SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”. Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 - là một hướng tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” môn GDCD lớp 10.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 Vĩnh Phúc, 2020
- PHỤ LỤC 1. Lời giới thiệu………………………………………………………………… 1 2. Tên sáng kiến………………………………………………………………...3 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến …………………………………………… …..3 4. Ngày sáng kiến kinh nghiệm áp dụng lần đầu………………………………3 5. Mô tả bản chất của sáng kiến………………………………………………..3 5.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 3 5.2. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………...3 5.3. Phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu…………………… 4 5.3.1. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… 4 5.3.2. Thời gian nghiên cứu……………………………………………..4 5.3.3. Kế hoạch nghiên cứu……………………………………………...4 5.4. Khả năng phát triển và ứng dụng thực tế………………………………4 5.5. Hiệu quả………………………………………………………………… 4 5.6. Nội dung của sáng kiến………………………………………………… 5 5.6.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………….5
- 5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực………. ………………….5 5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới giảng dạy………….....11 5.6.1.3. Những hạn chế trong đổi mới phương pháp…………...12 5.6.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế…………………...17 5.6.2. Đổi mới phương pháp dạy học trong chuyên đề………………..21 5.6.2.1. Nội dung chủ yếu của chuyên đề……………………… 21 5.6.2.2. Mục tiêu của chuyên đề………………………………...21 5.6.3.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh…………………… 22 5.6.3.4. Phương pháp và kĩ thuật dạy học……………………… 22 5.6.2.5. Nội dung đổi mới phương pháp dạy học……………….23 5.6.2.6. Kết luận……………………………………………….....37 5.7. Về hiệu quả và khả năng áp dụng sáng kiến……………………….....37 6. Những thông tin cần bảo mật……………………………………………...39 7. Các điều kiện cần thiết áp dụng sáng kiến…………………………….......39 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến…………………………………...39
- 9. Đánh giá lợi ích thu được …... ý kiến tác giả……………………………...40 10. Đánh giá lợi ích thu được… ý kiến các tổ chức, cá nhân……………….40 11. Danh sách các tổ chức, cá nhân………………………………………….40 DANH MỤC VIẾT TẮT
- Chữ viết tắt Đọc là GDCD Giáo dục công dân HS Học sinh GV Giáo viên PPDH Phương pháp dạy học THPT QG Trung học phổ thông quốc gia KTDH Kĩ thuật dạy học SGK Sách giáo khoa
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. LỜI GIỚI THIỆU Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa, thế giới bước vào thời kì 4.0 với những công nghệ vô cùng hiện đại. Vì vậy vấn đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi cơ sở đào tạo. Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học. Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó chủ yếu là thầy nói trò nghe. Ngay tận thập niên 1990, phương pháp này vẫn đang chi phối mạnh ở các trường trong cả nước. Học sinh thường phải ngồi nghe liên tục trong một khoảng thời gian dài. Trong phương pháp này, giáo viên dạy và học sinh được dạy; giáo viên biết mọi thứ và học sinh không biết gì; giáo viên suy nghĩ và học sinh buộc phải nghĩ theo cách của giáo viên; giáo viên nói và học sinh lắng nghe; giáo viên quyết định (chọn lựa) và học sinh phải làm theo. Nhìn chung, giáo viên là chủ thể còn học sinh là khách thể của quá trình dạy học. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến thức, hướng đến mục tiêu làm cho học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức. Phương pháp này ít quan tâm đến việc phát triển tư duy, huấn luyện kỹ năng và rèn luyện thái độ cho người học. Nó dẫn đến tình trạng hầu hết học sinh học tập thụ động. Hậu quả của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự thụ động của người học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân tạo cho người học sự trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu khả năng thuyết trình, lười tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa học. Người học còn quan niệm rằng chỉ cần học những gì giáo viên giảng trên lớp là đủ. Ngoài ra sự thụ động của họ còn thể hiện qua phản ứng của họ đối với bài giảng của giáo viên trên lớp. Họ chấp nhận tất cả những gì 1
- giáo viên trình bày. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ mang tính một chiều. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có những tài liệu dạy học mới. Những tài liệu này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy phát triển năng lực, phẩm chất người học đang được nhiều giáo viên thực hiện. Đổi mới hương pháp giảng dạy không có nghĩa là loại trừ phương pháp thuyết giảng. Thực chất đó là sự kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại với mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của người học. Với phương pháp này yêu cầu người giảng không chỉ nắm vững những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người giảng có thể truyền thụ những vấn đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự nhiên, sinh động và hứng thú. Việt Nam chúng ta đứng trước những cơ hội mới nhưng cũng gặp không ít những thách thức khó khăn. Chính vì thế ngành giáo dục phải đổi mới thì mới nâng cao được nguồn lực con người, trong đó một việc quan trọng và cần thiết là đổi mới phương pháp giảng dạy. Môn GDCD trong trường THPT từ trước đến nay đều bị coi là môn học phụ, không có vị trí quan trọng đối với học sinh, giáo viên, các cấp quản lí. Với quan điểm của giáo viên bộ môn, cá nhân tôi nhận thấy môn GDCD lớp 10 rất quan trọng để hình thành thế giới quan và phương pháp luận và những quan điểm đúng đắn về đạo đức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Học sinh có những quan điểm đúng đắn thì xã hội sẽ có những công dân tốt, là động lực thúc đấy phát triển xã hội. 2
- Bài 7 GDCD lớp 10 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” là nội dung thuộc triết học duy vật lịch sử mang tính khái quát và trừu tượng cao. Học sinh biết được quá trình nhận thức và vai trò của thực tiễn, từ đó vận dụng vào quá trình học tập và đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân tạo nên những thành công cho cá nhân và cho xã hội. Bài 7 GDCD là một trong những bài học có vai trò quan trọng trong chương trình GDCD lớp 10 và cũng có vai trò quan trọng trong hình thành thế giới quan, phương pháp luận của cá nhân. Do yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh, sở giáo dục đào tạo Vĩnh Phúc kiểm tra học kì theo đề chung của sở và thực hiện chuẩn quy chế coi thi nên cần tiếp thu kiến thức một cách thực sự. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Để góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh,phát huy tính tích cực học tập của HS. 2. TÊN SÁNG KIẾN Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh trong bài “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. 3. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. 4. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ Tháng 8 năm 2019 5. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 5.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”. 3
- Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 là một hướng tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” môn GDCD lớp 10. 5.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Bài nghiên cứu đã được triển khai với học sinh của lớp 10 qua năm học 2018 2019, 2019 2020. 5.3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu 5.3.1. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu này tôi đã thực hiện các phương pháp sau: Phương pháp trải nghiệm thực tiễn: Tổ chức các hoạt động đổi mới giảng dạy trên các lớp được Nhà trường phân công. Phương pháp quan sát: Tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. Phương pháp trao đổi, thảo luận: Trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Phương pháp so sánh đối chiếu: Kết quả kiểm tra chuyên đề của học sinh đưa ra nhận xét, rút kinh nghiệm trong giảng dạy. Phương pháp thăm dò ý kiến của học sinh: Phát phiếu thăm dò để biết ý kiến của học sinh về đổi mới phương pháp dạy và học, giáo viên tổng kết ý kiến đưa ra những quyết định phù hợp. 5.3.2. Thời gian nghiên cứu Đề tài này đã được tiến hành từ tháng 8 năm 2018 đến nay. 5.3.3. Kế hoạch nghiên cứu Với nhiều năm giảng dạy môn GDCD, vừa tìm tòi, học hỏi về kiến thức, phương pháp giảng dạy, sau đó áp dụng phương pháp và kĩ thuật tích cực vào thực thiễn giảng dạy. Trong quá trình áp dụng đổi mới phương pháp giảng dạy tự mình khảo sát tình hình thực tế rồi tự đưa ra kết luận về tính khả thi của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Ngoài ra tôi đã học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Từ đó, rút ra kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học, trong giờ học học sinh sẽ là trung tâm, tự học, tự lĩnh hội kiến thức để nâng cao sự hiểu biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống. 4
- 5.4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế Trong sáng kiến này tôi đề cập đến việc giúp giáo viên giảng dạy môn GDCD tham khảo một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo nên sự hứng thú cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng môn GDCD. Các phương pháp mang tính khả thi cao phù hợp mọi đối tượng học sinh, các nhà trường. 5.5. Hiệu quả Áp dụng sáng kiến này học sinh học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” sẽ tích cực chủ động và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến thức. 5.6. Về nội dung của sáng kiến 5.6.1. Cơ sở lí luận 5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. PPDH được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa GV và HS, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong PPDH tích cực được dùng với tức là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích 5
- cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”. Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ động cải biến chính mình về tri thức, năng lực, thái độ hoài nghi, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy học sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội dung, biện pháp, công cụ, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học. Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực. * Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học đối tượng của hoạt động “dạy”, song song là chủ thể của hoạt động “học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của thực tế, người học trực tiếp quan sát, bàn bạc, làm thí nghiệm, giải quyết sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn học sinh hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp 6
- cho từng học sinh biết hoạt động và tích cực dự khán các hoạt động của cộng đồng. * Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một phương pháp nâng cao công hiệu dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong tầng lớp hiện đại đang biến đổi nhanh với sự phát triển khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì then chốt là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói thường, (lập trường tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người) cuối cùng học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì thế, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở hậu đường bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. * Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một xâu công việc độc lập. Áp dụng biện pháp tích cực càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông cáo trong nhà trường sẽ đáp ứng đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi kiến thức, tài năng, thái độ hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy trò, trò trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung tri thức. Phê duyệt đàm luận, tranh luận trong tập thể, quan điểm mỗi cá nhân được thổ lộ, tự tin tuyên bố hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ 7
- mới. Bài học ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo. * Kết hợp đánh giá thầy với tự đánh giá của trò trong quá trình dạy học tích cực. Trong dạy học, việc đánh giá học trò không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy. Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học trò. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để tự sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này, giáo viên cần tạo hoàn cảnh thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá chẳng thể dừng lại ở tái hiện các tri thức, lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất trí sáng ý, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên, song cho nhiều thông tin kịp thời hơn để sửa đổi hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Từ dạy và học bị động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức, giáo viên trở nên người thiết kế, tổ chức, chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm lĩnh nội dung học hỏi, chủ động đạt các mục đích tri thức, năng lực, thái độ hoài nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp, học trò hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, cổ vũ, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi háo hức, tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ chuyên trị sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức, chỉ dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự kiến của giáo viên. 8
- So sánh đặc điểm của dạy học truyền thống và dạy học tích cực như sau: Dạy học truyền thống Các mô hình dạy học tích cực Quan Học là qúa trình hấp Học là qúa trình kiến tạo; học trò tìm tòi, niệm thụ và lĩnh hội, qua đó khám phá, phát hiện, tập luyện, khai khẩn hình thành kiến thức, và xử lí thông tin , … tự hình thành thông năng lực, tư tưởng, tình hiểu, năng lực và phẩm chất. cảm. Bản Truyền thụ tri thức, Tổ chức hoạt động nhận thức của học chất truyền thụ và chứng minh trò. Dạy học trò cách tìm ra chân lí. chân lí của giáo viên. Mục Chú trọng cung cấp tri Chú trọng hình thành các năng lực (sáng đích thức, năng lực. Học để tạo, hợp tác…) dạy biện pháp và nhận đối phó với thi cử . Sau thức khoa học, dạy cách học. Học để đáp khi thi xong những điều ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay đã học thường bị bỏ và tương lai. Những điều đã học cần thiết, quên hoặc ít dùng đến. hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát triển xã hội. Nội Từ sách giáo khoa + Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các dung giáo viên tài liệu khoa học liên quan, thử nghiệm, thực tế…gắn với: Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu cầu của HS. Tình huống thực tiễn, bối cảnh và môi trường địa phương. Những vấn đề học trò quan tâm. biện Các biện pháp diễn Các biện pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết pháp giảng, truyền thụ tri vấn đề; dạy học tương tác. thức một chiều. Hình Cố định: giới hạn trong Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở phòng thức tổ 4 bức tường của lớp thử nghiệm, ở hiện trường, trong thực chức học, giáo viên đối diện tế… , học cá nhân chủ nghĩa, học đôi bạn, với cả lớp. học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với 9
- giáo viên. Một số phương pháp dạy học tích cực phổ quát * Phương pháp vấn đáp Vấn đáp (đàm thoại) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ vào thuộc tính hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp. * Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tế là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì thế, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, nhà ở và cộng đồng không chỉ cố ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học trò vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy hăng hái, sáng tạo, được để sẵn một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh. * Phương pháp hoạt động nhóm Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, nội dung của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia không hẹn hay có chủ tâm, được duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp. 10
- Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở nên quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi không gian phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư duy hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động. Cần tránh xu hướng hình thức và xơ cua lạm dụng, quan niệm cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của đổi mới PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. * Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những điểm tích cực sau: + Học trò được rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử và giãi bày thái độ hoài nghi trong môi trường không có các mối nguy hiểm, rủi ro trước khi thực hành thực tiễn. + Gây hứng thú và chú ý cho học trò. + Tạo hoàn cảnh và phát huy tính sáng tạo của học trò. + Khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi, hành vi của học trò theo chuẩn hành vi tư tưởng và chính trị xã hội. + Thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. * Phương pháp động não Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó, thực hiện phương pháp này giáo viên đưa ra một hệ thống thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận. 11
- 5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD trường THPT hiện nay. Năm 2017 với sự thay đổi về việc thi THPT QG, xét đại học môn GDCD là một bộ môn thi để xét tốt nghiệp. Cùng với kế hoạch đổi mới nội dung kiến thức các bộ môn và các khối lớp, các cấp học, Bộ giáo dục đã chỉ đạo phải đổi mới phương pháp dạy học dần để phù hợp với nội dung mới. Môn GDCD cũng nằm trong sự đối mới đó. Hiện nay giáo viên GDCD trong cả nước đang từng bước đổi mới phương pháp dạy học và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Với kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo cách phân tích hoạt động của học sinh do Bộ giáo dục chỉ đạo. Sở giáo dục và đào tạo Tỉnh Vĩnh Phúc triển khai việc lĩnh hội sự đổi mới này từ cấp trên sau đó truyền đạt lại cho giáo viên của từng bộ môn trong nhà trường trên địa bàn tỉnh. Lãnh đạo các nhà trường rất quan tâm và chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy và sử dụng các kĩ thuật dạy học trong giờ học GDCD. Vào những dịp như 20/11, 8/3…. Một số nhà trường tổ chức những buổi thao giảng mẫu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tích cực. Giáo viên rất hăng hái, tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu của xã hội và kiến thức hiện nay. Những giờ giảng GDCD giáo viên đã sử dụng được một số phương pháp và kĩ thuật tích cực vào để học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức chứ không phải thụ động lĩnh hội như trước. Để có một giờ học đổi mới thành công, giáo viên không những có kiến thức sâu rộng về nội dung bài học mà giáo viên còn phải nắm chắc các phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực thật tốt. Giáo viên giảng dạy môn GDCD đã đầu tư, chuẩn bị giáo án thật tốt, tự tìm tòi, học hỏi hiểu sâu, hiểu rộng về nội dung bởi đổi mới phương pháp dạy học, nội dung bài học sẽ được tiếp cận từ nhiều phía không theo sự sắp xếp sẵn của giáo viên. Giáo viên môn GDCD đã có một số kiến thức nhất định về phương pháp và kĩ thuật dạy học thông qua các lớp tập huấn của sở giáo dục tổ chức. Từ đó đã vận dụng được vào trong quá trình giảng dạy, lựa chọn những phương pháp phù hợp vào từng nội dung bài học, tổ chức đổi mới giảng dạy để đạt kết quả cao nhất, điều này rất khó đối do đặc thù của môn học. Giáo viên GDCD cũng đã tiếp cận với các máy móc công nghệ thông tin để hỗ trợ cho việc đổi mới phương pháp của mình đạt hiệu quả cao như: 12
- dùng bảng thông minh, giáo án điện tử, video…. Ngoài ra, để học hỏi thêm công nghệ thông tin và phương pháp dạy học tích cực giáo viên tham gia vào các diễn đàn đổi mới giảng dạy môn GDCD, học online để tiếp cận và tự nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học. Giáo viên môn GDCD và giáo viên các bộ môn khác trong nhà trường THPT không chỉ đổi mới trong những giờ giảng mẫu hay dự giờ nữa mà đang tích cực đưa việc đổi mới vào trong các giờ học, các nội dung kiến thức. Giáo viên GDCD rất tích cực tham gia vào các hoạt động sinh hoạt chuyên môn của trường, của cụm và trong toàn tỉnh. Trong những buổi sinh hoạt chuyên môn giáo viên trao đổi, chia sẻ chân thành, thẳng thắn những thực tiễn và kinh nghiệm đổi mới của bản thân đề cùng nhau học hỏi, thảo luận góp ý. Từ việc trao đổi này lựa chọn được phương pháp và kĩ thuật dạy học hợp lí nhất phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh trong các giờ học đổi mới rất sôi nổi, hăng hái tham gia và hoàn thành tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao. Học sinh cũng mong muốn được học những giờ đổi mới vì các em được hoạt động, được tự mình suy nghĩ tìm tòi, không phải ngồi im nghe cô giáo giảng như trước. 5.6.1.3. Những hạn chế trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD hiện nay Mặc dù Bộ giáo dục Việt Nam triển khai sâu rộng đổi mới phương pháp dạy học để tiến tới đổi mới nội dung chương trình, mục tiêu giáo dục trong những năm tới. Việc đổi mới phương pháp dạy học đổi với các cơ sở giáo dục vẫn chưa triển khai được hoặc triển khai chưa hiệu quả, chưa đúng bản chất và yêu cầu của Bộ giáo dục đề ra, chưa đáp ứng được điều mong đợi của học sinh, gia đình và xã hội. Hầu hết giáo viên GDCD chưa thực hiện được đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mà vẫn đang sử dụng phương pháp dạy học truyền thống trong giảng dạy môn GDCD, giáo viên vẫn là trung tâm, truyền đạt kiến thức còn học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, mọi tri thức đều do giáo viên định hướng sắp xếp và học sinh sẽ tiếp thu theo sự sắp xếp đó. Nếu có đổi mới phương pháp dạy học thì nhìn chung chưa mang lại hiệu quả. Số giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tự lực sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. 13
- Giáo viên GDCD nói riêng và giáo viên các bộ môn nói chung ngại thay đổi phương pháp dạy học vì nhiều năm họ sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, truyền đạt thụ động, mọi nội dung tri thức và diễn biến trong giờ học do giáo viên quyết định. Thêm nữa giáo viên ngại học hỏi đặc biệt là phương pháp truyền đạt. Vì thế nên nhiều giáo viên GDCD không mặn mà, hào hứng về kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học. Việc ứng dụng công nghệ truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học phổ thông. Hoạt động kiểm tra, đánh giá vẫn chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số, chưa chú ý đến đánh giá về kĩ năng, năng lực thái độ qua một quá trình. Kiến thức chuẩn nặng nề khiến cho giáo viên duy trì lối dạy học đọc chép và học sinh học thuộc lòng. Nhiều giáo viên biên soạn đề kiểm tra chưa vận dụng đúng quy trình nên bài kiểm tra còn mang tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa thực hiện một cách khoa học. Các hoạt động đánh giá định kì, đánh giá diện rộng cấp tỉnh, cấp quốc gia môn GDCD chưa đồng bộ. Nhiều học sinh chưa sẵn sàng để tham gia vào giờ học đổi mới. Các em còn e ngại, rụt rè ngại thể hiện. Bên cạnh đó, từ nhỏ các em đã được tiếp cận với cách học thụ động nên trở thành thói quen, lối mòn trong nhận thức. Như vậy việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực còn rất nhiều hạn chế đặc biệt từ giáo viên và học sinh. Tôi mạnh dạn đưa ra nguyên nhân của những hạn chế này như sau: Thứ nhất, nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế: Sự phát triển hay một cuộc cách mạng trong khoa học giáo dục thực chất là tạo tiền đề để những nhân tố tích cực trong lòng cái cũ vẫn có cơ hội phát triển, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có. Cách mạng, đổi mới không phải dung hòa để làm “hơi khác hay tương tự cái đã có” mà phải có cái mới thực sự để đáp ứng được đòi hỏi của sự tiến bộ. Điều đó là tất yếu, trước tiên là trong nhận thức của từng giảng viên. Nhưng hiện nay, một bộ phận giáo viên chưa có nhận thức đúng về phương pháp dạy học tích cực, cho rằng phương pháp dạy học này cũng không có gì khác biệt nhiều so với phương pháp cũ, nên cứ dạy phương pháp 14
- truyền thống: đọc chép, người dạy là trung tâm, miễn sao là mang lại hiệu quả, học sinh hiểu bài, thi đậu, trả bài điểm cao là được. Nhận thức, suy nghĩ đơn giản như vậy không chỉ không tạo ra cơ hội tiếp cận với phương pháp mới, hạn chế trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên, mà còn ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến các thầy cô giáo khác ở cùng bộ môn, cùng trường luôn có nhu cầu tiến thủ, muốn tiếp cận và khát khao đổi mới cách thức dạy học để thu hút, hấp dẫn học sinh. Theo cách đó, những hạn chế trong nhận thức về phương pháp dạy học này đã và đang là nhân tố kìm hãm người giáo viên tiến bộ, hạn chế chất lượng giáo dục và đào tạo của các nhà trường. Thứ hai, vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng xác định mục tiêu chưa rõ, còn thụ động trong quá trình dạy học: Trên thực tế, một số giáo viên trong quá trình giảng dạy dù đã cố gắng đổi mới, vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng lúng túng, gợi mở không khéo, nhiều trường hợp lan man, không định hướng sát với nội dung bài học. Có giáo viên đã cố gắng tìm tòi, áp dụng các phương pháp như hỏi đáp, nêu, giả định các tình huống sư phạm, tiến hành phân chia, thảo luận theo nhóm… nhưng nhìn chung vẫn rất gượng ép, không linh hoạt, thiếu sức thu hút học sinh vì vậy hiệu quả chưa cao. Từ việc nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế, cộng với việc phương pháp giảng dạy tích cực phức tạp, yêu cầu cao, gắn với sử dụng các phương tiện khoa học, kỹ thuật hỗ trợ. Phương pháp mới, như theo bài, theo chủ đề… yêu cầu giáo viên phải tốn thời gian, phải vất vả tìm tòi, sáng tạo nhiều trong khâu thiết kế, soạn bài, chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sư phạm, chuyên môn để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy… Để thành công với phương pháp mới đòi hỏi giáo viên cần chủ động trong nội dung kiến thức, thiết kế giờ giảng, kiên trì và không ngừng học hỏi, trau dồi thực tế, luôn vận dụng kiến thức đã có vào quan sát và ứng dụng vào thực tiễn… Trong khi phương pháp truyền thống có phần nhẹ nhàng, đơn giản hơn. Điều đó đã làm cho xu hướng tâm lý của một bộ phận giáo viên thích sử dụng phương pháp cũ. Nghĩa là giáo viên không chủ động nghiên cứu, vận dụng phương pháp dạy học mới, luôn ở trạng thái thụ động, nó đã và đang là rào cản, kìm hãm sự phát triển năng lực, trình độ của giáo viên, làm cho phương pháp dạy học mới không được phát huy, chất lượng giáo dục và đào tạo bị ảnh hưởng. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học phân số ở lớp 4
17 p | 1651 | 495
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học kiểu bài lý thuyết về sự phân hóa lãnh thổ Việt Nam trong chương trình Địa lý lớp 9
40 p | 478 | 129
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học qua tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài
32 p | 726 | 125
-
SKKN: Tham luận về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn THCS
9 p | 1494 | 125
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử 12 thông qua việc rèn luyện học sinh làm bài tập
24 p | 521 | 120
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học giờ thực hành môn GDQP-AN
8 p | 463 | 86
-
SKKN: Một số biện pháp bồi dưỡng các kỹ năng sư phạm cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đổi mới phương pháp dạy học trong đội ngũ giáo viên tại trường
19 p | 523 | 74
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học lớp 5
8 p | 817 | 66
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học phát huy vai trò của thí nghiệm trong dạy học môn Hóa học
7 p | 331 | 65
-
SKKN: Kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phát huy vai trò của thí nghiệm trong giờ dạy học Hóa học
7 p | 253 | 61
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy phần quang hình học trong Vật lí lớp 9
16 p | 370 | 60
-
SKKN: Một vài giải pháp quản lý về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS Vĩnh Thành
22 p | 243 | 60
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá các công cụ hỗ trợ quản lý dạy học tích cực
41 p | 591 | 56
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy Văn nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của người học - Trường THCS Nguyên Lý
16 p | 556 | 43
-
SKKN: Ứng dụng CNTT & TT kết hợp sách bài tập để đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THPT
127 p | 215 | 42
-
SKKN: "Bồi dưỡng đội ngũ" giải pháp nâng cao chất lượng đổi mới phương pháp dạy học
11 p | 186 | 30
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực học sinh trong phần Địa lí tự nhiên – Địa lí 12 – Ban cơ bản
74 p | 117 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn