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. * Phương pháp đóng vai ­ Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự  nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những điểm tích cực   sau: + Học trò được rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử và giãi bày thái độ hoài nghi  trong môi trường không có các mối nguy hiểm, rủi ro trước khi thực hành thực tiễn. + Gây hứng thú và chú ý cho học trò. + Tạo hoàn cảnh và phát huy tính sáng tạo của học trò. + Khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi, hành vi của học trò theo chuẩn  hành vi tư tưởng và chính trị xã hội. + Thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. * Phương pháp động não Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh   được nhiều ý tưởng, nhiều giả  định về  một vấn đề  nào đó, thực hiện phương  pháp này giáo viên đưa ra một hệ thống thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận. 11
  17. 5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới phương pháp dạy học môn   GDCD trường THPT hiện nay.  Năm 2017 với sự thay đổi về việc thi THPT QG, xét đại học môn GDCD  là một bộ môn thi để xét tốt nghiệp. Cùng với kế hoạch đổi mới nội dung kiến   thức các bộ môn và các khối lớp, các cấp học, Bộ giáo dục đã chỉ đạo phải đổi   mới phương pháp dạy học dần để phù hợp với nội dung mới. Môn GDCD cũng  nằm trong sự đối mới đó. Hiện nay giáo viên GDCD trong cả nước đang từng   bước đổi mới phương pháp dạy học và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Với kế  hoạch đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sinh hoạt chuyên  môn theo cách phân tích hoạt động của học sinh do Bộ giáo dục chỉ đạo. Sở giáo   dục và đào tạo Tỉnh Vĩnh Phúc triển khai việc lĩnh hội sự đổi mới này từ cấp trên   sau đó truyền đạt lại cho giáo viên của từng bộ môn trong nhà trường trên địa bàn  tỉnh. Lãnh đạo các nhà trường rất quan tâm và chú trọng đến việc đổi mới  phương pháp giảng dạy và sử dụng các kĩ thuật dạy học trong giờ học GDCD.   Vào những dịp như  20/11, 8/3…. Một số  nhà trường tổ  chức những buổi thao  giảng mẫu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tích cực.  Giáo viên rất hăng hái, tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng  dạy phù hợp với yêu cầu của xã hội và kiến thức hiện nay. Những giờ giảng   GDCD giáo viên đã sử dụng được một số phương pháp và kĩ thuật tích cực vào   để học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức chứ không phải thụ động lĩnh hội như  trước.  Để có một giờ học đổi mới thành công, giáo viên không những có kiến   thức  sâu rộng về  nội  dung bài học mà giáo viên còn  phải nắm chắc các  phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực thật tốt. Giáo viên giảng dạy môn  GDCD đã đầu tư, chuẩn bị giáo án thật tốt, tự tìm tòi, học hỏi hiểu sâu, hiểu   rộng về  nội dung bởi đổi mới phương pháp dạy học, nội dung bài học sẽ  được tiếp cận từ nhiều phía không theo sự sắp xếp sẵn của giáo viên. Giáo viên môn GDCD đã có một số  kiến thức nhất định về  phương  pháp và kĩ thuật dạy học thông qua các lớp tập huấn của sở giáo dục tổ chức.   Từ  đó đã vận dụng được vào trong quá trình giảng dạy, lựa chọn những   phương pháp phù hợp vào từng nội dung bài học, tổ chức đổi mới giảng dạy  để đạt kết quả cao nhất, điều này rất khó đối do đặc thù của môn học. Giáo viên GDCD cũng đã tiếp cận với các máy móc công nghệ thông tin  để  hỗ  trợ  cho việc đổi mới phương pháp của mình đạt hiệu quả  cao như:   12
  18. dùng bảng thông minh, giáo án điện tử, video…. Ngoài ra, để  học hỏi thêm  công nghệ thông tin và phương pháp dạy học tích cực giáo viên tham gia vào  các diễn đàn đổi mới giảng dạy môn GDCD, học online để  tiếp cận và tự  nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học. Giáo viên môn GDCD  và giáo viên các bộ môn khác trong nhà trường THPT không chỉ đổi mới trong  những giờ giảng mẫu hay dự giờ nữa mà đang tích cực đưa việc đổi mới vào   trong các giờ học, các nội dung kiến thức. Giáo viên GDCD rất tích cực tham gia vào các hoạt động sinh hoạt  chuyên môn của trường, của cụm và trong toàn tỉnh. Trong những buổi sinh  hoạt chuyên môn giáo viên trao đổi, chia sẻ  chân thành, thẳng thắn những  thực tiễn và kinh nghiệm đổi mới của bản thân đề  cùng nhau học hỏi, thảo   luận góp ý. Từ việc trao đổi này lựa chọn được phương pháp và kĩ thuật dạy   học hợp lí nhất phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh trong các giờ học đổi mới rất sôi nổi, hăng hái tham gia và hoàn   thành tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao. Học sinh cũng mong muốn được học   những giờ  đổi mới vì các em được hoạt động, được tự  mình suy nghĩ tìm tòi,  không phải ngồi im nghe cô giáo giảng như trước. 5.6.1.3. Những hạn chế  trong việc đổi mới phương pháp dạy học   môn GDCD hiện nay Mặc dù Bộ  giáo dục Việt Nam triển khai sâu rộng đổi mới phương  pháp dạy học để  tiến tới đổi mới nội dung chương trình, mục tiêu giáo dục  trong những năm tới. Việc đổi mới phương pháp dạy học đổi với các cơ  sở  giáo dục vẫn chưa triển khai được hoặc triển khai chưa hiệu quả, chưa đúng  bản chất và yêu cầu của Bộ  giáo dục đề  ra, chưa đáp ứng được điều mong   đợi của học sinh, gia đình và xã hội. Hầu hết giáo viên GDCD chưa thực hiện được đổi mới phương pháp dạy học  theo hướng tích cực mà vẫn đang sử dụng phương pháp dạy học truyền thống trong  giảng dạy môn GDCD, giáo viên vẫn là trung tâm, truyền đạt kiến thức còn học sinh   tiếp thu kiến thức một cách thụ động, mọi tri thức đều do giáo viên định hướng sắp   xếp và học sinh sẽ tiếp thu theo sự sắp xếp đó. Nếu có đổi mới phương pháp dạy học  thì nhìn chung chưa mang lại hiệu quả. Số giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc  phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tự lực sáng tạo của học sinh còn  chưa nhiều. 13
  19. Giáo viên GDCD nói riêng và giáo viên các bộ  môn nói chung ngại thay  đổi phương pháp dạy học vì nhiều năm họ  sử  dụng phương pháp dạy học  truyền thống, truyền đạt thụ động, mọi nội dung tri thức và diễn biến trong giờ  học do giáo viên quyết định. Thêm nữa giáo viên ngại học hỏi đặc biệt là   phương pháp truyền đạt. Vì thế nên nhiều giáo viên GDCD không mặn mà, hào  hứng về kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học. Việc ứng dụng công nghệ ­ truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy   học chưa thực hiện rộng rãi và hiệu quả  trong các trường trung học phổ  thông. Hoạt động kiểm tra, đánh giá vẫn chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức  và đánh giá qua điểm số, chưa chú ý đến đánh giá về kĩ năng, năng lực thái độ  qua một quá trình. Kiến thức chuẩn nặng nề  khiến cho giáo viên duy trì lối  dạy học đọc chép và học sinh học thuộc lòng. Nhiều giáo viên biên soạn đề  kiểm tra chưa vận dụng đúng quy trình nên bài kiểm tra còn mang tính chủ  quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ  chức hoạt động dạy học trên lớp chưa thực hiện một cách khoa học. Các hoạt   động đánh giá định kì, đánh giá diện rộng cấp tỉnh, cấp quốc gia môn GDCD  chưa đồng bộ. Nhiều học sinh chưa sẵn sàng để tham gia vào giờ học đổi mới. Các em  còn e ngại, rụt rè ngại thể hiện. Bên cạnh đó, từ nhỏ các em đã được tiếp cận   với cách học thụ động nên trở thành thói quen, lối mòn trong nhận thức.  Như vậy việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích  cực còn rất nhiều hạn chế đặc biệt từ  giáo viên và học sinh. Tôi mạnh dạn   đưa ra nguyên nhân của những hạn chế này như sau: Thứ  nhất, nhận thức về  phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế:   Sự  phát triển hay một cuộc cách mạng trong  khoa học giáo dục thực chất là  tạo tiền đề  để  những nhân tố  tích cực trong lòng cái cũ vẫn có cơ  hội phát  triển, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có. Cách mạng, đổi   mới không phải dung hòa để  làm “hơi khác hay tương tự  cái đã có” mà phải   có cái mới thực sự  để  đáp  ứng được đòi hỏi của sự  tiến bộ. Điều đó là tất  yếu, trước tiên là trong nhận thức của từng giảng viên. Nhưng   hiện   nay,   một   bộ   phận   giáo   viên   chưa   có   nhận   thức   đúng  về phương pháp dạy học tích cực, cho rằng phương pháp dạy học này cũng  không có gì khác biệt nhiều so với phương pháp cũ, nên cứ  dạy phương pháp   14
  20. truyền thống: đọc ­ chép, người dạy là trung tâm, miễn sao là mang lại hiệu quả,  học sinh hiểu bài, thi đậu, trả bài điểm cao là được. Nhận thức, suy nghĩ đơn giản   như vậy không chỉ không tạo ra cơ hội tiếp cận với phương pháp mới, hạn chế  trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên, mà còn ảnh hưởng, tác động tiêu  cực đến các thầy cô giáo khác ở cùng bộ môn, cùng trường luôn có nhu cầu tiến  thủ, muốn tiếp cận và khát khao đổi mới cách thức dạy học để thu hút, hấp dẫn   học sinh. Theo cách đó, những hạn chế trong nhận thức về phương pháp dạy học  này đã và đang là nhân tố kìm hãm người giáo viên tiến bộ, hạn chế chất lượng   giáo dục và đào tạo của các nhà trường. Thứ hai, vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng xác định mục   tiêu chưa rõ, còn thụ động trong quá trình dạy học: Trên thực tế, một số giáo  viên trong quá trình giảng dạy dù đã cố gắng đổi mới, vận dụng phương pháp  dạy học tích cực nhưng lúng túng, gợi mở  không khéo, nhiều trường hợp lan  man, không định hướng sát với nội dung bài học. Có giáo viên đã cố gắng tìm  tòi, áp dụng các phương pháp như  hỏi đáp, nêu, giả  định các tình huống sư  phạm, tiến hành phân chia, thảo luận theo nhóm… nhưng nhìn chung vẫn rất  gượng ép, không linh hoạt, thiếu sức thu hút học sinh vì vậy hiệu quả  chưa   cao. Từ việc nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế, cộng với   việc phương pháp giảng dạy tích cực phức tạp, yêu cầu cao, gắn với sử dụng các  phương tiện khoa học, kỹ thuật hỗ trợ. Phương pháp mới, như  theo bài, theo chủ  đề… yêu cầu giáo viên phải tốn thời gian, phải vất vả tìm tòi, sáng tạo nhiều trong  khâu thiết kế, soạn bài, chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sư phạm,   chuyên môn để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy… Để thành công với phương pháp mới đòi hỏi giáo viên cần chủ động trong   nội dung kiến thức, thiết kế giờ giảng, kiên trì và không ngừng học hỏi, trau dồi  thực tế, luôn vận dụng kiến thức đã có vào quan sát và  ứng dụng vào thực   tiễn… Trong khi phương pháp truyền thống có phần nhẹ nhàng, đơn giản hơn.  Điều đó đã làm cho xu hướng tâm lý của một bộ phận giáo viên thích sử dụng   phương pháp cũ. Nghĩa là giáo viên không chủ  động nghiên cứu, vận dụng  phương pháp dạy học mới, luôn ở trạng thái thụ động, nó đã và đang là rào cản,  kìm hãm sự  phát triển năng lực, trình độ  của giáo viên, làm cho phương pháp  dạy học mới không được phát huy, chất lượng giáo dục và đào tạo bị   ảnh  hưởng. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2