SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
PHẦN I: MỞ ĐẦU<br />
1. Lí do chọn đề tài<br />
Trong các môn học của chương trình trung học cơ sở thì Hóa học là <br />
môn học được học sinh tiếp cận muộn hơn so với các môn học khác, phải tới <br />
lớp 8 học sinh mới được học môn hóa học. Trong khi đó các môn học như <br />
Toán và Tiếng Việt đã có từ bậc tiểu học, được học sinh được làm quen từ <br />
trước nên việc học tập sẽ có phần thuận lợi hơn, nội dung kiến thức được <br />
dàn trải đều trong suốt cả cấp học. Đối với môn Hóa học, do được tiếp cận <br />
muộn nên việc nghiên cứu, học tập của học sinh không được thuận lợi bằng <br />
các môn học khác. Để học sinh làm quen với cách học bộ môn hóa học, giáo <br />
viên cần phải sử dụng đến các phương tiện trực quan đặc trưng của bộ môn <br />
hóa học đó là hệ thống các thí nghiệm hóa học.<br />
Các thí nghiệm hóa học chính là điểm thuận lợi để giáo viên có thể kết <br />
nối bản chất của sự vật, hiện tượng với kiến thức lí thuyết trong chương <br />
trình một cách hiệu quả mà không hề khô khan. Bằng cách tiến hành các thí <br />
nghiệm trực quan hoặc cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên giúp <br />
học sinh tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng bằng cách quan sát trực tiếp. <br />
Nhờ đó, học sinh sẽ dễ hiểu bài, nhớ kiến thức, từ đó vận dụng được kiến <br />
thức đã học vào thực tế cuộc sống.<br />
Qua thực tế giảng dạy môn Hóa học chương trình trung học cơ sở, bản <br />
thân tôi nhận thấy hệ thống thí nghiệm mà bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn <br />
tuy có làm rõ trọng tâm bài học nhưng chưa thực sự hấp dẫn để kích thích <br />
được hứng thú của người học.<br />
Hưởng ứng cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học theo hướng <br />
lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, hướng <br />
dẫn học sinh khám phá kiến thức. Tuy nhiên, hệ thống thí nghiệm nếu như <br />
xây dựng rập khuôn theo sách giáo khoa có thể chưa tạo được điểm nhấn, <br />
chưa có sức thu hút học sinh dù tiến hành nhiều thí nghiệm. Vì vậy, tôi nhận <br />
thấy cần phải nghiên cứu, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa <br />
bằng những thí nghiệm sinh động, hấp dẫn, kích thích tính tò mò, sáng tạo, <br />
khám phá kiến thức của học sinh mà vẫn đảm bảo nội dung bài học.<br />
Trên cơ sở Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân từ năm học 20152016 <br />
cùng với sự nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo trong quá trình dạy học nhằm <br />
giúp học sinh học tập bộ môn hóa học hứng thú hơn, tăng khả năng vận dụng <br />
kiến thức vào cuộc sống, nâng cao chất lượng dạy học hóa học; tôi đề xuất <br />
đề tài: “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí <br />
nghiệm ở chương trình hóa học Trung học cơ sở”. Mong rằng đề tài sẽ <br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 1<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
giúp học sinh học tập bộ môn Hóa học một cách hứng thú, thêm yêu mến môn <br />
học này hơn.<br />
<br />
<br />
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
a) Mục tiêu:<br />
Mục tiêu của đề tài là xây dựng kĩ năng thực hành thí nghiệm, tạo hứng <br />
thú học tập và hình thành cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề một cách <br />
khoa học, sáng tạo, đưa hóa học và thực tế cuộc sống lại gần nhau hơn, góp <br />
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học môn Hóa học trong trường <br />
Trung học cơ sở.<br />
b) Nhiệm vụ:<br />
Giáo viên lựa chọn, thay thế, thêm bớt các thí nghiệm trong mỗi bài dạy <br />
sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành theo từng nhóm nhỏ (nếu có nhiều thí <br />
nghiệm thể hiện tính chất của chất thì nên cho học sinh làm liên tiếp, ghi <br />
hiện tượng quan sát vào bảng sau đó nêu các tính chất của chất rồi viết các <br />
phương trình hóa học để tiết kiệm thời gian). <br />
Giáo viên tạo điểm nhấn khi thực hiện các thí nghiệm bằng cách thay <br />
thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp <br />
dẫn, tương đương mà vẫn đảm bảo về mặt nội dung kiến thức. Những thí <br />
nghiệm thay thế phải tạo được sự hứng thú vượt trội so với thí nghiệm ban <br />
đầu.<br />
Để học sinh có thể nhớ tốt kiến thức, giáo viên nên để cho các em tự <br />
mình chuẩn bị dụng cụ, hóa chất gần gũi với cuộc sống (như giáo viên đã <br />
định hướng trong đề tài); sau đó là hãy để các em tự là thí nghiệm theo nhóm <br />
vì chỉ có tự làm thí nghiệm học sinh mới nâng cao được kĩ năng tiến hành thí <br />
nghiệm, tăng cường khả năng quan sát hiện tượng thí nghiệm, phát hiện ra <br />
những quy luật bản chất và từ đó học sinh sẽ tìm thấy vấn đề cần giải <br />
quyết. Để tạo động lực khám phá kiến thức, giáo viên cần chuẩn bị h ệ thống <br />
câu hỏi gợi mở, giúp học sinh tự mình chiếm lĩnh tri thức Có như vậy, các em <br />
mới dần làm quen được phương pháp làm việc một cách khoa học, rèn luyện <br />
tính cẩn thận, tư duy suy luận logic và quan trọng hơn là biết phối hợp với <br />
các thành viên trong nhóm để giải quyết nhiệm vụ học tập, tăng cường tình <br />
đoàn kết.<br />
3. Đối tượng nghiên cứu <br />
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số bài dạy có sử dụng thí <br />
nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở.<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 2<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu<br />
Khuôn khổ nghiên cứu: Các bài dạy có sử dụng thí nghiệm hóa học <br />
trong chương trình Trung học cơ sở.<br />
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 8,9 trường THCS Dur Kmăn.<br />
Thời gian: Năm học 2015 2016<br />
<br />
<br />
5. Phương pháp nghiên cứu<br />
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: <br />
Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu: Qua việc nghiên cứu các <br />
tài liệu bồi dưỡng giáo viên; tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, <br />
kĩ năng; sách giáo khoa, sách giáo viên ; một số thiết kế bài dạy và tài liệu <br />
khác có liên quan (phương pháp giảng dạy bộ môn hóa học) … đã giúp tôi <br />
định hướng được cách thức, phương pháp tối ưu trong giảng dạy bộ môn Hóa <br />
học. Đặc biệt, một nguồn tài liệu vô cùng phong phú, đa dạng về thể loại và <br />
hình thức – đó là mạng Internet. Qua việc tìm hiểu các thí nghiệm ở trang <br />
điện tử này, tôi đã thu thập được rất nhiều thí nghiệm vui, hấp dẫn (pháo <br />
hoa, làm sữa chua…). <br />
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: <br />
Phương pháp điều tra: giáo viên điều tra về việc học bộ môn hóa học <br />
như: niềm yêu thích bộ môn, được làm thí nghiệm, thích làm thí nghiệm hóa <br />
học, kết quả học tập bộ môn hóa học, đã hiểu biết/ ứng dụng thực tế kiến <br />
thức hóa học vào thực tế cuộc sống.<br />
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: qua soạn giáo án và <br />
giảng dạy trong thực tế, dự giờ, rút kinh nghiệm từ các tiết dạy của đồng <br />
nghiệp cũng như thái độ học tập, kết quả học tập của học sinh, từ đó tổng <br />
kết kinh nghiệm giáo dục.<br />
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động: thường xuyên trò <br />
chuyện với học sinh để biết được tâm tư nguyện vọng về cách thức học tập <br />
của các em, về những phương pháp giáo viên giảng dạy có tạo chuyển biến <br />
gì về kiến thức, nhận thức, hành động của các em…<br />
Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm: Giáo viên yêu cầu học sinh <br />
tự làm thí nghiệm dựa vào các hóa chất, dụng cụ mà giáo viên/ tự bản thân <br />
các em chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Kết hợp với thí nghiệm mà giáo <br />
viên đưa vào là hệ thông câu hỏi gợi mở kiến thức. Giáo viên đo lường hiệu <br />
quả của thí nghiệm đó mang lại có khác gì so với thí nghiệm như trong sách <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 3<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
giáo khoa yêu cầu tiến hành hay không. Từ đó, giáo viên rút ra kinh nghiệm <br />
cho bản thân.<br />
c) Phương pháp thống kê toán học: với mục đích đầu tiên là khảo sát <br />
định lượng về sự yêu thích bộ môn hóa học trong hệ thống các môn học ở <br />
cấp Trung học cơ sở; thứ hai là tính toán tỉ lệ phần trăm chất lượng học bộ <br />
môn hóa học của học sinh; thứ ba là xem xét mức độ vận dụng kiến thức bài <br />
học vào thực tế cuộc sống.<br />
PHẦN II: NỘI DUNG<br />
1. Cơ sở lí luận<br />
Theo nghị quyết 29 NQ/TW Trung ương 8 khóa XI: Tiếp tục đổi mới <br />
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích <br />
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc <br />
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách <br />
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và <br />
đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo viên khai thác thiết bị dạy <br />
học (trong đó có công nghệ thông tin) tăng cường thí nghiệm, thực hành trực <br />
quan (kênh chữ, kênh hình) để nâng cao hiệu quả dạy học và gắn bài giảng <br />
sát với thực tế của cuộc sống. Đã có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã <br />
được áp dụng, triển khai và mang lại kết quả hết sức khả quan: Phương <br />
pháp dạy học nhóm, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học <br />
theo dự án, phương pháp bàn tay nặn bột… <br />
Trường tôi công tác là 1 trong 12 trường trên cả nước thí điểm mô hình <br />
Trường học mới. Sự khác biệt của mô hình Trường học mới so với mô hình <br />
giáo dục đại trà chủ yếu nằm ở 2 điểm quan trọng: Thay đổi cách thức tiếp <br />
cận tài liệu của học sinh và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo <br />
dục của giáo viên. Qua gần 3 năm dạy học theo mô hình này đã chứng minh <br />
việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mang lại nhiều kết <br />
quả tốt đẹp. Trong đó, học sinh đóng vai trò trung tâm của hoạt động dạy học <br />
còn giáo viên là người trực tiếp tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các <br />
hoạt động học tập. Do đó, phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo <br />
dục của giáo viên gần như quyết định hoàn toàn đến năng lực, phẩm chất của <br />
học sinh. Nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt, khéo léo các phương pháp <br />
cũng như phương tiện dạy học thì kết quả dạy học sẽ từng bước được nâng <br />
cao. <br />
Qua việc nghiên cứu, áp dụng, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy đối với <br />
môn đặc thù như Hóa học, nếu giáo viên khai thác được lợi thế của bộ môn <br />
(thí nghiệm, thực hành) sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực: tạo hứng thú, rèn <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 4<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
luyện khả năng quan sát, tính cẩn thận, kĩ năng làm thí nghiệm, tư duy khoa <br />
học, gắn kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống.<br />
Đề tài mà bản thân tôi muốn đề xuất phần nào cũng đã đáp ứng được <br />
yêu cầu trên. Trước mắt là giúp học sinh nắm được nội dung trọng tâm của <br />
bài học, tạo hứng thú học tập. Sau nữa là tạo cho học sinh tâm thế chủ động <br />
khám phá kiến thức mới. Đồng thời, hình thành tư duy khoa học, năng lực <br />
giải quyết vấn đề, các kĩ năng làm việc nhóm, góp phần hình thành phẩm <br />
chất và tăng khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống cho các em <br />
học sinh.<br />
a. Vai trò quan trọng của thí nghiệm trong dạy học hóa học<br />
Thí nghiệm có vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học và quan <br />
trọng đặc biệt trong dạy học hóa học<br />
Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận <br />
thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách <br />
quan được thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó <br />
con người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy <br />
ra để phục vụ cho các muc đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ <br />
những cái phụ, không bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. <br />
Thí nghiệm giúp con người phát hiện ra các quy luật còn ẩn náu trong thế giới <br />
tự nhiên. Mặt khác, nó còn giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những <br />
giả thuyết khoa học. Đúng như Ăng ghen đã nói: “Trong nghiên cứu khoa <br />
học tự nhiên, cũng như lịch sử, phải xuất phát từ những sự thật đã có, <br />
từ những hình thái hiện thực khác nhau của vật chất; cho nên trong khoa <br />
học lí luận về tự nhiên, chúng ta không thể cấu tạo nên mối liên hệ để <br />
ghép chúng vào sự thật, mà phải từ những sự thật đó, phát hiện ra mối <br />
liên hệ ấy, rồi phải hết sức chứng minh những mối liên hệ ấy bằng <br />
thực nghiệm”.<br />
Thí nghiệm là nền tảng của việc dạy học hóa học. Nó giúp học sinh <br />
chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Khi làm thí <br />
nghiệm, học sinh sẽ làm quen với các chất hóa học và trưc tiếp nắm bắt các <br />
tính chất lí, hóa của chúng. Từ đó các em hiểu được các quá trình hóa học, <br />
nắm vững các khái niệm, định luật của hóa học. Nếu không có thí nghiệm thì:<br />
+ Giáo viên sẽ tốn nhiều thời gian để giảng giải nhưng vẫn không rõ và <br />
không hết ý vì không phải mọi thứ đều có thể diễn đạt trọn vẹn bằng lời. <br />
Lời nói thì trừu tượng còn các thí nghiệm thì cụ thể.<br />
+ Học sinh tiếp thu kiến thức thiếu chính xác và vững chắc. Các em sẽ <br />
khó hiểu bài vì không có những biểu tượng rõ ràng, cụ thể về các chất, các <br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 5<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
hiện tượng hóa học. Ví dụ: Phản ứng tạo kết tủa đồng (II) hiđroxit dạng keo, <br />
màu xanh. Nếu không có thí nghiệm thì học sinh không thể hình dung được <br />
dạng keo như thế nào. Màu xanh thì có nhiều màu xanh khác nhau.<br />
+ Học sinh sẽ chóng quên khi không hiểu bài, không có ấn tượng sâu <br />
sắc về các hình ảnh cụ thể...<br />
Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tế. Nhiều thí nghiệm rất <br />
gần gũi với đời sống, với các quy trình công nghệ. Vì vậy, thí nghiệm giúp <br />
học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống.<br />
Thí nghiệm giúp học sinh rèn luyên các kĩ năng thực hành (các thao tác <br />
và cách thức tiến hành thí nghiệm), hình thành những đức tính của người lao <br />
động mới: cẩn thận, khoa học, kỉ luật.<br />
Thí nghiệm giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành thế giới quan <br />
duy vật biện chứng. Khi tự tay làm thí nghiệm hoặc được tận mắt nhìn thấy <br />
những hiện tượng hóa học xảy ra, học sinh sẽ tin tưởng vào kiến thức đã học <br />
và cũng thêm tin tưởng vào chính bản thân mình.<br />
Khi làm thí nghiệm rất dễ gây húng thú học tập. Học sinh không thể <br />
yêu thích bộ môn và không thể say mê khoa học với những bài giảng lí thuyết <br />
khô khan. Thí nghiệm cùng với những hiện tượng thí nghiệm kì lạ, hấp dẫn <br />
chính là thuận lợi riêng của bộ môn hóa học so với các bộ môn khoa học khác. <br />
Nếu giáo viên biết tận dụng, phát triển một cách sáng tạo, linh hoạt trong quá <br />
trình dạy học thì kết quả của hoạt động dạy học hóa học trong trường phổ <br />
thông chắc chắn sẽ được nâng cao.<br />
b. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống thí nghiệm trong chương <br />
trình hóa học Trung học cơ sở<br />
Muốn các thí nghiệm đi vào các bài dạy hóa học ở chương trình trung <br />
học cơ sở một cách hiệu quả thì phải xây dựng hệ thống thí nghiệm theo các <br />
nguyên tắc sau:<br />
Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn được các <br />
thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, trọng tâm.<br />
Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục<br />
Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú với người dạy và người <br />
học <br />
Thí nghiệm dễ kiếm hóa chất, đơn giản, dễ làm<br />
Việc thực hiện thí nghiệm không được mất quá nhiều thời gian, làm <br />
ảnh hưởng đến nội dung bài dạy<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 6<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
Thí nghiệm phải an toàn, càng ít độc hại càng tốt. Nên thay các thí <br />
nghiệm độc bằng các thí nghiệm không độc hoặc ít độc hại hơn.<br />
Số lượng thí nghiệm trong 1 bài dạy cần hợp lí, không nên quá nhiều <br />
để học sinh có thời gian rèn các kĩ năng khác<br />
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu<br />
Trước khi áp dụng đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát nhận thức của học <br />
sinh về tầm quan trọng của thí nghiệm, các tiết thực hành môn hóa học; và <br />
các hình thức tiếp xúc với thí nghiệm của học sinh ở trường Trung học cơ sở <br />
Dur Kmăn. Kết quả nhận được như sau: <br />
Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của thí nghiệm hóa <br />
học<br />
13,2%<br />
KHÔNG QUAN TRỌNG<br />
27,4%<br />
<br />
KHÔNG RÕ<br />
29,2%<br />
<br />
ÍT QUAN TRỌNG 25,5%<br />
<br />
QUAN TRỌNG 4,7%<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1: Nhận thức của học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn về <br />
tầm quan trọng của thí nghiệm trong tiết học hóa học <br />
<br />
CÁC HÌNH THỨC TIẾP XÚC THÍ NGHIỆM HÓA HỌC CỦA HỌC SINH<br />
Chưa bao giờ làm thí nghiệm,chỉ xem các bạn làm 30,6%<br />
Trực tiếp làm thí nghiệm 27,8%<br />
<br />
Chỉ thầy cô làm thí nghiệm, học sinh ngồi quan sát 42,5%<br />
9,3%<br />
Thầy cô chiếu thí nghiệm trên màn chiếu<br />
32,4%<br />
Thầy cô chỉ dạy lí thuyết, không làm thí nghiệm<br />
<br />
BBiểu đồ 2: Các hình thức tiếp xúc thí nghiệm của học sinh trường <br />
Trung học cơ sở Dur Kmăn trong các tiết học có sử dụng thí nghiệm hóa học<br />
Một số nguyên nhân của tình trạng trên:<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 7<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
Thứ nhất: Do chương trình sách giáo khoa<br />
Hệ thống thí nghiệm được xây dựng trong sách giáo khoa môn Hóa học <br />
8, 9 hiện hành cơ bản đã đáp ứng được phần nào các yêu cầu làm rõ trọng <br />
tâm bài học, hình thành được 1 số kĩ năng làm thí nghiệm đơn giản; khả năng <br />
quan sát, suy luận, tư duy logic trong quá trình học tập hóa học ở các bài dạy <br />
có sử dụng thí nghiệm. Tuy nhiên, các thí nghiệm trong sách giáo khoa còn <br />
mang nặng tính rập khuôn, máy móc, chưa kích thích được niềm đam mê <br />
nghiên cứu học tập, tính sáng tạo của học sinh. <br />
Thứ hai: Do nhận thức của học sinh <br />
Đa số học sinh trong địa bàn trường tôi công tác có hoàn cảnh khó khăn, <br />
nhà xa trường, bố mẹ chưa quan tâm đúng mức, đầu vào thấp, nhận thức <br />
chậm. Ngoài ra, nhiều học sinh lười học bài, ham chơi, học tập chưa chuyên <br />
cần làm cho hiệu quả dạy học vẫn ở mức thấp. Rất nhiều học sinh vẫn hào <br />
hứng khi được làm thí nghiệm nhưng lại lười suy nghĩ, học tập thụ động, đối <br />
phó,chưa mạnh dạn, không chịu khó tìm tòi, ôn luyện nên gây ra nhiều khó <br />
khăn cho giáo viên đứng lớp.<br />
Theo khảo sát của bản thân trước khi áp dụng đề tài: có đến 60% học <br />
sinh không thích các tiết học hóa học, hơn 70% học sinh không muốn làm thí <br />
nghiệm. Nguyên nhân, qua tìm hiểu là do các em yếu kĩ năng thực hành, sợ <br />
hóa chất độc hại, cháy nổ và chưa tìm thấy niềm vui, sự cần thiết phải học <br />
bộ môn Hóa học.<br />
Thứ ba: Do điều kiện cơ sở vật chất của trường<br />
Ở một số thí nghiệm, do một số hóa chất khó bảo quản (dung dịch <br />
AgNO3, CaC2, dung dịch Br2…), một số dụng cụ thí nghiệm đắt tiền, dễ hỏng <br />
(thiết bị điện phân nước, cân Robecvan…) nên giáo viên không làm/ cho học <br />
sinh làm thí nghiệm được mà phải dạy chay hoặc chiếu thí nghiệm ảo trên <br />
màn hình chiếu. Điều này đã làm giảm khả năng thuyết phục học sinh tin <br />
tưởng vào khoa học, làm giamt hứng thú học tập của các em <br />
Thứ tư: Do thời lượng của tiết học<br />
Vì thời lượng của một tiết học tương đối ít (bao gồm ổn định lớp, <br />
kiểm tra bài cũ, sửa bài tập, dạy bài mới, củng cố, dặn dò, giải quyết một số <br />
tình huống sư phạm nếu có) nên làm giáo viên ngại chuẩn bị thí nghiệm cho <br />
học sinh làm. Nếu để học sinh tự mình tiến hành thí nghiệm thì có thể giáo <br />
viên không dạy hết bài (vì học sinh làm thí nghiệm chậm).<br />
Thứ năm: Do giáo viên dạy bộ môn Hóa học<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 8<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
Nguyên nhân chủ quan đến từ giáo viên: một số giáo viên chưa chịu khó <br />
đổi mới phương pháp dạy học, thường xuyên tránh các tiết học thực hành, <br />
chưa đầu tư nhiều vào bài dạy cũng như việc chuẩn bị thí nghiệm , làm thí <br />
nghiệm trên lớp làm giảm hứng thú học tập của học sinh và chất lượng dạy <br />
học, giáo dục. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ giáo viên, đó là chưa thực <br />
sự quan tâm đến các em học sinh: chưa đi sâu, đi sát để tháo gỡ khó khăn cho <br />
các em; chưa kịp thời động viên, khích lệ sự cố gắng, tiến bộ dù là nhỏ nhất <br />
của các em; chưa chịu khó tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em đối với <br />
bộ môn mình đang trực tiếp giảng dạy. <br />
Về các tiết học thực hành môn hóa học, thực tế giáo viên cũng chưa <br />
thực sự coi trọng vì đa số các tiết học này chỉ nhắc lại kiến thức đã biết. <br />
Nhiều khi học sinh không cần tiến hành thí nghiệm mà vẫn làm tốt bài tường <br />
trình. Ở các tiết học có sử dụng thí nghiệm, chủ yếu là giáo viên dùng thí <br />
nghiệm biểu diễn chứ không để học sinh tự làm vì sợ không đủ thời gian dạy <br />
hết kiến thức trong bài, học sinh ý thức chưa tốt nên không làm theo hướng <br />
dẫn của giáo viên, sợ học sinh làm vỡ dụng cụ thí nghiệm…<br />
Với yêu cầu hiện nay của ngành giáo dục đòi hỏi học phải đi đôi với <br />
hành tức là, sau khi nghiên cứu về một vấn đề nào đó, các em phải liên hệ <br />
được với thực tế để có thể giải quyết các mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống. <br />
Đây là nhiệm vụ khó khăn cũng là quan trọng hàng đầu của giáo viên. Nhiều <br />
điều tra nghiên cứu về tình hình của học sinh ở Việt Nam trong giai đoạn <br />
hiện nay cho thấy: học sinh Việt Nam nói chung khá giỏi về lí thuyết nhưng <br />
chưa áp dụng được vào thực tế cuộc sống. Điều này đã làm cho tôi trăn trở, là <br />
động lực để bản thân tìm tòi, thay đổi phương pháp dạy học hướng đến mục <br />
tiêu lấy học sinh làm trung tâm, tăng khả năng áp dụng lí thuyết đã học vào <br />
cuộc sống.<br />
Trước đây, bản thân tôi đã cố gắng để học sinh được trực tiếp làm thí <br />
nghiệm trong các tiết học. Tuy nhiên, vì chưa tạo được điểm nhấn cho nên dù <br />
học sinh làm thí nghiệm nhưng mức độ nhớ kiến thức chưa được tốt, chưa có <br />
sự hào hứng, bị lôi cuốn vào bài dạy. Những học sinh nhớ kiến thức thì lại <br />
không áp dụng được vào thực tế cuộc sống. Đây là điều làm bản thân tôi luôn <br />
trăn trở, tìm cách khắc phục. <br />
Do vậy, bản thân tôi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp, tìm tòi, <br />
nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào việc dạy học ở trường. Việc thay thế, <br />
thêm bớt một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, <br />
đẹp mắt, hấp dẫn sẽ làm cho các em háo hức chờ đợi đến tiết học môn hóa, <br />
hầu hết các em học sinh bị lôi cuốn vào bài giảng, tạo động lực để các em <br />
khám phá kiến thức mới. Mặt khác, nếu giáo viên thay thế một số hóa chất, <br />
dụng cụ ở các thí nghiệm trong sách bằng những hóa chất gần gũi với cuộc <br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 9<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
sống sẽ làm cho học sinh thấy được hóa học thật gần gũi với cuộc sống, <br />
thêm yêu mến môn hóa học và tăng khả năng vận dụng của bộ môn hóa học <br />
vào thực tế cuộc sống. Để làm được điều này đòi hỏi bản t hân người giáo <br />
viên phải luôn chủ động tìm tòi qua sách vở, qua thực tế cuộc sống và không <br />
ngại khó để đưa các thí nghiệm đó vào bài dạy. Mặt khác, giáo viên đứng lớp <br />
luôn phải là người yêu nghề, trăn trở với chất lượng giáo dục, mạnh dạn đổi <br />
mới phương pháp dạy học và đặc biệt là phải gần gũi, quan tâm nhiều hơn <br />
đến các đối tượng học sinh.<br />
Để áp dụng đề tài này vào bài dạy đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều <br />
thời gian, công sức để chuẩn bị cho học sinh (vì giáo viên phải thay thế một <br />
số dụng cụ, hóa chất trong sách bằng các hóa chất, dụng cụ khác). Thực tế có <br />
nhiều giáo viên rất ngại làm thí nghiệm cũng như chuẩn bị thí nghiệm cho <br />
học sinh chứ chưa nói đến việc tự mình đi tìm kiếm thí nghiệm, dụng cụ, <br />
thiết bị để thay thế cho các thí nghiệm trong sách giáo khoa. Để khắc phục <br />
khó khăn nêu trên, chỉ cần đội ngũ nhà giáo có tâm huyết, tất cả vì học sinh <br />
thân yêu, niềm vui của học sinh là động lực phấn đấu của giáo viên thì chắc <br />
chắn sẽ đạt được kết quả như mong đợi.<br />
Thứ nữa là khi chuẩn bị các thí nghiệm cũng như đưa các thí nghiệm <br />
trên vào bài học nếu giáo viên không chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi <br />
mở để các em học sinh khám phá kiến thức mới một cách chu đáo thì thí <br />
nghiệm làm cũng chỉ để các em xem cho vui mắt chứ không làm cho học sinh <br />
hiểu bài, nhớ bài và vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.<br />
Việc áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm trên sẽ không mang lại hiệu quả <br />
nếu các em học sinh không mạnh dạn, học tập thụ động, lười hoạt động <br />
(không làm thí nghiệm mà chỉ ngồi xem cho vui, không suy nghĩ dựa trên các <br />
câu hỏi gợi mở của giáo viên). Mặt khác, nếu bản thân giáo viên dạy học rập <br />
khuôn theo phương pháp truyền thụ, không chịu khó đổi mới, tìm tòi, sáng <br />
tạo, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực thì chắc chắn sẽ <br />
rất khó đạt hiệu quả. Nhiều giáo viên chưa thực sự gần gũi, quan tâm đến các <br />
em học sinh, nhiều khi các em chưa hiểu bài nhưng giáo viên không tìm cách <br />
giúp đỡ, gợi mở sẽ khiến các em sợ sai, không chủ động tham gia vào bài học. <br />
Về phía học sinh nói chung và học sinh trường Trung học cơ sở Dur <br />
Kmăn nói riêng, đa số các em chưa có sự đầu tư nhiều vào học tập, đặc biệt <br />
là môn hóa học nên giáo viên có tiến hành nhiều thí nghiệm vui mắt, hấp dẫn <br />
đến đâu mà ở học sinh không có sự ôn luyện các kiến thức cũ thì cũng không <br />
thể nhớ tốt các kiến thức đó được. <br />
Định hướng cho sự thay đổi đó là phải làm sao để các em hiểu bài, nhớ <br />
kiến thức và áp dụng được kiến thức trong đã học vào thực tế cuộc sống. Để <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn10<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
làm được điều này, tôi đa đưa ra giải pháp là thêm, bớt, thay thế một số thí <br />
nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm tương đương về mặt <br />
kiến thức nhưng gần gũi với cuộc sống. Mặt khác, để tăng hiệu quả hoạt <br />
động của học sinh trong giờ học, các thí nghiệm hấp dẫn, đẹp mắt được tiến <br />
hành. Ngoài ra, để học sinh hiểu bài thì giáo viên phải xây dựng hệ thống câu <br />
hỏi phù hợp với mức độ nhận thức của các em học sinh. Phải quan tâm sát <br />
sao đến từng đối tượng học sinh, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các <br />
em để các em mạnh dạn, tự tin trong học tập và cuộc sống.<br />
3. Nội dung và hình thức của giải pháp<br />
a) Mục tiêu của giải pháp<br />
Nhằm tạo cho học sinh có bầu không khí học tập sôi nổi, hứng thú, tự <br />
tin tiếp thu và khám phá kiến thức một cách chủ động. Học sinh hiểu và ghi <br />
nhớ kiến thức tốt hơn. Từ đó, hình thành cho học sinh kĩ năng thực hành, <br />
nhận biết, phân tích, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề một cách sáng <br />
tạo, khoa học. <br />
b) Nội dung và cách thức thực hiện của giải pháp<br />
Giáo viên chủ động tìm tòi, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo <br />
khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp dẫn, tạo động lực khám phá kiến thức <br />
mới mà vẫn đảm bảo nội dung bài học. Tiếp đến là thay đổi cách tổ chức <br />
hoạt động học: học sinh sẽ hoạt động theo nhóm, tự làm thí nghiệm và rút ra <br />
kiến thức dưới sự điều khiển của giáo viên.<br />
+ Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn <br />
được các thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, <br />
trọng tâm<br />
Các thí nghiệm hóa học dù là ở dạng nào thì cũng nhằm giúp học sinh <br />
tiếp thu tốt nội dung bài học và nắm vững hệ thống các kiến thức hóa học <br />
cần thiết trong chương trình phổ thông. Mặt khác, để việc tiếp thu kiến thức <br />
của học sinh có hiệu quả, không thể thí nghiệm một cách tràn lan mà phải có <br />
trọng tâm, trọng điểm. Khi lựa chọn các thí nghiệm để đưa vào bài dạy, tốt <br />
nhất nên chọn các thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu các kiến thức cốt lõi, <br />
trọng tâm. Số lượng các thí nghiệm trong một bài cũng không nên quá nhiều, <br />
có thể từ 3 đến 5 thí nghiệm là hợp lí.<br />
+ Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết <br />
phục<br />
Sử dụng thí nghiệm trong dạy học chính là một hình thức dạy học theo <br />
phương pháp trực quan. Vì vậy, thí nghiệm phải dễ quan sát, hiện tượng rõ <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn11<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
ràng, có tính thuyết phục. Chúng ta phải lựa chọn các phản ứng, các quá trình <br />
hóa học có kèm theo hiện tượng quan sát được dễ dàng bằng mắt thường. Đó <br />
là các phản ứng:<br />
Có sự biến đổi màu sắc<br />
Có tạo chất kết tủa, chất khí bay lên khỏi dung dịch<br />
Có sự tỏa nhiệt hay thu nhiệt<br />
Có hiện tượng cháy, nổ hay phát quang...<br />
Ở bài 13: Phản ứng hóa học (hóa 8): Khi giáo viên dạy phần III (Khi <br />
nào có phản ứng hóa học xảy ra) để chứng minh cho học sinh biết có một số <br />
phản ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác thì giáo viên nên cho học sinh <br />
tiến hành thí nghiệm giữa nhôm với iot: Nghiền nhỏ iot tinh thể rồi trộn với <br />
bột nhôm theo tỉ lệ thể tích 1:3 (1 muỗng thủy tinh nhỏ iot với 3 muỗng nhỏ <br />
bột nhôm). Để yên thì phản ứng không xảy ra nhưng nếu nhỏ khoảng 2 giọt <br />
nước vào thì hỗn hợp dần dần bốc cháy có khói màu tím (của hơi iot), màu <br />
vàng (của AlI3) và màu trắng của hơi nước.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thí nghiệm nhôm tác dụng với iot (phản ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác là <br />
nước)<br />
+ Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú người dạy và <br />
người học<br />
Một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh chưa yêu thích bộ <br />
môn hóa học là do thí nghiệm không hấp dẫn, không tạo được ham muốn <br />
hoạt động. Do đó, thí nghiệm không những chỉ cần đem lại hứng thú cho học <br />
sinh mà còn phải mang lại hứng thú cho người làm thí nghiệm. <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn12<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
Thông thường thì những thí nghiệm làm cho học sinh hứng thú cũng sẽ <br />
gây cho giáo viên hứng thú. Khi nhìn học sinh của mình chăm chú dõi theo các <br />
hiện tượng phản ứng xảy ra, thấy các em hoan hỉ cũng đủ làm cho giáo viên <br />
vui rồi. Để xóa dạy chay, một trong những phương pháp quan trọng là phải <br />
tìm tòi, thay thế, lựa chọn các thí nghiệm hấp dẫn , gần gũi với cuộc sống để <br />
đưa vào bài dạy. <br />
Ví dụ: ở bài Nước (hóa 8), khi giáo viên làm cho học sinh xem thí <br />
nghiệm Na tác dụng với nước thì nên thiết kế để cho thí nghiệm hấp dẫn <br />
hơn bằng cách thay thế bằng thí nghiệm“ Đốt cháy tàu chiến địch” như sau: <br />
Dùng 1 tờ giấy A4 để gấp tàu, chọc 1 lỗ thủng dưới đáy, đặt một mẩu Na <br />
vào tàu rồi đậy bên trên bằng vài mảnh giấy dễ bắt lửa. Thả tàu vào chậu <br />
nước có sẵn vài giọt dd phenolphtalein. Khi Natri gặp nước, tàu sẽ bùng cháy, <br />
trên mặt nước xuất hiện vết máu giặc loang nhuộm hồng cả khúc sông. Có <br />
một lưu ý khi tiến hành thí nghiệm: Vì Natri được bảo quản trong dầu hóa <br />
nên phía ngoài sẽ được bao phủ một lớp vỏ cứng, nếu không gọt sạch lớp vỏ <br />
cứng này trước khi cho vào nước, viên Natri sẽ gây nổ, bắn ra mang theo dung <br />
dịch xút gây bỏng, cháy áo quần. Nếu giáo viên tiến hành được thí nghiệm <br />
như đề xuất ở trên vừa tạo sự hứng thú cho học sinh, vừa có tác dụng giáo <br />
dục lòng yêu nước thông qua bài học. Để học sinh dự đoán được trong sản <br />
phẩm sinh ra có khí H2, giáo viên phải hướng cho học sinh sử dụng thính giác <br />
để cảm nhận về phản ứng (nếu lắng nghe, các em sẽ nghe thấy âm thanh <br />
phát ra từ phản ứng tiếng xì xì). Giáo viên nên gợi mở để củng cố tư duy <br />
logic cho học sinh: kết quả là sau phản ứng viên Natri (nhẹ hơn nước) tan <br />
trong nước; sự khác nhau giữa một chất nhẹ hơn nước tan trong nước tạo ra <br />
âm thanh xì xì và một chất nhẹ hơn nước khi tan trong nước không tạo ra âm <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn13<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
thanh là ở chỗ nào?Học sinh sẽ tự suy luận để rút ra: trong sản phẩm của <br />
phản ứng có khí.<br />
<br />
<br />
Hoặc ở bài Tính chất hóa học của muối (Hóa 9) giáo viên nên cho học <br />
sinh tiến hành thí nghiệm nhiệt phân muối KNO3 bằng cách châm tàn đóm vào <br />
tờ giấy A4 có hình vẽ bằng dd KNO3 (đã phơi khô). Giấy sẽ bị cháy nhanh, <br />
mạnh theo những chỗ có KNO3. Trước khi cho học sinh tiến hành thí nghiệm <br />
này, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kĩ tờ giấy (các em sẽ phát hiện ra các <br />
hình vẽ bằng những nét từ một chất rắn có màu trắng). Khi tiến hành thí <br />
nghiệm và quan sát hiện tượng, giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao ở các vết màu <br />
trắng trên tờ giấy lại cháy nhanh hơn những chỗ khác và cháy theo những nét <br />
đã vẽ? Học sinh có thể dự đoán được bí mật ẩn chứa là từ chất đã vẽ lên <br />
giấy. Giáo viên có thể gợi ý tiếp: Khi châm tàn đóm vào giấy ở vị trí có chất <br />
này, các em đang thực hiện phản ứng gì? Học sinh sẽ trả lời theo 2 hướng: <br />
Đốt chất này trong oxi không khí hoặc nhiệt phân chất này. Giáo viên thông <br />
báo: ở thí nghiệm này, các em đang nhiệt phân muối KNO 3 . Như vậy, để <br />
giấy cháy nhanh và chỉ lan đến vị trí có nét vẽ thì trong sản phẩm phản ứng <br />
phải có m<br />
Phản ộứt ch ấốt khí thúc đ<br />
ng “đ t cháy tàu chiẩếy cho ph ản ứng cháy m<br />
n địch”: Natri tác d ạướ<br />
ụng với n nh h ơn. Các em hãy d<br />
c có chứa dung dịch ự <br />
phenolphtalein<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
đoán chất khí này (Dựa vào công thức muối đem nhiệt phân, học sinh có thể <br />
dự đoán khí sinh ra là oxi)<br />
<br />
<br />
<br />
Ở bài Cacbon (hóa 9), phản ứng cháy của Cacbon có lẽ học sinh cũng <br />
đã gặp nhiều trong cuộc sống nhưng để tạo hứng thú học tập, giáo viên thay <br />
thế thí nghiệm đốt cacbon trong bình kín chứa khí oxi bằng thí nghiệm “Súng <br />
phun lửa”: Trộn bột than gỗ nghiền nhỏ với KMnO4 theo tỉ lệ 1: 1. Lấy vài <br />
muỗng hỗn hợp trên cho vào ống nghiệm khô, đun ống nghiệm trên ngọn lửa <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn14<br />
<br />
<br />
Phản ứng “vết lửa màu nhiệm”:phân hủy muối KNO3 được viết lên tờ giấy A4 (đã phơi <br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
đèn cồn. Một lúc sau trong ống nghiệm bắn ra những tia lửa sáng rực như <br />
súng phun lửa. Vì học sinh đã học bài: Điều chế oxi Phản ứng phân hủy ở <br />
lớp 8 nên có thể dễ dàng giải thích hiện tượng này (Khi đun nóng ống nghiệm <br />
trên ngọn lửa đèn cồn, KMnO4 bị phân hủy sinh ra khí oxi. Cacbon cháy trong <br />
oxi ở điều kiện đun nóng sẽ phản ứng rất mạnh tạo thành các tia lửa sáng <br />
rực bắn lên trong ống nghiệm trông rất đẹp mắt như súng phun lửa). <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phản ứng “súng phun lửa”: Cacbon tác dụng với oxi (do phân hủy muối KMnO4)<br />
<br />
Ví dụ như để mở đầu bài Axetilen (hóa 9), giáo viên đặt vấn đề: Em <br />
hãy kể tên một số chất dùng làm nhiên liệu? (học sinh sẽ trả lời: than, củi, <br />
giấy, vải, gas, xăng dầu, cồn...). Giáo viên hỏi tiếp: Theo em cục nước đá có <br />
cháy không? (100% học sinh trả lời là không). Sau đó, giáo viên thực hiện thí <br />
nghiệm “Đốt cháy nước đá”: Cho vài cục đất đèn CaC 2 bằng hạt ngô vào <br />
một chén sứ rồi cho một cục nước đá bằng ngón chân cái. Đưa que đóm đang <br />
cháy vào chén sứ, lập tức có lửa xanh bùng lên. Học sinh thấy hiện tượng lạ <br />
nên chắc chắn bị thu hút vào bài học. Từ đó, giáo viên dễ dàng điều khiển <br />
hoạt động học tập của các em theo tiến trình các bước đã xây dựng trong giáo <br />
án.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn15<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phản ứng “đốt cháy nước đá”: Đốt cháy axetilen (sinh ra do CaC2 tác dụng với nước)<br />
<br />
<br />
Ở bài 18 (hóa 9): Khi dạy tính chất nhôm tác dụng với oxi, giáo viên có <br />
thể làm cho học sinh xem thí nghiệm đẹp mắt như sau: Trộn nửa muỗng thủy <br />
tinh nhỏ bột nhôm với 1 muỗng thủy tinh KMnO 4 (gói trong tờ giấy, đặt trong <br />
bát sứ). Dùng bật lửa hoặc diêm châm vào cho tờ giấy cháy. Đứng cách xa thí <br />
nghiệm khoảng 1 mét để hóa chất không bắn vào người. Ta sẽ quan sát thấy <br />
bột nhôm cháy trông như pháo hoa, rất đẹp mắt. Tôi tin rằng, nếu thấy được <br />
hiện tượng thí nghiệm hấp dẫn như trên, học sinh sẽ háo hức, bị lôi cuốn vào <br />
nội dung bài học. Sẽ có động lực, ý chí, mong muốn giải thích hiện tượng. <br />
Chắc chắn hiệu quả bài dạy sẽ được nâng cao, học sinh sẽ nhớ kiến thức rất <br />
lâu và liên hệ được những hiện tượng các em thấy trong cuộc sống “Pháo <br />
hoa” (trong thành phần pháo hoa có bột nhôm).<br />
<br />
Hiện tượng pháo hoa: Phản ứng của bột nhôm với oxi (oxi sinh ra do phân hủy KMnO4) <br />
<br />
<br />
Bên cạnh lựa chọn hệ thống các thí nghiệm đưa vào bài dạy để tạo <br />
hứng thú cho người học, giáo viên cũng nên chuẩn bị một hệ thống các câu <br />
hỏi để dẫn dắt học sinh giải thích hiện tượng xảy ra, rút ra được kiến thức <br />
bài học.<br />
+ Thí nghiệm dễ kiếm hóa chất, đơn giản, dễ làm<br />
Phải cho học sinh thấy được hóa học là môn khoa học gần gũi với cuộc <br />
sống, các hóa chất và dụng cụ thí nghiệm cũng có thể được tìm thấy ở các <br />
vật thể, các chất thực tế xung quanh các em. <br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn16<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
Ở bài Tính chất hóa học của axit (Hóa 9), sau khi thử màu của quỳ tím <br />
trong dung dịch HCl hoặc H2SO4 và nêu ra được kết luận Dung dịch axit làm <br />
quỳ tím hóa đỏ; giáo viên có thể làm/ cho học sinh làm thí nghiệm xem xét sự <br />
thay đổi màu của quỳ tím trong nước cốt chanh như sau: Cắt 1 quả chanh <br />
thành nhiều miếng, phát cho mỗi nhóm 1 miếng, yêu cầu các em vắt nước cốt <br />
chanh vào chén sứ rồi nhúng mẩu giấy quỳ tím vào. Các em sẽ quan sát được <br />
hiện tượng nước cốt chanh làm quỳ tím hóa đỏ. Từ đó, giáo viên yêu cầu học <br />
sinh rút ra kết luận từ thí nghiệm này (Kết luận: Vậy, nước cốt chanh là một <br />
dung dịch axit). Giáo viên có thể thông báo thêm: Nước cốt chanh là một dung <br />
dịch axit hữu cơ có tên gọi axit citric.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Sự thay đổi màu của quỳ tím khi nhỏ nước cốt chanh (axit citric) lên<br />
<br />
<br />
Ở bài Tính chất hóa học của bazơ (Hóa 9), sau khi thử màu của quỳ tím <br />
trong dung dịch NaOH và nêu ra được kết luận Dung dịch bazơ làm quỳ tím <br />
hóa xanh; giáo viên có thể làm/ cho học sinh làm thí nghiệm thử màu của quỳ <br />
tím trong dung dịch bột giặt như sau: Giáo viên cho bột giặt vào c hén sứ, thêm <br />
nước cất, khuấy đều, rót dung dịch bột giặt chia cho các nhóm; yêu cầu các <br />
nhóm nhúng mẩu giấy quỳ tím vào dung dịch trên, rút ra kết luận. Các em sẽ <br />
quan sát được hiện tượng dung dịch bột giặt làm quỳ tím hóa xanh. Từ đó, <br />
học sinh rút ra kết luận (Vậy, dung dịch bột giặt mang tính bazơ). <br />
Bằng những thí ngiệm về các chất gần gũi xung quanh các em (miếng <br />
chanh, bột giặt…)như trên, các em mới thấy sự lí thú của hóa học, hiểu hơn <br />
về các chất mình tiếp xúc, sử dụng hàng ngày, cảm nhận đúng hơn về vai trò <br />
của hóa học Khoa học của cuộc sống!<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn17<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ví <br />
dụ: <br />
Khi <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Sự thay đổi màu của quỳ tím khi nhỏ dung dịch bột giặt (dung dịch có tính kiềm) lên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
cho học sinh làm thí nghiệm muối tác dụng với axit, giáo viên có thể dùng <br />
phấn viết bảng hay vỏ trứng (thành phần chính là CaCO3) tác dụng với dung <br />
dịch axit.Trong phòng thí nghiệm ở trường Trung học cơ sở có hóa chất <br />
CaCO3 nhưng ở dạng bột. Nếu cho CaCO3 tác dụng dd axit thì khó để quan sát <br />
hiện tượng xảy ra. Bằng việc thay hóa chất CaCO3 bằng vỏ trứng hoặc viên <br />
phấn học sinh sẽ thấy hóa học thật gần gũi với cuộc sống và thêm hiểu biết <br />
về các chất xung quanh các em. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Dụng cụ điện phân dd NaCl bão hòa (gồm 3 pin 1,5V; 2 đoạn bút chì; dây dẫn điện và băng <br />
keo) <br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn18<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phản ứng của CaCO3 (thành phần chính trong vỏ trứng, phấn viết bảng) với dung dịch <br />
HCl<br />
Hoặc giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh làm thiết bị điện phân <br />
dung dịch muối ăn NaCl đơn giản bằng nguồn điện là 3 pin 1,5V, hai điện <br />
cực làm bằng 2 ruột bút chì để học sinh thấy được quá trình điều chế ra dung <br />
dịch NaOH bằng phương pháp điện phân dung dịch muối NaCl bão hòa.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bộ thiết bị điện phân dung dịch muối ăn gồm: 3 pin 1,5V; 2 đoạn bút chì; dây dẫn và băng <br />
keo<br />
Sau khi được làm, quan sát thí nghiệm điện phân dd muối ăn bão hòa, <br />
các em sẽ biết thêm được: lõi bút chì dẫn được điện (kiến thức này sẽ được <br />
<br />
<br />
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn19<br />
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm <br />
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở<br />
<br />
<br />
nhắc tới trong bài Cacbon). Do đó, mức độ khắc sâu kiến thức sẽ được nâng <br />
cao vì các em đã được tự bản thân làm ra thiết bị điện phân dd muối ăn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ở bài Tính chất hóa học của muối <br />
(hóa 9), thay vì cho kim loại Cu tác dụng <br />
với dung dịch AgNO3 (hóa chất đắt tiền, <br />
khó để bảo quản), giáo viên nên thay thế <br />
bằng phản ứng của Fe tác dụng với dung <br />
dịch CuSO4 (hiPhảệ n n t ượng rõ ràng, d<br />
ứng đi ện phân dung d ễị quan<br />
ch mu ối ăn NaCl bão hòa tạo ra NaOH <br />
sát mà hóa chất rẻ tiền hơn). Tuy nhiên khi <br />
làm dung dịch phenol phtalein hóa hồng<br />
tiến hành, giáo viên phải chuẩn bị một ống <br />
nghiệm chứa dung dịch CuSO4 để đối c