intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn lớp 9

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

357
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ khi thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa đến nay, việc dạy và học bộ môn Ngữ văn 9 đã có nhiều chuyển biến theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt phương pháp; sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng Ngữ văn, tổ chức nhiều hình thức học tập có hiệu quả cho nên chất lượng dạy và học văn đã được nâng lên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn lớp 9

I. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> 1. Lí do chọn đề tài:<br /> Bộ  môn Ngữ  văn có vị  trí rất quan trọng trong chương trình THCS. Nó có <br /> sức mạnh bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm; rèn luyện kỹ  năng phân tích, tổng hợp,  <br /> phát triển tư duy.<br /> Trong chương trình lớp 9, bộ môn Ngữ văn càng có vị trí quan trọng. Bởi vì <br /> lớp 9 là lớp cuối cùng của cấp THCS. Sau khi tốt nghiệp THCS, các em có thể <br /> học lên THPT, có thể đi học nghề và có thể tham gia lao động sản xuất. Học tốt  <br /> môn Ngữ văn sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt các bộ môn khác, khả năng giao <br /> tiếp của các em cũng được nâng lên; từ  đó, các em có nhận thức và hành động  <br /> đúng.<br /> Số tiết của môn Ngữ văn 9 cũng chiếm một lượng thời gian lớn nhất so với  <br /> môn học ở THCS nói chung và môn Ngữ Văn THCS nói riêng ( môn Ngữ văn 9: 5 <br /> tiết/tuần còn Ngữ văn 6,7,8: 4 tiết/tuần).<br /> Môn Ngữ  văn gồm có 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. <br /> Trong phân môn Văn học, các em được học các cụm văn bản: Văn bản nhật dụng, <br /> truyện Trung đại việt Nam, Thơ  hiện đại Việt Nam… Trong đó, phần Thơ  hiện <br /> đại Việt Nam gồm có 11 bài: “Đồng chí ”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “  <br /> Đoàn thuyền đánh cá”, “Bếp lửa”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, <br /> “Ánh trăng”, “Con cò”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác”, “Sang thu”, “Nói <br /> với con”. Số tiết dạy và ôn tập là 14 tiết.<br /> Phần thơ hiện đại Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chương trình Ngữ <br /> văn lớp 9, tạo nên sự toàn diện, cân đối trong hệ thống văn bản của Ngữ văn lớp <br /> 9.  Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò, vị trí của môn Ngữ văn 9 nói chung và các tác  <br /> phẩm thơ hiện đại Việt Nam nói riêng cho nên trong quá trình giảng dạy, tôi đã có <br /> sự  đổi mới phương pháp giảng dạy, vận dụng linh hoạt các phương pháp, phát  <br /> huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh; thường xuyên trao đổi với  <br /> đồng nghiệp, rút kinh nghiệm để  dạy Ngữ  văn 9 trong đó có phần Thơ  hiện đại  <br /> Việt Nam đạt kết quả  cao, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện trong nhà <br /> trường.<br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:<br /> a. Mục tiêu:<br /> Từ  khi thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa đến nay, việc dạy và <br /> học bộ môn Ngữ văn 9 đã có nhiều chuyển biến theo hướng phát huy tính tích cực,  <br /> chủ động  trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt phương  <br /> pháp; sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng công nghệ thông  <br /> tin vào soạn giảng Ngữ văn, tổ chức nhiều hình thức học tập có hiệu quả cho nên <br /> chất lượng dạy và học văn đã được nâng lên.<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> Học sinh có nhiều cố gắng trong việc tiếp thu kiến thức và rèn các kỹ năng,  <br /> thể hiện cảm nhận của bản thân về  các tác phảm văn học đã học nhất là các tác  <br /> phẩm thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9.<br /> Tuy nhiên, việc dạy học bộ môn Ngữ văn 9 cũng như phần thơ hiện đại Việt <br /> Nam cũng còn có mặt hạn chế: Có giáo viên vẫn còn nặng về kiểu giảng giải, học  <br /> sinh nghe, ghi, tái hiện lại theo những gì giáo viên nói, vẫn còn học sinh lúng túng  <br /> khi độc lập giải quyết vấn đề, không thuộc các bài thơ, đoạn thơ, chưa có cảm <br /> xúc, nhiều em không thích học Văn, ngại học Văn…<br /> Môn Ngữ văn có vị trí rất quan trọng. Phần thơ hiện đại ở lớp 9 có số lượng  <br /> bài lớn, thời gian giảng dạy với số  tiết cao, có giá trị  lớn về  nội dung cũng như <br /> nghệ thuật. Muốn nâng cao chất lượng dạy và học phần thơ hiện đại Việt Nam ở <br /> lớp 9, đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp, có nhiều hình thức học tập có  <br /> hiệu quả  nhằm phát huy vai trò người học; bên cạnh đó, giáo viên cũng cần sử <br /> dụng có hiệu quả thiết bị dạy học. Thông qua các tiết dạy học Văn, giáo dục cho  <br /> học sinh ý thức đúng như yêu thích bộ môn, thích học thơ hiện đại Việt Nam, góp  <br /> phần vào việc nâng cao chất lượng trong nhà trường.<br /> Với nhận thức như vậy, trong quá trình giảng dạy thơ hiện đại Việt Nam ở <br /> Ngữ  văn lớp 9, qua trao đổi với các đồng nghiệp, tôi đã rút ra những bài học để <br /> dạy thơ hiện đại Việt Nam có hiệu quả. Chính vì những vấn đề trên nên tôi mạnh  <br /> dạn đưa ra  “Một số  kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình  <br /> Ngữ Văn  lớp 9”, nhằm nâng cao chất lượng cho phương pháp dạy­ học văn.<br /> b. Nhiệm vụ của đề tài: <br /> Để  đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp CNH­HĐH đất nước, đó là nguồn nhân <br /> lực có chất lượng cao nên giáo dục phải phát triển về  mọi mặt để  đáp  ứng yêu <br /> cầu của xã hội. Văn là người, dạy văn là dạy cách làm người. Bộ môn Ngữ văn có <br /> tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho HS.<br /> Học tốt môn Ngữ văn sẽ góp phần học tốt bộ môn khác vì  môn Ngữ văn có <br /> quan hệ với các môn khác (diễn đạt rõ ràng, trình bày ý khoa học, mạnh dạn, tự tin  <br /> trong giao tiếp…).<br /> Dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 đòi hỏi giáo viên phải hiểu rõ đặc trưng <br /> thể loại, hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm, đồng  <br /> thời qua đó nêu bật được nhiệm vụ  của đất nước trong từng giai đoạn cũng như <br /> tình cảm của con người Việt Nam thông qua mỗi tác phẩm và các tác giả.<br /> Tạo điều kiện cho HS tiếp thu bài giảng tốt hơn, các em được trình bày suy <br /> nghĩ, cảm nhận của mình, có hứng thú khi học tập Ngữ văn; dần dần các em yêu  <br /> thích bộ môn, viết văn có cảm xúc hơn và sống sẽ có tình người hơn.<br /> 3. Đối tượng nghiên cứu:<br /> “Một số  kinh nghiệm dạy thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn  <br /> lớp 9”.<br />         4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:<br /> <br /> <br /> <br /> 2<br />           Quá trình giảng dạy thơ  hiện đại Việt Nam  ở  lớp 9 của bản thân khi dạy  <br /> Ngữ văn trong nhà trường.<br />         Việc học Ngữ văn lớp 9 nói chung và Thơ hiện đại Việt Nam nói riêng của <br /> học sinh khối 9.<br />      5. Phương pháp nghiên cứu:<br />      a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu Chuẩn kiến thức, Sách  <br /> giáo khoa, Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng, Tài liệu tham khảo, Bài viết về đổi  <br /> mới phương pháp dạy học, kiểm tra.<br />       ­ Sử  dụng linh hoạt các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; thuyết trình, trắc  <br /> nghiệm, thống kê, so sánh, hệ thống hoá kiến thức, kinh nghiệm dạy của bản thân  <br /> về Thơ hiện đại đã áp dụng vào giảng dạy  trong nhà trường.<br />     b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:<br /> ­ Thực hiện qua phương pháp điều tra và kế hoạch nghiên cứu: <br /> + Nội dung: Thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9<br /> + Việc dạy của GV trường THCS Dur Kmăn.<br /> + Tình hình học tập của HS lớp 9 trường THCS  Dur Kmăn.<br /> ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Tích luỹ  trong quá trình dạy học,  <br /> khảo sát thực trạng, kiểm tra kết quả cuối năm, đối chiếu so sánh và rút ra kết  <br /> luận.<br /> ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;<br /> ­ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;<br /> ­ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;<br /> ­ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm;<br />      <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> II. PHẦN NỘI DUNG<br /> 1. Cơ sở lí luận:<br /> ­ Chương trình Ngữ văn THCS được cấu tạo thành hai vòng, tương ứng với <br /> hai lớp đầu cấp ( lớp 6,7) và hai lớp cuối cấp (lớp 8,9), đến lớp 9, học sinh phải  <br /> hoàn thành việc tiếp nhận các tri thức và hình thành các kỹ năng về văn học, tiếng  <br /> Việt, làm văn theo yêu cầu của toàn cấp THCS.<br /> Riêng Thơ hiện đại Việt Nam (từ sau năm 1945) có 11 bài được học  ở hai  <br /> học kỳ. Học kỳ I, học các bài: “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ  về tiểu đội <br /> xe không kính” của Phạm Tiến Duật, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Bếp  <br /> lửa” của Bằng Việt, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn  <br /> Khoa Điềm”, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Học kỳ II, học các bài: “Con cò” của <br /> Chế  Lan Viên, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Viếng lăng Bác” của Viễn  <br /> Phương, “Sang thu” của Hữu Thỉnh, “Nói với con” của Y Phương.<br /> Đây là những bài thơ  nổi tiếng và nhiều bài thơ  đã được các nhạc sĩ phổ <br /> nhạc cho nên được nhiều người trong đó học sinh đã biết và yêu thích (bài “Mùa <br /> xuân nho nhỏ”, “viếng lăng Bác”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”…)<br /> Đối với môn Ngữ văn ở THCS đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học <br /> theo quan điểm tích hợp, tích cực. Trong khi bảo đảm dạy cho học sinh những tri  <br /> thức, kỹ  năng đặc thù của phân môn còn tìm ra những yếu tố  đồng quy giữa ba  <br /> phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn để góp phần hình thành và rèn luyện tri <br /> thức và kỹ  năng của các phân môn khác, tích hợp nhiều phương pháp trong bài  <br /> học, tiết học, trong quá trình dạy và học.Tích hợp dọc, ngang, liên thông nhằm hệ <br /> thống hoá kiến thức ở cuối cấp.<br /> Trong   phân   môn   Văn:   Khi   dạy   các   văn   bản   theo   định   hướng   đổi   mới  <br /> phương pháp dạy học có nhiệm vụ  quan trọng là giúp học sinh có được những <br /> kiến thức cơ bản, hệ thống về các kiểu văn bản. Nắm được nội dung của các văn <br /> bản được học cùng với một số thông tin về tác giả, một số khái niệm về  lịch sử <br /> văn học, lý luận văn học và các thao tác tìm hiểu văn bản. Hình thành các kỹ năng  <br /> phân tích, cảm thụ văn học nhằm bồi dưỡng trình độ thẩm mỹ và nghệ thuật cho <br /> học sinh. Hoàn chỉnh các kỹ  năng nghe, nói, đọc, viết; bồi dưỡng cách thức làm <br /> văn và khả năng giao tiếp hàng ngày. Giáo dục tư tưởng, tình cảm nhân cách theo  <br /> những cái hay, cái đẹp của văn bản; giáo dục tình yêu, sự quý trọng tiếng mẹ đẻ <br /> cũng như những giá trị  của văn học dân tộc. Bên cạnh đó, giáo dục cho học sinh  <br /> hứng thú và thái độ  học tập khoa học, nghiêm túc bộ  môn, có ý thức vận dụng  <br /> những điều đã học vào ứng xử trong gia đình, nhà trường, xã hội một cách có văn <br /> hoá.<br /> Trong giờ  dạy học Ngữ văn cần chú trọng tới cả  hoạt động của giáo viên  <br /> và hoạt động của học sinh. Tạo điều kiện cho các đối tượng học sinh được tham <br /> gia học tập đạt kết quả  tốt nhất. Sử  dụng linh hoạt và có hiệu quả  các phương  <br /> <br /> <br /> 4<br /> pháp dạy văn. Tổ chức nhiều hình thức học tập như hoạt động nhóm, cá nhân. sử <br /> dụng sách giáo khoa, sách tham khảo; hướng dẫn tự  học, tự  đọc. Giáo viên xây  <br /> dựng được hệ thống câu hỏi khoa học, các bài tập nhằm tổ chức, hướng dẫn các <br /> đối tượng học sinh tích cực, chủ  động học tập, phát triển năng lực cá nhân. Đổi  <br /> mới soạn giảng theo chuẩn kiến thức, kỹ  năng; đổi mới kiểm tra, đánh giá việc <br /> học của học sinh, coi đây như  là một biện pháp kích thích việc học tập của học <br /> sinh. Không những thế, giáo viên cần  ứng dụng mạnh mẽ  công nghệ  thông tin  <br /> trong soạn giảng, sử  dụng thiết bị  dạy học thường xuyên, có hiệu quả  nhất là  <br /> thiết bị dạy học hiện đại.<br /> * Thơ hiện đại Việt Nam (từ sau 1945):<br /> ­ Hoàn cảnh sáng tác: Từ năm 1930, khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt  <br /> Nam ngày càng phát triển và Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Tổng khởi  <br /> nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà,  <br /> nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng ngay sau đó, thực dân  <br /> Pháp quay trở  lại hòng chiếm nước ta một lần nữa. Nghe theo Lời kêu gọi toàn <br /> quốc kháng chiến của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề  đứng lên  <br /> kháng chiến chống Pháp với muôn vàn khó khăn gian khổ  nhưng cũng đầy tháng <br /> lợi vẻ  vang và kết thúc bằng chiến thắng lịch sử  Điện Biên Phủ  “…lừng lẫy <br /> Điện Biên, chấn động địa cầu…”. Miền Bắc nước ta được giải phóng, đi lên xây  <br /> dựng chủ  nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống Mỹ  và bè lũ tay sai. <br /> Qua đấu tranh anh dũng, bằng đại thắng Mùa xuân 1975, miền Nam được giải <br /> phóng, đất nước thống nhất và đi lên chủ  nghĩa xã hội. Đất nước ta đạt nhiều <br /> thành tựu mới trên các lĩnh vực, đang thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,  <br /> xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.<br /> Hiểu rõ hoàn cảnh đất nước như vậy, các tác phẩm thơ hiện đại thuận lợi  <br /> hơn ; hiểu hơn tình cảm, tư tưởng của con người Việt Nam, vì Văn  là người, văn <br /> học phản ánh cuộc sống và phục vụ cuộc sống.<br /> ­ Các bài thơ  hiện đại Việt Nam học  ở  lớp 9 được sáng tác trong thời kỳ <br /> kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sau năm 1975, của các tác giả thuộc nhiều <br /> thế hệ. Có những cây bút trưởng thành từ trước cách mạng, những tác giả trưởng  <br /> thành từ  hai cuộc kháng chiến là đông đảo hơn cả, một số  trưởng thành từ  sau  <br /> năm 1975. Các bài thơ  đề  cập đến nhiều đề  tài, chủ  đề  khác nhau, thể  hiện sự <br /> phong phú trong đời sống tình cảm, tư tưởng của con người Việt Nam thời hiện  <br /> đại, trong sự đa dạng về hình thức thể loại.<br /> ­ Ở lớp 7,8, các em đã được tìm hiểu về tác phẩm trữ tình, lên lớp 9 các em  <br /> tiếp tục được tìm hiểu về các tác phẩm Thơ trữ tình.<br /> Khi dạy các bài thơ trữ tình, người dạy cần đặc biệt chú ý sự vận động của <br /> hình tượng trữ  tình trong mạch cảm xúc của bài thơ. Trình tự  phân tích một bài  <br /> thơ cũng nên theo diễn biến đó. Ở  bài “Mùa xuân nho nhỏ” là sự  vận động, biến  <br /> đổi của hình tượng cảm xúc từ mùa xuân của thiên nhiên đến mùa xuân đất nước <br /> <br /> <br /> 5<br /> và mùa xuân nhỏ của mỗi cuộc đời. Đó cũng là hướng vận động từ  cảm xúc trực  <br /> tiếp đến cảm nhận và suy tưởng của tác giả trước mùa xuân.<br /> Trong bài “Con cò” của Chế  Lan Viên , thì đó là sự  vận động của hình <br /> tượng con cò trong những lời ru, được mở  rộng các ý nghĩa biểu tượng qua ba  <br /> đoạn của bài thơ.<br /> Ở bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, hình tượng cơ  bản là trăng được khai  <br /> triển theo chiều liên tưởng hiện tại – quá khứ, với không gian phố phường­ đồng <br /> nội – chiến trường, để  từ  đó gợi ra ý nghĩa tư  tưởng của tác phẩm. Cái tôi trữ <br /> tình, mặc dù là vấn đề trung tâm của tác phẩm trữ tình, nhưng cách biểu hiện lại  <br /> hết sức đa dạng. Có khi bộc lộ trực tiếp trong hình tượng cái tôi chủ thể trữ tình  <br /> như   bài   “Viếng   lăng   Bác”,   “Bếp   lửa”,   “Mùa   xuân   nho  nhỏ”   nhưng   rất   nhiều <br /> trường hợp lại hoá thân vào hình tượng khác, vào đối tượng được miêu tả như bài  <br /> “Đoàn thuyền đánh cá”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “Con cò”.<br /> 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:<br /> Trong những năm qua, thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung <br /> và môn Ngữ  văn nói riêng  ở  các trường THCS đã đạt được nhiều kết quả  đáng <br /> phấn khởi. Nhiều chuyên đề  về  đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng  <br /> môn Ngữ  văn đã được tổ  chức, thu hút các các nhà quản lý giáo dục và nhất là  <br /> giáo viên trực tiếp đứng lớp tham gia. Đổi mới phương pháp dạy học là nhấn  <br /> mạnh tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập, tới khâu tiếp nhận và <br /> vận dụng những kiến thức, kỹ  năng môn học của HS được chú trọng hơn. Giờ <br /> học văn đã có chất văn, kỹ năng đọc nhất là đọc diễn cảm được chú trọng. Trong <br /> giờ học , GV quan tâm đến việc suy nghĩ, trả lời, làm bài của HS.<br /> Việc học Văn trong nhà trường hiện nay hầu hết học sinh có sự lơ là, thiếu <br /> chủ tâm vì có quan điểm chung là khác thời thế, thiếu áp dụng thực tế cuộc sống,  <br /> phần kiến thức lý thuyết mênh mang sáo rỗng lại bị  gò bó, áp đặt nên chán nản  <br /> trong việc học. Vài năm trở  lại đây, nhằm giúp người dạy tiếp cận nhanh chóng <br /> và áp dụng rộng rãi những phương pháp dạy học tích cực, nơi nơi đều tổ  chức <br /> nhiều đợt tập huấn, chuyên đề bổ ích, có ý nghĩa, hỗ trợ rất nhiều trong công việc <br /> dạy học của giáo viên. Tuy nhiên, chuyên đề, hội thảo về phương pháp dạy học <br /> các văn bản thơ hiện đại thực tế vẫn chưa được đi sâu. <br /> Sự hiểu biết và vận dụng những định hướng đổi mới phương pháp dạy học <br /> theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh của một số  giáo viên <br /> chưa có hiệu quả  cao, còn máy móc, đôi khi còn có thói quen dạy theo kiểu thầy  <br /> nói trò nghe ghi, tái hiện. Giờ  dạy thơ  biến thành giờ  diễn xuôi các câu thơ, bài  <br /> thơ, không có cảm xúc khi dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong chương <br /> trình Ngữ văn 9.<br /> Học sinh: Vẫn còn tồn tại thói quen thụ  động, quen nghe, chép, ghi nhớ  và <br /> tái hiện những gì giáo viên nói. Học sinh còn lúng túng khi được giao bài, hoạt  <br /> động nhóm, làm bài không dám thoát ly tài liệu, cảm nhận còn sơ  sài sau mỗi bài <br /> <br /> <br /> 6<br /> học. Vận dụng kiến thức đã học vào làm bài kiểm tra và vận dụng vào cuộc sống  <br /> còn  nhiều hạn chế. Không những thế, học sinh còn nhiều hạn chế  khi đọc, chữ <br /> viết còn sai nhiều, không thuộc các câu thơ, bài thơ. Kiến thức cơ bản nắm không <br /> chắc, kỹ năng làm bài còn hạn chế rất nhiều.<br /> ­ Số lượng các bài thơ khá nhiều và khá dài nên việc soạn giảng để có chất  <br /> lượng  mỗi giáo viên phải đầu tư thời gian và sức lực cũng như trí tuệ; phải bám <br /> sát chuẩn kiến thức và kỹ năng và vận dụng linh hoạt các phương pháp.<br /> ­ Tuy nhiên, trong quá trình dạy thơ  hiện đại Việt Nam  ở  lớp 9, tôi cũng <br /> thấy có một số khó khăn: Số lượng các bài thơ nhiều (11 bài), dạy ở cả học kỳ I, <br /> học kỳ II; một số học sinh chưa thích học văn, ngại học thuộc các bài thơ, đoạn <br /> thơ, văn viết không có cảm xúc…<br /> Từ những bất cập trên, bản thân đã vận dụng những phương pháp có sẵn và <br /> đồng thời tạo ra nhiều phương pháp mới để tích cực thực hiện một cách khá hiệu  <br /> quả như đề tài đã đưa ra.<br /> ­ Tư  tưởng và cũng là mục đích của hoạt động đổi mới phương pháp dạy <br /> môn Ngữ văn cũng như các môn trong trường THCS hiện nay là tích cực hoá hoạt  <br /> động học tập của học sinh, với ý nghĩa người học tích cực, chủ  động trong lĩnh <br /> hội và vận dụng kiến thức kỹ năng. Học sinh được coi là những đối tượng vốn có <br /> sẵn những tiềm năng mà giáo viên có nhiệm vụ  đánh thức và tạo điều kiện để <br /> những tiềm năng đó được phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo.<br /> Không gò bó giờ học trong một quy trình cứng nhắc với những bước đi bắt  <br /> buộc , GV có quyền chủ động sáng tạo thiết kế giờ học căn cứ  vào mục tiêu cụ <br /> thể của bài học, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng. Giờ học phải bảo đảm được <br /> những mục tiêu cần đạt, khoa học về  nội dung; linh hoạt, nghệ  thuật về  biện  <br /> pháp sư phạm và đọng lại được những ấn tượng sâu sắc ở học sinh.<br /> Đây là một đề tài đã được cụ thể hóa trong từng phần học của chương trình <br /> ấn định sẵn, là điều kiện thuận lợi để người nghiên cứu có thể lựa chọn, bổ sung,  <br /> kế thừa trên cơ sở những cái đã có sẵn mà xây dựng thêm những phương pháp, ý <br /> tưởng mới. Vì vậy, những kinh nghiệm được nêu ra  ở  đây đã được thầy cô dạy <br /> học Ngữ văn thực hiện trong từng giờ dạy.<br /> Mặt khác, những biện pháp nêu ra ở đây bất kì giáo viên nào dạy học môn  <br /> Ngữ văn cũng đều có thể áp dụng được vì nó vừa cụ thể, thiết thực lại gần gũi.<br /> Mặc dù đây là đề tài quen thuộc nhưng nếu như người giáo viên không chủ <br /> động, không nghiền ngẫm tìm tòi, không bám sát, không nghiên cứu, lại không <br /> xuất phát từ chính cái tâm và thực tế công việc dạy học hằng ngày thì rất khó để <br /> mang đến sự cảm thụ văn học từ phía học sinh.<br /> Trên thực tế  hiện tượng chán học văn, xa rời văn (ở  cả  3 phân môn) đang <br /> ngày càng lan rộng. Điều này khiến những người dạy văn không khỏi trăn trở. <br /> Kiểu học càng nhồi nhét kiến thức học sinh sẽ càng sợ. Có em cho rằng học văn <br /> giỏi không biết để làm gì, theo văn là theo một cái gì đó xa rời thực tế, là môn chỉ <br /> <br /> <br /> 7<br /> dành cho những người  ưa lãng mạn. Người dạy văn nếu cứ  “mặc kệ” thì không <br /> biết chất lượng giáo dục sẽ  đi về  đâu? Người tâm huyết thì sẽ  đau đáu làm thế <br /> nào để môn văn có một vị trí ngang bằng với các môn học khác trong lòng học trò.<br /> Qua tham khảo ý kiến của nhiều giáo viên Ngữ  văn, họ  đều có chung một  <br /> nhận xét về  học trò của mình: “lười, chán, không thèm học”, thậm chí có cách  <br /> nghĩ là học văn đơn điệu, buồn ngủ, mờ  mịt tương lai và chẳng có gì thú vị  khi  <br /> thầy và trò chỉ bằng ngôn ngữ để tìm ra kiến thức. <br /> 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:<br /> a. Mục tiêu của giải pháp<br /> Mục tiêu của tôi đưa ra một số  giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy <br /> học phần thơ hiện đại Việt Nam ở chương trình Ngữ Văn 9.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp<br /> Thơ  hiện đại Việt Nam học sinh được học  ở  lớp 9 gồm 11 bài thơ, được <br /> học  ở trong học kỳ I và học kỳ  II. Các bài thơ được học có thể  chia ra theo từng  <br /> giai đoạn lịch sử:<br /> + Giai đoạn 1945­1954: bài thơ “Đồng chí”.<br /> + Giai đoạn 1954­1964: các bài thơ ‘Đoàn thuyền đánh cá”, “Bếp lửa”, “Con  <br /> cò”.<br /> + Giai đoạn 1964­1975: các bài thơ  “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính”, <br /> “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.<br /> + Sau năm 1975: có các bài thơ  “Ánh trăng”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng <br /> lăng Bác”, “Nói với con”,  “Sang thu”.<br /> Các tác phẩm thơ  kể trên đã tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con <br /> người Việt Nam suốt một thời kỳ lịch sử từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, qua  <br /> nhiều giai đoạn:<br /> + Đất nước và con người Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp <br /> và chống Mỹ với nhiều gian khổ, hi sinh nhưng rất anh dũng.<br /> + Công cuộc lao động xây dựng đất nước và những quan hệ tốt đẹp của con <br /> người.<br /> + Điều chủ yếu mà các tác phẩm thơ thể hiện chính là tâm hồn, tình cảm,  <br /> tư  tưởng của con người trong một thời kỳ  lịch sử  có nhiều biến động lớn lao, <br /> nhiều đổi thay sâu sắc. Đó là tình cảm yêu nước, tình quê hương; tình đồng chí, sự <br /> gắn bó với cách mạng, lòng kính yêu Bác Hồ; những tình cảm gần gũi và bền <br /> chặt của con người: tình mẹ con, bà cháu, trong sự thống nhất với những tình cảm  <br /> chung rộng lớn.<br /> Sau đây, tôi đi vào nêu cách dạy học cho một số bài thơ.<br /> 1/ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.<br /> Khi dạy bài này, mục tiêu cần đạt là học sinh cảm nhận được vẻ đẹp chân <br /> thực, giản dị của tình đồng chí, đồng đội và hình ảnh người lính cách mạng được  <br /> <br /> <br /> 8<br /> thể  hiện trong bài thơ. Nắm được đặc sắc nghệ  thuật của bài thơ: chi tiết chân <br /> thực, hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Rèn kỹ năng cảm thụ <br /> và phân tích các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh trong một tác phẩm thơ giàu cảm <br /> hứng hiện thực mà không thiếu sự bay bổng. Giáo dục học sinh tình cảm yêu mến <br /> và kính trọng anh bộ đội.<br /> Sau khi kiểm tra bài cũ và việc soạn bài của học sinh, giáo viên đi vào  <br /> hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ.<br /> ­ Trong phần tìm hiểu tác giả Chính Hữu. Cho HS đọc phần chú thích trong <br /> sách giáo khoa, cho các em trả  lời câu hỏi: ? Hãy nêu tóm tắt những nét cơ  bản <br /> nhất về tác giả Chính Hữu? Giáo viên nhấn mạnh các ý cơ bản theo Tài liệu tham <br /> khảo: Chính Hữu (Trần Đình Đắc) là người lính Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà <br /> thơ  quân đội. Thơ  của ông hầu như  chỉ  viết về  người lính và hai cuộc kháng <br /> chiến, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng <br /> đội, tình quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.<br /> Giới thiệu chân dung nhà thơ­ đại tá Chính Hữu và tập thơ “Đầu súng trăng <br /> treo”<br /> ? Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào? Chính Hữu cùng đơn vị tham gia chiến đấu <br /> trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947). Trong chiến dịch  ấy, cũng như <br /> những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ  đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng <br /> nhờ  tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội, họ  đã vượt <br /> qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch Việt Bắc, Chính Hữu viết bài <br /> thơ  “Đồng chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông nằm điều trị  bệnh. Bài thơ  là sự <br /> thể hiện những tình cảm tha thiết, sâu sắc của tác giả với những người đồng chí, <br /> đồng đội của mình.<br /> Hướng dẫn học sinh đọc bài thơ: đọc chậm rãi, tình cảm, chú ý những câu <br /> thơ tự do, vần chân, cách đối xứng trong việc sắp xếp chi tiết, hình ảnh…Câu thơ <br /> “Đồng chí” đọc với giọng lắng sâu, ngẫm nghĩ; câu thơ  cuối cùng đọc với giọng <br /> ngân nga.<br /> ? Cảm hứng của bài thơ là gì? Cảm hứng nào là chủ yếu?<br /> Bài thơ có 20 dòng, cả bài thơ  tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của  <br /> tình đồng chí, đồng đội nhưng  ở  mỗi đoạn sức nặng của tư  tưởng và cảm xúc <br /> được   dẫn   dắt   để   dồn   tụ   vào   những   dòng   thơ   gây   ấn   tượng   sâu   đậm   (dòng <br /> 7,17,20). Sáu dòng đầu có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí, đồng  <br /> đội. Dòng 7 (Đồng chí !) có cấu trúc đặc biệt, chỉ một từ với dấu chấm cảm như <br /> một phát hiện, một lời khẳng định sự  kết tinh tình cảm giữa những người lính. <br /> Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở <br /> trong những hình  ảnh, chi tiết biểu hiện cụ  thể, thấm thía tình đồng chí và sức <br /> mạnh của nó. Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại  <br /> và ngân rung với hình  ảnh đặc sắc “đầu súng trăng treo” như  là một biểu tượng  <br /> giàu chất thơ về người lính.<br /> Trong phần phân tích bài thơ, tôi đã đi vào hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài  <br /> thơ với các hoạt động sau đây:<br /> <br /> <br /> 9<br /> * Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính:<br /> ? Theo nhà thơ, tình đồng chí, đồng đội giữa tôi (chủ thể­ nhân vật trữ tình)  <br /> và anh (người lính đồng đội – anh bạn nông dân mặc áo lính) bắt nguồn từ cơ sở <br /> nào? Những hình ảnh “nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá” nói lên điều gì về <br /> nguồn gốc xuất thân của anh và tôi?<br /> ­ Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về  cảnh ngộ <br /> xuất thân nghèo khổ. Những thành ngữ “nước mặn đồng chua”­ quê anh – là hình  <br /> ảnh dải đồng bằng Hà Nam, Thái Bình, Nam Định quanh năm chiêm khê mùa thối,  <br /> sống ngâm da, chết ngâm xương; còn làng tôi là làng trung du, đất bạc màu hoặc <br /> khô cằn sỏi đá. Các anh đều là những người nông dân nghèo từ nhiều làng quê V  <br /> tập hợp lại thành đội quân cách mạng và trở nên thân quen với nhau.<br /> “Súng bên súng, đầu sát bên đầu<br /> Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”<br />          ­ Tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau <br /> trong chiến đấu.<br /> Tình đồng chí, đồng đội nảy nở  và thành bền chặt trong sự  chan hoà, chia <br /> sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí  <br /> cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng hình ảnh thật cụ thể, giản dị, hết sức gợi cảm.  <br /> Từ  những người xa lạ, họ  trở  thành những người bạn chung mục đích, chung lý <br /> tưởng, gắn bó với nhau trong nhiệm vụ  cao cả. Họ  đã trở  thành đồng chí, đồng <br /> đội của nhau.<br /> ? Tại sao câu thơ thứ bảy chỉ có hai tiếng “Đồng chí !” ? Bình giảng vẻ đẹp <br /> của câu thơ đặc biệt ấy ?<br /> ­ HS trình bày cảm nhận của mình trước lớp, GV nhấn mạnh nội dung cơ <br /> bản: Đây là câu thơ  quan trọng bậc nhất của bài thơ. Nó được lấy làm nhan đề <br /> của bài; nó biểu hiện chủ  đề, linh hồn của bài thơ. Nó như  cái bản lề  nối hai <br /> đoạn thơ, khép mở hai ý thơ  cơ  bản: những cơ sở của tình đồng chí, những biểu <br /> hiện của tình đồng chí. Nó vang lên giản dị, mộc mạc nhưng rất đỗi thiêng liêng,  <br /> cảm động, khẳng định và ca ngợi một tình cảm cách mạng mới mẻ, bắt nguồn từ <br /> những tình cảm truyền thống: tình bạn, tình đồng đội trong chiến đấu nhưng đã <br /> được đổi mới và nâng cao trong hoàn cảnh mới, thời đại mới.<br /> * Những biểu hiện của tình đồng chí:<br /> ­ Học sinh đọc diễn cảm 10 dòng thơ  tiếp theo và suy nghĩ trả  lời câu hỏi  <br /> sau: ba câu “Ruộng nương… ra lính”, gợi cho em thấy biểu hiện gì của tình đồng  <br /> chí?Từ  “mặc kệ” có phải chứng tỏ  người lính rất vô tâm, vô tình và vô trách <br /> nhiệm với gia đình? Ý kiến của em?<br /> ­ Học sinh phát biểu cảm nhận của mình, GV nhấn mạnh lại: Đồng chí, <br /> trước hết là sự cảm thông sâu xa nỗi lòng của nhau; ở đây, cụ thể là nỗi nhớ nhà,  <br /> là tình cảm lúc lên đường tòng quân đánh giặc.<br /> Từ “mặc kệ” có nghĩa đen là bỏ tất, để lại, không quan tâm. Nhưng ở đây,  <br /> chàng trai cày vốn gắn bó với mảnh ruộng nhà mình, ngôi nhà tranh nghèo của <br /> mình, từ bao đời, ít ra khỏi luỹ tre xanh, ra khỏi cổng làng. Thế mà nay, dứt áo ra <br /> <br /> <br /> 10<br /> đi đến những phương trời xa lạ, vào nơi khói lửa, súng đạn hiểm nguy hẳn phải  <br /> xuất phát từ tình cảm lớn lao, quyết tâm mãnh liệt. Đó là đi đánh giặc cứu nước,  <br /> theo Cụ Hồ đi kháng chiến. Tình cảm lớn đã chiến thắng tình cảm nhỏ. Mặt khác, <br /> từ  “mặc kệ” có phần gợi ra chất vui, tiếu táo, hóm hỉnh, tình cảm lạc quan cách <br /> mạng của người lính trẻ. Hoàn toàn không phải người lính vô tâm, vô trách nhiệm  <br /> với gia đình, cha mẹ, vợ  con, quê hương mà ngược lại. Sự  hi sinh tình nhà cho  <br /> việc nước ở  đây thật giản dị  và cảm động. Đồng chí, đó là sự  cảm thông sâu xa  <br /> những tâm tư, nỗi lòng của nhau.<br /> ? Những câu thơ tiếp theo vẫn nói về tình đồng chí một cách cụ thể. Những <br /> hình ảnh nào làm em xúc động?<br /> ­ Học sinh đọc các câu thơ, cảm nhận, phát biểu: <br /> Đồng chí, đó là cùng nhau chia sẻ  những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời <br /> người lính. Những câu thơ  đối nhau­ đối xứng chứ  không đối lập: “áo anh­ quần <br /> tôi, rách vai­ vài mảnh vá” một cách đầy dụng ý. Chia sẻ  kỉ niệm về những trận  <br /> sốt rét rừng­ căn bệnh kinh niên và phổ biến của những người lính phải sống <br /> và chiến đấu trong hoàn cảnh núi rừng vô cùng thiếu thốn, gian khổ.<br /> Hình  ảnh “miệng cười buốt giá”, nụ  cười bừng lên, sáng lên trong gió rét, <br /> trong sương muối, trong đêm trăng hay buổi sáng sớm của những người lính chân <br /> không giày, áo rách, quần vá, tê tái và khó nhọc, nụ  cười của tình đồng chí, tình <br /> thương yêu vô bờ trong im lặng, trong hơi ấm của bàn tay nắm lấy bàn tay. Đoạn <br /> thơ  khắc hoạ  tình đồng chí trong chiến đấu, trong sinh hoạt của người chiến sĩ <br /> thật cụ thể, gần gũi, chắt lọc mà tiêu biểu và cảm động.<br /> ­ GV liên hệ thêm về đề tài người lính, tình đồng chí trong thơ Chính Hữu: <br /> “Đồng đội ta là hớp nước uống chung, bát cơm sẻ nửa, là chia nhau một mảnh tin  <br /> nhà, chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…” <br /> *Đoạn kết bài thơ:<br /> ? Hãy đọc các câu thơ  cuối của bài và phân tích vẻ  đẹp độc đáo của hình <br /> ảnh kết bài: “Đầu súng trăng treo”?<br /> ­ Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc, ba câu thơ dựng lên bức tranh  <br /> đẹp về tình đồng chí trong chiến đấu, biểu tượng đẹp về cuộc đời chiến sĩ:<br /> “Đêm nay rừng hoang, sương muối<br />                                          Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới<br />                                       Đầu súng trăng treo”.<br /> Ba hình  ảnh: người lính, khẩu súng, vầng trăng trong cảnh rừng hoang,  <br /> sương muối trong đêm phục kích đợi giặc. Chính tình đồng chí thắm thiết, sâu <br /> nặng đã gắn bó hai người­ rộng ra là những người lính cách mạng. Sức mạnh của  <br /> tình đồng chí đã giúp họ đứng vững bên nhau, vượt lên tất cả những khắc nghiệt  <br /> của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm họ giữa cảnh  <br /> đêm trăng mùa đông vô cùng lạnh giá nơi chiến trường.<br /> ­ Khi phân tích câu thơ “Đầu súng trăng treo”, tôi đã kết hợp cho HS theo dõi <br /> hình  ảnh trong sách giáo khoa để  giúp cho việc hình dung về  hình  ảnh thể  hiện  <br /> trong câu thơ được thuận lợi và đầy ấn tượng.<br /> <br /> <br /> 11<br /> + Câu thơ vừa cô đọng vừa gợi hình, gợi cảm. Câu thơ gợi ra hình ảnh thực  <br /> và mối liên hệ bất ngờ của nhà thơ­ người lính: Mảnh trăng như treo lơ lửng trên  <br /> đầu ngọn súng, Súng và trăng, gần và xa, thực tại và mơ mộng, hiện thực và lãng <br /> mạn. Đó là vẻ đẹp hài hoà của tâm hồn chiến sĩ­ thi sĩ, vẻ đẹp của cuộc đời anh  <br /> bộ đội.<br /> + GV nêu thêm về ý kiến Chính Hữu về hình ảnh đầu súng trăng treo: “Đầu <br /> sung trăng treo” , ngoài hình  ảnh bốn chữ  này còn có nhịp điệu như  nhịp lắc của  <br /> một cái gì lơ lửng, chông chênh, trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở <br /> xa chứ  không buộc chặt, suốt đêm, vầng trăng  ở  bầu trời cao xuống thấp dần và <br /> có lúc như  treo lơ  lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ  giặc, vầng  <br /> trăng là một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật”.<br /> +” Đầu súng trăng treo” với ý nghĩa biểu tượng đẹp và khái quát cao nên tác <br /> giả đã dùng câu thơ này làm nhan đề cho cả tập thơ chống Pháp và chống Mỹ của <br /> mình: tập thơ “Đầu súng trăng treo”.<br /> Sau khi tìm hiểu bài thơ, GV hướng dẫn các em khái quát về  hình  ảnh <br /> người lính trong bài thơ: vẻ đẹp bình dị  mà cao cả  của người lính cách mạng, là <br /> anh bộ đội hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là anh bộ đội xuất thân <br /> từ  nông dân. Họ  sẵn sàng bỏ  lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi  <br /> làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Những người lính đã trải qua những gian lao, thiếu  <br /> thốn tột cùng: những cơn sốt run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông  <br /> giá lạnh.     Nhưng gian lao, thiếu thốn càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ  đội,  <br /> vẫn sáng lên nụ cười người lính. Những gian khổ, thiếu thốn của ngời lính được  <br /> tác giả miêu tả rất thật, không tô vẽ, cường điệu. Chi tiết thật đã được chọn lọc <br /> nên vừa chân thực vừa có sức gợi cảm cao. Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng <br /> đội. Kết tinh hình ảnh người lính và tình đồng chí ở họ là bức tranh đặc sắc trong <br /> đoạn cuối bài thơ.<br /> ­ Tổng kết: GV cho HS phát biểu cảm nhận về  giá trị  nội dung và nghệ <br /> thuật bài thơ. Chú ý ghi nhớ trong sách giáo khoa. <br /> ? Tại sao bài thơ  viết tình đồng đội của người lính lại được đặt tên là <br /> “Đồng chí” GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Đồng chí là cùng chung chí hướng, <br /> lí tưởng. Đây cũng là cách xưng hô của những người cùng chung một đoàn thể <br /> cách mạng. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể <br /> hiện sâu sắc tình đồng đội.<br /> GV nhấn mạnh thêm: Bài thơ là một trong những thành công sớm nhất của  <br /> thơ  ca viết về bộ  đội, đặc biệt là góp phần mở  ra phương hướng khai thác chất  <br /> thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị, bình thường, chân thật. “Đồng chí” là <br /> một bài thơ tiêu biểu của Chính Hữu và thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Nói <br /> đến Chính Hữu là người ta không thể không nhắc tới bài thơ nổi tiếng này.<br /> 2/ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:<br /> ­ Khi dạy bài thơ này, cần đạt được mục tiêu sau: Học sinh cảm nhận được <br /> nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính cùng hình  ảnh những  <br /> <br /> <br /> <br /> 12<br /> người lái xe Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi trong bài thơ. Thấy được  <br /> những nét riêng của giọng điệu, ngôn ngữ bài thơ.<br /> Rèn kỹ năng phân tích hình ảnh, ngôn ngữ thơ.<br /> Giáo dục học sinh tình cảm yêu quý người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt <br /> Nam.<br /> ­ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:<br /> + Học sinh đọc sách giáo khoa, GV nhấn mạnh các ý sau: Phạm Tiến Duật,  <br /> sinh năm 1941, quê ở Phú Thọ. Năm 1964, ông gia nhập quân đội, hoạt động trên <br /> tuyến đường Trường Sơn. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của các  <br /> nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước. <br /> Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện thể hệ trẻ trong cuộc kháng chiến  <br /> chống Mỹ, cứu nước qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong  <br /> trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ  ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ  trung, hồn  <br /> nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.<br /> ­ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật  <br /> được giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ <br /> “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.<br /> Giới thiệu chân dung Phạm Tiến Duật và các tác phẩm của ông, các bài thơ  đã  <br /> được phổ nhạc…<br /> ­ Hướng dẫn đọc: Giọng điệu vui tươi khoẻ khoắn, ngang tàng, dứt khoát;  <br /> nhịp thơ dài, câu thơ gần với câu văn xuôi, có vẻ lí sự  , ngang tàng… đó là giọng  <br /> điệu chủ yếu của bài thơ. Có đoạn đọc giọng tâm tình, chậm (Khổ thơ 7,8).<br /> GV đọc, gọi HS đọc, sau đó GV nhận xét bổ sung.<br /> ? Em có nhận xét gì về thể thơ? Thơ tự do, câu dài, nhịp điệu như câu văn  <br /> xuôi, ít vần, 4 câu một khổ.<br /> GV nêu tiếp: Bài thơ  là cảm xúc, suy nghĩ của tác giả  về  những chiếc xe  <br /> không kính và những người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ.  <br /> 7 khổ  thơ  đều xoay quanh và làm nổi bật chủ  đề­ tứ  thơ  chủ  đạo đó nên không <br /> thể và không cần chia đoạn.<br /> * Nhan đề bài thơ và hình ảnh những chiếc xe không kính:<br /> ­ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”: Nhan đề rất độc đáo, mới lạ. Bởi vì, <br /> mấy ai có thể hình dung những chiếc xe ô tô không còn kính chắn gió lại có thể <br /> khơi nguồn cho cảm hứng thơ? Xưa nay, những chiếc xe đưa vào thơ  ca thường <br /> được lãng mạn, mĩ lệ hoá ít nhiều.<br /> Hình  ảnh những chiếc xe trần trụi, xây xước, không kính, không đèn mà <br /> vẫn băng băng ra tiền tuyến, chở quân, chở đạn, gạo, súng, hướng về miền Nam <br /> là hình ảnh thực và thường gặp trong những năm tháng chống Mỹ gian lao và hào <br /> hùng. Hình  ảnh  ấy, lần đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến nay khơi dậy cảm  <br /> hứng thơ của Phạm Tiến Duật.<br /> * Hình  ảnh những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn­ chủ  nhân của  <br /> những chiếc xe không kính.<br /> ­ HS đọc sách giáo khoa.<br /> <br /> <br /> 13<br /> ? Hai câu thơ đầu có giọng điệu như thế nào? Giọng điệu ấy có phù hợp với tính <br /> cách người lái xe?<br /> ­ GV nhấn mạnh: Hai câu đầu có giọng điệu ngang tàng, lí sự với cấu trúc:  <br /> Không có….không phải vì không có…<br /> Thực ra có thể  nói: Xe không có kính vì kính đã bị  vỡ  do sức ép, sức rung  <br /> của bom. Nhưng nhà thơ  lại chọn cách nói như  là muốn tranh cãi với ai. Giọng  <br /> này rất phù hợp với tính cách ngang tàng, dũng cảm, đầy nghị lực, thích tếu nhộn <br /> của những lái xe Trường Sơn.<br /> ? Tư  thế, cảm giác và tâm trạng của người lái xe khi điều khiển chiếc xe  <br /> không có kính chạy trên những nẻo đường Trường Sơn như  thế  nào? Điệp từ <br /> “nhìn” có tác dụng gì? Các so sánh liên tiếp ở cuối khổ 2 có ý nghĩa gì ?<br /> ­ Tư  thế: ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự  tin, thanh thản: nhìn đất, nhìn <br /> trời, nhìn thẳng. Cách dùng điệp từ  “nhìn”, cùng từ  “thấy” góp phần tả  cái cảm <br /> giác thị giác của người lái xe.<br /> Cảm giác kì  lạ, đột ngột do xe chạy nhanh, do không còn có kính chắn gió <br /> nên mới thấy đắng, thấy cay mắt, khi giói thổi thốc vào mặt. Thiên nhiên trực tiếp <br /> vun vút, sa, ùa vào buồng lái, sao trời, cánh chim, con đường. Hình ảnh “con <br /> đường chạy thẳng vào tim” tả  cái cảm giác xúc động, khoan khoái khi cho xe  <br /> phóng nhanh.<br /> ? Hai khổ  thơ  3,4 tiếp tục giọng điệu như  thế  nào? Cách nói “ừ  thì”có tác  <br /> dụng gì? Hai khổ thơ làm sáng lên vẻ đẹp của phẩm chất gì của người lái xe?<br /> ­   Khổ   thơ   3,4:   khắc   hoạ   phẩm   chất   dũng   cảm,   tinh   thần   lạc   quan   coi  <br /> thường khó khăn gian khổ của người lái xe, vẫn bằng giọng điệu ngang tàng, đùa <br /> tếu, nghịch ngợm “không có kính  ừ  thì có bụi; Không có kính  ừ  thì  ướt áo…” lái <br /> xe ngày nắng thì ngập trong bụi (Bụi Trường Sơn nhoà trong trời lửa­ “Lá đỏ” – <br /> Nguyễn Đình Thi). Vậy mà chưa cần rửa, châm hút thuốc phì phèo, rồi nụ cười ha <br /> ha mạnh mẽ, sảng khoái, bất cần. Lái xe ngày mưa thì buồng lái như  ngoài trời.  <br /> Mặc kệ! Cứ  lái thêm trăm cây số  nữa là mưa sẽ  phải tạnh, là quần áo sẽ  khô.  <br /> Cách nói: ừ thì, chưa cần rửa, chưa cần thay… tiếp tục đưa ngôn ngữ lái xe, ngôn <br /> ngữ  văn xuôi đời thường vào thơ  làm cho bài thơ  mang giọng điệu mới mẻ, trẻ <br /> trung,rất nghịch.<br /> ? Hai khổ  thơ  5,6, cho người đọc thấy rõ hơn những nét sinh hoạt gì của <br /> những tiểu đội lính lái xe ?<br /> Trong các hình ảnh: cái bắt tay qua cửa kính vỡ, bếp Hoàng Cầm, võng mắc <br /> chông chênh đường xe chạy, em thích nhất hình ảnh nào?  Vì sao?<br /> ­ HS trả lời, GV nhận xét, bổ sung:<br /> Những người chiến sĩ lái xe, vui trong niềm vui  ấm áp của tình đồng chí, <br /> đồng đội. “Bắt tay qua cửa kính vỡ”, cái bếp Hoàng Cầm không khói dựng giữa <br /> trời mà thằng giặc Mỹ chẳng thể gì phát hiện, chiếc võng dù mong manh mà bền  <br /> chắc mắc đu đưa chông chênh, trên thùng xe hay nơi dừng xe trên đường.Tất cả <br /> chỉ là tạm thời còn mục đích chính là đi, lại đi, lại lên đường, ôm vô lăng đưa xe  <br /> về  phía trước. Sinh hoạt khẩn trương nhưng vẫn đàng hoàng, không hề  tạm bợ.  <br /> <br /> <br /> 14<br /> “Võng mắc chông chênh” là tạm thời, nhưng cũng là những phút nghỉ  ngơi hiếm <br /> có, những phút sum họp gia đình, đồng đội đặc biệt của họ hàng nhà lính lái xe.<br /> ? GV cho HS thảo luận nhóm câu hỏi: Nhà thơ trở lại tả hình dáng chiếc xe <br /> không kính để làm gì? Câu kết “Chỉ cần trong xe có một trái tim” hay ở chỗ nào?<br /> Tác giả  nhắc lại, tả  lại hình dáng chiếc xe không còn nguyên vẹn là để <br /> khẳng định những khó khăn, gian khổ, nguy hiểm ngày càng tăng, ngày càng ác <br /> liệt của nhiệm vụ  phục vụ  chiến đấu của những người lính lái xe Trường Sơn,  <br /> nhưng cuối cùng, nhiệm vụ  vẫn là trên hết, trước hết. Tất cả  vì miên Nam ruột  <br /> thịt! Tất cả  để  chiến thắng giặc Mỹ  xâm lược ! Phía trước là miên Nam, phía <br /> trước là mặt trận; phía trước là mục đích. Không có khó khăn nào, kẻ thù nào cản <br /> nổi xe ta đi. Vì sao? Đơn giản vì trong xe có một trái tim của người chiến sĩ lái xe <br /> anh hùng.Ý chí và quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ  quốc của <br /> những chiến sí lái xe đã thể  hiện trong cách nói, hình  ảnh mới lạ  và bất ngờ  và <br /> chân thực ấy.<br /> * Tổng kết, luyện tập:<br /> ? Em hãy nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật bài thơ ? Nội dung bài thơ?<br /> GV hướng dẫn: Nhiều chi tiết thực của đời sống chiến tranh được đưa vào  <br /> bài thơ  một cách tự  nhiên, mới lạ, bất ngờ  mà hợp lý, mà hình  ảnh trung tâm là  <br /> những chiếc xe không kính.<br /> Giọng điệu ngang tàng, dí dỏm, hóm hỉnh mà chân thực, bộc trực, ồn ào rất <br /> phù<br /> hợp với tính cách phóng khoáng của những người lính lái xe.Thể thơ tự do, lời thơ <br /> rất gần với lời nói thường, lời văn xuôi mà vẫn thấm đẫm chất thơ.<br /> Phạm Tiến Duật đã mở  đầu thành công một phương pháp mới cho thơ  ca Việt  <br /> Nam hiện đại: mạnh dạn đưa thực tế  vào thơ, rút ngắn khoảng cách giữa thơ  và <br /> văn xuôi, ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói.<br /> ­ HS đọc phần ghi nhớ trong sách giáo khoa.<br /> 3/ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải<br /> Khi dạy bài này, tôi đã xác định mục tiêu cần đạt: Học sinh cảm nhận được  <br /> những xúc cảm của tác giả  trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát <br /> vọng đẹp đẽ  muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời. Từ  đó  <br /> mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa, giá trị của cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có <br /> ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.<br /> Rèn kỹ năng cảm thụ, phân tích hình ảnh thơ  trong mạch vận động của tứ <br /> thơ.<br /> Giáo dục học sinh trách nhiệm của mỗi người là tham gia xây dựng quê hương <br /> đất nước giàu đẹp. Học sinh phải ra sức học tập để đạt kết quả cao, sau này trở <br /> thành người công dân tốt.<br /> * Giới thiệu tác giả, tác phẩm:<br /> Học sinh đọc sách giáo khoa, GV nhấn mạnh các ý sau đây:<br /> ­ Thanh Hải  (1930­1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê  ở  Thừa <br /> Thiên – Huế. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu  <br /> <br /> <br /> 15<br /> nước, Thanh Hải  ở  lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có  <br /> công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam.<br /> ­ Bài thơ  “Mùa xuân nho nhỏ” được viết không bao lâu trước khi nhà thơ <br /> qua đời, thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của  <br /> tác giả. Bài thơ đã được phổ nhạc và nhiều người yêu thích…<br /> * Hướng dẫn đọc:<br /> ­ GV hướng dẫn học sinh cách đọc: Giọng vui tươi và suy ngẫm, nhịp thơ <br /> lúc nhanh, tưng bừng, phấn khởi và khẩn trương, lúc chậm khoan thai, càng về <br /> cuối càng lắng chậm,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2