intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Tổng hợp và xác định các đặc trưng của một số hydroxyte cấu trúc lớp kép ứng dụng trong xử lý môi trường loại NO3-

Chia sẻ: Lê Văn Nguyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:77

89
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm đề tài "Tổng hợp và xác định các đặc trưng của một số hydroxyte cấu trúc lớp kép ứng dụng trong xử lý môi trường loại NO3-"nội dung báo cáo gồm 4 chương: Tổng quan, thực nghiệm, kết quả và thảo luận, kết luận. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Tổng hợp và xác định các đặc trưng của một số hydroxyte cấu trúc lớp kép ứng dụng trong xử lý môi trường loại NO3-

BÁO CÁO SÁNG KIẾN<br /> I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN<br /> <br /> Trong quá trình học tập tại khoa hóa trường ĐHKHTN­ ĐHQG Hà Nội đồng <br /> thời trong thời gian làm luận văn tại Viện Hóa Học ­ Viện Khoa học và Công nghệ <br /> Việt Nam đã giúp tôi hiểu thêm được công việc vất vả  mà các nhà nghiên cứu khoa <br /> học đã cống hiến để  tìm tòi và tổng hợp ra vật liệu mới nhằm nâng cao chất lương  <br /> cuộc sống và sự  văn minh của nhân loài. Sáng kiến của tôi được thu gọn trong một  <br /> phần  thạc sỹ khoa học của tôi, được sự giúp đỡ sâu sắc của  cô Phan Thị Ngọc Bích ­ <br /> Viện Hóa Học ­ Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cũng như ban lãnh đạo Viện <br /> Hoá học đã giúp đỡ,  tạo điều kiện thuận  trong quá trình học tập và bảo vệ    tốt <br /> nghiệp. Tôi tin rằng ngoài những kinh nghiệm, sáng tạo của các thầy cô đang trực tiếp <br /> giảng dậy và làm công tác quản lý sẽ có rất nhiều thầy cô còn đam mê trong lĩnh vực  <br /> nghiên cứu khoa học.<br /> II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP<br /> <br /> 1.  Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến<br /> <br /> Quá trình hình thành nitrate là một giai đoạn không thể thiếu trong vòng tuần hoàn <br /> của nitơ trong tự nhiên. Thực phẩm và đồ uống có chứa một lượng nitrate thấp thì không <br /> hại cho sức khỏe. Cây cối hấp phụ nitrate trong đất để lấy dưỡng chất và có thể  tạo ra <br /> một lượng dư nhỏ trong lá và quả. Do tính cơ động cao, nitrate dễ dàng thấm vào nguồn  <br /> nước ngầm, hơn nữa nitrate là chất không màu, không mùi, không vị nên ta khó nhận biết <br /> được. Nếu con người và động vật uống phải nước có nhiều nitrate sẽ  dễ  bị  mắc các  <br /> bệnh về máu, đặc biệt là đối với trẻ  nhỏ. Nitrate hình thành khi vi sinh vật chuyển hóa <br /> phân bón, phân hủy xác động thực vật. Nếu cây cối không kịp hấp thụ hết lượng nitrate  <br /> này thì nước mưa và nước tưới sẽ  làm cho nó ngấm vào lòng đất, làm ô nhiễm nguồn  <br /> nước ngầm. Rất tiếc là con người lại chính là thủ phạm tạo ra nguồn ô nhiễm nitrate lớn  <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> nhất thông qua các hoạt động nông nghiệp: sử dụng phân bón hóa học hoặc hữu cơ, chăn  <br /> nuôi, thải nước và rác không qua xử lý, hệ thống bể phốt. <br /> <br /> Do đó nghiên cứu và phát triển các vật liệu có khả  năng xử  lý ô nhiễm môi trường  <br /> nước là rất cần thiết. Hydrotalcite (HT) là loại vật liệu có khả năng loại được nitrate. HT <br /> là một loại vật liệu có cấu trúc lớp tồn tại trong khoáng vật trong tự  nhiên cũng như <br /> trong các pha tổng hợp. Tính đa dạng của vật liệu này có thể  được điều chế  bằng cách <br /> thay đổi bản chất, tỷ lệ của các cation kim loại và anion trong lớp xen kẽ. <br /> <br /> HT đã được biết đến từ rất lâu nhưng được quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần  <br /> đây do những tiềm năng,  ứng dụng rất lớn. Do đặc điểm cấu tạo HT có cấu trúc dạng <br /> lớp, diện tích bề mặt lớn, kích thước hạt nhỏ nên có khả  năng trao đổi ion và hấp phụ. <br /> Sau khi nung cấu trúc lớp bị thu bớt lại và hình thành oxit. Trong dung dịch các oxit này có <br /> khả  năng tái tạo lại cấu trúc với các anion khác. Chính đặc tính này làm HT sau nung  <br /> (HTC) có khả năng hấp phụ tốt hơn HT khi chưa nung nên có khả năng hấp phụ rất tốt. <br /> <br /> Cũng đã có một vài công trình nghiên cứu về hydroxyte cấu trúc lớp kép loại Mg/Al­<br /> CO3  như  Nguyễn   Thị   Dung   đã   làm   về  Điều   chế   xúc   tác   trên   chất   mang   MgAlO <br /> hydrotalcite hay Nguyễn Thị Mơ làm về khảo sát khả năng hấp thụ của vật liệu hydrxyte  <br /> đối với RO­12. Tôi chọn đề tài nghiên cứu tổng hợp ba loại vật liệu Mg­Al/CO 3 (như các <br /> nghiên cứu đã được công bố), Mg­Cu­Al/CO3 và Mg­Al/Cl (loại này khó tổng hợp được <br /> vì trong không khí có nhiều khí CO2, CO2 hòa tan trong môi trường kiềm vì vậy dễ tạo ra  <br /> loại Mg/Al­CO3, hai loại vật liệu sau chưa có công trình nghiên cứu  ở  Việt Nam  được  <br /> công bố  tính đến tháng 5 ­ 2016). Sau đó tôi sơ  bộ  đánh giá khả  năng loại NO3­ của các <br /> vật liệu đã tổng hợp được. Đây chính là những đặc tính thuận lợi để ứng dụng vào xử lý <br /> môi trường nên chúng tôi đã chọn đề  tài:  “Tổng hợp và xác định các đặc trưng của  <br /> một số hydroxyte cấu trúc lớp kép ứng dụng trong xử lý môi trường loại NO3­”.<br /> <br /> 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến<br /> <br /> <br /> 2<br /> Nội dung báo cáo gồm 4 chương: Tổng quan; Thực nghiệm;  Kết quả và thảo <br /> luận;  Kết luận<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN<br /> <br /> 1.1. GIỚI THIỆU VỀ HYDROXIDE CẤU TRÚC LỚP KÉP (HYDROTALCITE) <br /> <br /> Các hydroxide cấu trúc lớp kép (layered double hydroxide ­ LDH) đã được biết  <br /> đến từ hơn 150 năm trước đây. Công thức chung của các LDH là: <br /> <br /> [M2+1­xM3+x(OH)2]x+[(An­)x/n. mH2O]x­<br /> <br /> Trong đó M2+  và M3+  là các cation kim loại hóa trị  2 và 3 tương  ứng và An­  là <br /> anion. Chúng còn được gọi là vật liệu giống hydrotalcite hay đơn giản là vật liệu  <br /> hydrotalcite (HT) theo tên gọi của một khoáng trong họ, tồn tại trong tự nhiên với công <br /> thức chính xác là Mg6Al2(OH)16CO3.4H2O. Một tên nữa của họ hợp chất này là khoáng  <br /> sét anion, để  nhấn mạnh đến sự  so sánh với các khoáng sét cation rất phổ  biến trong <br /> tự  nhiên. Vì vậy để  đơn giản trong cách gọi tên trong sáng kiến này chúng tôi gọi  <br /> hydroxide cấu trúc lớp kép là hydrotalcite [11]. Hình 1.1 là hình ảnh về khoáng sét HT  <br /> trong tự nhiên.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1.1: Khoáng sét HT [11]<br /> <br /> 3<br /> 1.1.1. Đặc điểm cấu trúc của hydrotalcite [11, 13, 44]<br /> <br />  Công thức HT <br /> <br />   Khoáng sét anion có công thức tổng quát là [M2+1­xM3+x(OH)2]x+[(An­)x/n.mH2O]x­. Trong <br /> đó:<br /> <br /> M2+ là cation kim loại hóa trị 2 như Mg, Zn, Ca, Fe, Ni...<br /> <br /> M3+ là cation kim loại hóa trị 3 như Al, Cr, Fe...<br /> <br /> An­ là các anion rất đa dạng có thể  là phức anion, anion hữu cơ, các polyme có  <br /> khối lượng phân tử lớn, các halogen hay SO42­, CO32­...<br /> <br /> x là tỉ  số  nguyên tử  M3+/(M2+  + M3+), x thường nằm trong khoảng 0,20   x  <br /> 0,33, cũng có một số tài liệu đã công bố HT có thể tồn tại với 0,1 x   0,5.<br /> <br />  Cấu tạo HT<br /> <br /> HT được cấu tạo dạng lớp bao gồm:<br /> <br /> ­ Lớp hydroxit (lớp brucite): là hỗn hợp của các hydroxit của kim loại hóa trị 2 và  <br /> hóa trị 3, tại đỉnh là các nhóm OH­, tâm là các kim loại hóa trị 2 và 3, có cấu trúc tương <br /> tự  như  cấu trúc brucite trong tự  nhiên. Cấu trúc này được sắp đặt theo dạng M(OH) 6 <br /> bát diện. Những bát diện này dùng chung cạnh kế cận để hình thành nên các lớp không <br /> giới hạn. Các lớp hydroxit này có dạng [M2+1­xM3+x(OH)2]x+ trong đó một phần kim loại <br /> hóa trị 2 được thay thế bằng kim loại hóa trị 3 nên lớp hydroxit mang điện tích dương.<br /> <br /> ­ Lớp xen giữa: [An­x/n] là các anion mang điện tích âm nằm xen giữa các lớp <br /> hydroxit, trung hòa điện tích dương của lớp hydroxit. Ngoài anion, các phân tử  nước  <br /> cũng được định vị ở lớp xen giữa những lớp hydroxit kim loại. Chỉ có các liên kết yếu  <br /> tồn tại giữa các ion và phân tử này với lớp cơ bản. Điều này dẫn đến một trong những <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> đặc điểm chủ  yếu của họ  vật liệu này là khả  năng trao đổi anion của các anion lớp <br /> xen giữa.<br /> <br /> Cấu trúc lớp của HT được đưa ra trên hình 1.2.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1.2: Hình dạng cấu trúc lớp của HT<br /> <br /> Tương tác tĩnh điện giữa các lớp hydroxit kim loại với các anion ở lớp xen giữa <br /> và liên kết hydro giữa các phân tử  nước làm cho cấu trúc của hydrotalcite có độ  bền <br /> vững nhất định.<br /> <br /> Các anion và các phân tử nước trong lớp xen giữa được phân bố một cách ngẫu  <br /> nhiên và có thể di chuyển tự do không có định hướng, có thể thêm các anion khác vào  <br /> hoặc loại bỏ các anion trong lớp xen giữa mà không làm thay đổi đáng kể cấu trúc của <br /> HT.<br /> <br /> <br /> 5<br /> Tùy thuộc vào bản chất của các cation và anion mà mật độ lớp xen giữa và kích  <br /> thước hình thái của chúng thay đổi tạo cho vật liệu có những đặc tính riêng. <br /> <br /> L là khoảng cách giữa 2 lớp hydroxit L = 3­4 Å, được xác định bởi kích thước  <br /> của các anion, giá trị L phụ thuộc vào:<br /> <br /> Bán kính của các anion: anion có bán kính càng lớn thì khoảng cách lớp xen giữa <br /> L sẽ lớn (hình 1.3).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1.3: Giá trị L phụ thuộc vào bán kính anion<br /> <br /> Công   thức   cấu   tạo   không   gian   của   anion:   Ví   dụ   anion   NO 3­  xen   giữa   lớp <br /> hydroxit với cấu tạo không gian khác nhau nên L có các giá trị  khác nhau (hình 1.4)  <br /> [33].<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> Hình 1.4: Giá trị L phụ thuộc vào dạng hình học của anion<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1.1.2. Tính chất của hydrotalcite [13, 23, 24, 28, 31]<br /> <br /> 1.1.2.1. Độ bền hóa học<br /> <br /> Độ  bền hóa học là rất quan trọng đối với nhiều  ứng dụng của HT, chẳng hạn <br /> như  khi HT được dùng làm bể  chứa các ion kim loại phóng xạ  từ  các chất thải hạt  <br /> nhân. Độ bền hóa học của các HT tăng theo thứ tự Mg2+ I­  đối với <br /> anion   hóa   trị   1.   Bởi   vì   NO3­  được   trao   đổi   dễ   dàng   nhất,   nên   các   HT   chứa   NO3­ <br /> (HT/NO3) thường được sử dụng như tiền chất để trao đổi ion.<br /> <br /> Môi trường trao đổi<br /> <br /> Khoảng cách lớp xen giữa của HT có khả  năng mở  rộng đến mức độ  nào đó  <br /> trong môi trường dung môi phù hợp tạo thuận lợi cho quá trình trao đổi ion. Ví dụ trao <br /> đổi anion vô cơ diễn ra thuận lợi trong môi trường nước, trong khi các dung môi hữu  <br /> cơ lại thích hợp cho các anion hữu cơ trao đổi.<br /> <br /> Giá trị pH<br /> <br /> Đối với các anion như  terephthalate hoặc benzoate là các bazơ  liên hợp của các  <br /> axit yếu, pH của dung dịch phản ứng càng thấp, tương tác giữa các lớp và anion ở lớp  <br /> xen giữa càng yếu. Vì vậy, một giá trị pH thấp thuận lợi cho sự giải phóng của anion  <br /> “chủ” là một axit liên hợp và sự kết hợp các anion bazơ yếu từ dung dịch. Tuy nhiên, <br /> giá trị pH không nên thấp hơn 4 vì khi đó các lớp HT bắt đầu bị hòa tan.<br /> <br /> Thành phần hóa học của lớp brucite<br /> <br /> Thành phần hóa học của lớp HT ảnh hưởng đến mật độ điện tích của các lớp và  <br /> trạng thái hydrat hóa, do đó làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi ion. <br /> <br /> Một vài yếu tố  khác như  nhiệt độ  cũng  ảnh hưởng đến quá trình trao đổi ion. <br /> Nhiệt độ  càng cao thuận lợi cho việc trao đổi ion, tuy nhiên nếu nhiệt độ  quá cao có  <br /> thể ảnh hưởng bất lợi đến tính toàn vẹn cấu trúc của HT.<br /> <br /> 15<br /> Phương pháp trao đổi ion đặc biệt được sử  dụng để  điều chế  HT không chứa  <br /> cacbonat. Một số lớn các anion hữu cơ và vô cơ có thể đi vào lớp xen giữa của các HT  <br /> nhờ sử dụng quá trình trao đổi ion. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1.2.3. Phương pháp xây dựng lại cấu trúc<br /> <br /> Các HT được tạo thành bằng phương pháp này với số lượng lớn các anion hữu  <br /> cơ và các anion vô cơ như: ­OOC(CH2)4COO­, S4O62­, Fe(CN)63­,Cr2O72­,…<br /> <br /> Trong phương pháp này HT được nung ở nhiệt độ cao (khoảng 5000C) để loại bỏ <br /> nước, các anion trong lớp xen giữa và các nhóm hydroxit, do tạo thành hỗn hợp các oxit  <br /> kim loại đã không đạt được bằng phương pháp cơ học. Sau khi nung, HT có khả năng <br /> tái tạo lại cấu trúc lớp khi nó được tiếp xúc với nước và các anion. Nước được hấp  <br /> thụ để hình thành lại lớp hydroxit và các anion và nước đi vào lớp xen giữa. Anion này <br /> không nhất thiết phải là anion trong vật liệu HT ban đầu, vì vậy đây là một phương  <br /> pháp quan trọng để  tổng hợp các HT với các anion vô cơ  và hữu cơ  mong muốn cho  <br /> những ứng dụng xác định.<br /> <br /> Phương pháp này thường được dùng khi anion “khách” là các anion lớn. Nó <br /> cũng ngăn ngừa được sự xâm nhập sự cạnh tranh của các anion vô cơ từ  nguồn muối  <br /> kim loại. Tuy nhiên, cách tiến hành là phức tạp hơn phương pháp đồng kết tủa hay  <br /> phương pháp trao đổi ion và thường tạo ra đồng thời các pha vô định hình. Cần chú ý  <br /> rằng nhiệt độ nung và thành phần hóa học của các lớp HT có ảnh hưởng đáng kể đến <br /> quá trình xây dựng lại cấu trúc. “Hiệu  ứng nhớ” bị  giảm khi tăng nhiệt độ  nung của  <br /> HT ban đầu (gốc), bởi vì khi tăng nhiệt độ  nung do có sự khuếch tán ở trạng thái rắn <br /> của cation hóa trị 2 vào vị trí tứ diện, dẫn đến hình thành các pha spinel bền thay vì các  <br /> oxit.<br /> <br /> 1.2.4. Phương pháp muối – oxit<br /> <br /> 16<br /> Boelm, Steink và Vieweger là những người đầu tiên sử dụng phương pháp tổng  <br /> hợp này để  điều chế  hydroxit lớp kép Zn–Cr/ Cl và Cu­Cr/Cl, chúng khó tạo thành <br /> bằng phương pháp đồng kết tủa. Tác giả  cho kẽm oxit  ở  dạng huyền phù phản ứng  <br /> với lượng dư  dung dịch CrCl3  ở  nhiệt độ  phòng trong vài ngày và đã thu được một <br /> thành phần hóa học duy nhất tương ứng với công thức Zn2Cr(OH)6Cl.12H2O đặc trưng <br /> cho hợp chất HT. Lal và Howe (1981) đã điều chế được loại vật liệu tương tự  bằng  <br /> cách cho CrCl3 vào ZnO  ở  dạng bùn lỏng sệt và khuấy trộn trong 10 giờ. Điều kiện <br /> này đã được mô phỏng trong thí nghiệm Matériau đã thu được [Zn­Cr/Cl] có độ trật tự <br /> kém.<br /> <br /> De Roy, Besse và Bendot (1985); De Roy (1990) đã phát triển phương pháp này  <br /> để điều chế hợp chất khác nhau từ kim loại hóa trị II, hóa trị III và các anion, đặc biệt  <br /> là [Zn­Cr/Cl], [Zn­Cr/NO3], [Zn­Al/Cl] và [Zn­Al/NO3] với phương trình của phản ứng <br /> lý thuyết:<br /> <br /> MIIO+xMIII  +(n+1)H2O  (OH)2 +xMII  +xMIII<br /> <br /> Do bản chất của các chất tham gia phản ứng nên dẫn đến tên gọi của quá trình  <br /> tổng hợp này là “phương pháp muối oxit”.<br /> <br /> 1.2.5. Phương pháp thủy nhiệt<br /> <br /> Khi cần đưa các anion có ái lực thấp vào lớp xen, thì phản  ứng trao đổi anion <br /> dùng HT như  tiền chất hoặc phương pháp đồng kết tủa dùng các muối kim loại hòa <br /> tan như clorua và nitrat là không thích hợp. Phương pháp thủy nhiệt là hiệu quả trong  <br /> những trường hợp như  vậy bởi các hydroxit không tan, ví dụ  như  Mg(OH)2, Al(OH)3 <br /> có thể sử dụng như các chất nguồn vô cơ, đảm bảo các anion mong muốn chiếm được <br /> khoảng không lớp xen giữa vì không có anion cạnh tranh nào khác có mặt (trừ hydroxit  <br /> mà hydroxit có ái lực rất thấp). Phương pháp thủy nhiệt cũng được sử  dụng để  kiểm  <br /> soát kích thước hạt và sự  phân bố của nó, khi các muối tan của nhôm và magiê được <br /> <br /> 17<br /> sử  dụng cùng với dung dịch kiềm để  điều chế  Mg­Al/CO3, đặc biệt có ích khi HT <br /> được điều chế bằng cách sử dụng vật liệu ban đầu ở dạng bột.<br /> <br /> 1.3. ỨNG DỤNG HYDROTALCITE VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NITRATE TRONG  <br /> MÔI TRƯỜNG <br /> <br /> 1.3.1. Ứng dụng HT [14, 18, 20, 22, 43]<br /> <br /> Các vật liệu HT, ở dạng vừa tổng hợp cũng như sau khi xử lý nhiệt, là những vật  <br /> liệu hứa hẹn cho rất nhiều lĩnh vực ứng dụng như xúc tác, hấp phụ, dược học, quang  <br /> học, điện hóa, …. Điều này là do chúng khá dễ  dàng được tổng hợp với giá thành <br /> thấp, linh động trong thành phần và khả  năng linh hoạt tạo ra các tính chất xác định  <br /> nhằm đáp ứng các yêu cầu ứng dụng cụ thể.<br /> <br /> 1.3.1.1. Ứng dụng trong xúc tác <br /> <br /> Làm chất mang xúc tác:<br /> <br /> Nhiều loại HT chưa nung và sau nung là những chất mang hiệu quả cho các xúc tác <br /> kim loại quý, kim loại chuyển tiếp, cố định các enzyme,…<br /> <br /> Xúc tác trong các phản ứng hữu cơ quan trọng<br /> <br /> Đã có rất nhiều bài báo công nhận việc sử dụng HT chưa nung trong một số lớn  <br /> các phản  ứng xúc tác, bao gồm phản  ứng epoxidation của styren sử dụng HT Mg/Al,  <br /> ngưng tụ Knoevenagel bằng cách sử dụng HT Ni/Al, hoặc HT có chứa florua, hydroxyl <br /> hóa phenol trên các HT Co/Ni/Al và cacbonyl hóa pha lỏng methanol thành metyl axetat <br /> được xúc tác nhờ  HT Ni(Sn)/Al…. Trong tất cả các trường hợp đều có hoạt tính tính <br /> chọn lọc rất tốt. HT cũng là tiền chất thích hợp cho việc tạo ra các xúc tác dị thể chứa  <br /> kim loại chuyển tiếp. Gần đây, hiệu quả sử dụng HT trong tổng hợp carbon nanotube  <br /> nhờ lắng đọng pha hơi có xúc tác cũng đã được thông báo.<br /> <br /> Xúc tác trong môi trường <br /> <br /> 18<br /> Các HT sau nung được xem là vật liệu tiềm năng để  khử  SOx và NOx thải ra từ <br /> các nhà máy lọc dầu. Corma và các đồng nghiệp đã nghiên cứu được hỗn hợp oxit thu  <br /> được từ  tiền chất HT Mg­Cu­Al đặc biệt hiệu quả  khi xúc tác cho quá trình oxi hóa <br /> SO2  thành SO42­  và khử  SO42­  thành H2S, rồi thu hồi trong môi trường khử  của vùng <br /> cracking. Nung HT Mg­Cu­Al và HT Mg­Co­Al sau đó hoạt hóa bằng cách nung nóng <br /> trong điều kiện có H2, đồng thời có thể loại bỏ được SOx và NOx.<br /> <br /> 1.3.1.2. Ứng dụng trong trao đổi ion và hấp phụ<br /> <br /> Hiện nay đã có nhiều quan tâm đáng kể  trong việc sử  dụng các HT để  loại bỏ <br /> các phần tử tích điện âm bằng cả hấp phụ bề mặt và trao đổi ion. Mức độ hấp thu cao  <br /> các anion có thể nhờ diện tích bề mặt lớn và dung lượng trao đổi anion (AEC) cao và  <br /> tính linh động của khoảng cách lớp xen giữa. Các HT có thể  chứa các vật liệu rất đa <br /> dạng như  chất gây ô nhiễm từ  đất, trầm tích, nước. Khả  năng trao đổi anion HT bị <br /> ảnh hưởng bởi bản chất của anion lớp xen giữa ban đầu và mật độ  điện tích lớp (tức  <br /> là tỉ lệ M(II) : M(III) trong lớp brucite). Khi mật độ điện tích cao thì phản ứng trao đổi  <br /> có thể  trở  nên khó khăn. HT có ái lực lớn đối với các anion đa hóa trị  hơn là đối với  <br /> anion hóa trị I. <br /> <br /> HT có thể  hấp thu anion từ  dung dịch bằng ba cơ  chế  khác nhau: hấp phụ  bề <br /> mặt, trao đổi anion lớp xen giữa và xây dựng lại cấu HT nung nhờ “khả năng nhớ”.  <br /> “Khả năng nhớ” của HT là một trong những tính năng hấp dẫn nhất của họ này như là  <br /> chất hấp phụ các loại anion. Quá trình nung cho phép quay vòng và tái sử dụng của các <br /> chất hấp phụ với việc loại bỏ các chất gây ô nhiễm hữu cơ. Ưu điểm chính so với các  <br /> loại nhựa trao đổi anion truyền thống là giá trị dung lượng trao đổi anion cao hơn khả <br /> năng chịu nhiệt ở nhiệt độ cao của HT.<br /> <br /> Tóm lại chất có thể được hấp phụ bởi HT là những chất có đặc trưng anion, vô  <br /> cơ cũng như hữu cơ. Một số phân tử hữu cơ phân cực cũng có khả năng kết hợp chặt <br /> chẽ  trong lớp xen giữa. Các anion vô cơ  có thể  là các oxoanion như  NO3­, AsO43­, <br /> <br /> 19<br /> Cr2O72­, cũng có thể là các anion đơn nguyên tử  như  Cl­, Br­, …. Các loại chất hữu cơ <br /> có thể kể đến là các phenol, các chất mang màu, các chất hoạt động bề mặt loại anion  <br /> (như  natri dodecylbenzensulfonate), một số  loại thuốc trừ  sâu,… Chúng đều có thể <br /> được hấp thu trên nhiều loại HT sau nung và chưa nung.<br /> <br /> 1.3.1.3. Ứng dụng trong y sinh học<br /> <br /> Các ứng dụng y học sớm nhất của HT chủ yếu là làm giảm độ axit trong dạ dày <br /> và các chất kháng nguyên và dự kiến trong tương lai nhu cầu tăng trong lĩnh vực này. <br /> Hơn nữa, họ đề xuất loại bỏ anion photphat từ thuốc dạ dày với mục đích phòng ngừa  <br /> chứng tăng photphat. Gần đây, các HT đã được tìm thấy các  ứng dụng trong y học  <br /> quan trọng đặc biệt khác, đặc biệt là trong các công thức bào chế  dược phẩm. Các  <br /> nghiên cứu gần đây tập trung vào sự  xâm nhập và giải phóng có kiểm soát các hoạt <br /> dược từ các vật liệu HT, nhờ lợi thế về tính tương thích sinh học, thành phần hóa học  <br /> có khả năng biến đổi và khả năng lưu giữ các dược phẩm dạng anion.<br /> <br /> Xu hướng hiện nay trong công nghiệp dược phẩm yêu cầu khả năng duy trì nồng <br /> độ thuốc có hoạt tính dược lý trong thời gian dài. Khu vực lớp xen giữa của HT có thể <br /> được xem là các “bình chứa” rất nhỏ trong đó thuốc được lưu trữ  một cách có thứ  tự <br /> để  duy trì tính toàn vẹn của nó, và bảo vệ khỏi tác động của ánh sáng và oxy. Thuốc  <br /> có thể được giải phóng thông qua quá trình trao đổi ion hoặc phản  ứng thay thế. Một  <br /> hệ thống dẫn truyền thuốc như vậy có thể làm giảm tác dụng phụ và kéo dài thời gian  <br /> hiệu quả của thuốc.<br /> <br /> Do vậy trong những năm gần đây, đã có những quan tâm đáng kể  đến việc đưa  <br /> các phân tử sinh học hoặc các tác nhân thuốc vào vật liệu hydrotalcite chẳng hạn như <br /> các amino axit, axit deoxyribonucleic (DNA), các vitamin (A, C, E).<br /> <br /> 1.3.2. Ảnh hưởng của nitrate trong môi trường và vai trò của hydrotalcite trong  <br /> việc loại nitrate<br /> <br /> 20<br /> Những năm gần đây quan tâm về  vấn đề  xử  lý nitrate trong nước ăn uống trên  <br /> thế giới cũng như trong nước ngày càng tăng do độc tính cao của nó.<br /> <br /> Các hợp chất chứa nitơ  trong nước có thể  tồn tại dưới dạng các hợp chất hữu <br /> cơ, nitrite, nitrate, và amoni. Sự  hình thành nitrate là một giai đoạn không thể  thiếu <br /> trong vòng tuần hoàn của nitơ  trong tự  nhiên, nitrate là sản phẩm cuối cùng của quá  <br /> trình oxy hoá các hợp chất nitơ. Hàm lượng nitrate cao trong nước có thể  gây ra các  <br /> bệnh về hồng cầu, tạo ra chứng thiếu vitamin và có thể kết hợp với các amin để  tạo <br /> nên những nitrosamin, là tác nhân gây ung thư. Trẻ  sơ  sinh đặc biệt nhạy cảm với <br /> nitrate lọt vào sữa mẹ, hoặc qua nước dùng để  pha sữa. Sau khi lọt vào cơ  thể, nitrat <br /> chuyển hóa nhanh nhờ vi khuẩn đường ruột thành nitrite còn nguy hiểm hơn đối với <br /> sức khỏe con người. Khi tác dụng với các amin hay alkyl cacbonate trong cơ thể người  <br /> chúng có thể tạo thành các hợp chất chứa nitơ gây ung thư. <br /> <br /> Do quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người, nồng độ  các hợp chất chứa  <br /> nitơ  đặc biệt là amoni trong các nguồn nước tăng nhanh trong vài thập kỉ  gần đây. <br /> Riêng tại Hà Nội, theo kết quả  nghiên cứu của nhiều đề  tài đã và đang thực hiện,  <br /> nước ngầm tại hầu hết các khu vực đều nhiễm amoni, nhiều khu vực nhiễm nặng <br /> như: Pháp Vân, Định Công, Kim Giang, Bạch Mai, Bách Khoa, Kim Liên, Quỳnh Mai,  <br /> trong đó cao nhất là khu vực Pháp Vân, Định Công (~ 20 mg/l). Hàm lượng nitrate và  <br /> nitrite thường không cao. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác, xử  lý và lưu trữ  nước,  <br /> amoni chuyển hoá thành nitrite và nitrate (20mg amoni tương đương với khoảng 70mg <br /> nitrate). Hàm lượng nitrate trong nước ăn uống theo quy chuẩn quốc gia về chất lượng  <br /> nước (QCVN 01:2009/BYT) là 50 mg/l. Như  vậy, vấn đề  ô nhiễm nước bởi các hợp <br /> chất nitơ  là đã rõ ràng, từ  đó cũng thấy được sự  cấp thiết của việc nghiên cứu các <br /> phương pháp xử lí ô nhiễm nitơ nói chung, nitrate nói riêng, ở nước ta.<br /> <br /> Một số  phương pháp xử  lý nitrate thường được sử  dụng là trao đổi ion, thẩm  <br /> thấu ngược, khử bằng phương pháp sinh học (nhờ một số loại vi khuẩn) và quá trình  <br /> <br /> 21<br /> khử  xúc tác chọn lọc nitrate thành nitơ. Các hydrotalcite là những vật liệu nhiều hứa  <br /> hẹn để xử lý nitrate cả trong quá trình hấp phụ trao đổi ion cũng như  xúc tác cho quá  <br /> trình khử chọn lọc nitrate thành nitơ.<br /> <br /> 1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ĐẶC TRƯNG CỦA VẬT LIỆU <br /> <br /> 1.4.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) [2,30]<br /> <br /> Phương pháp nhiễu xạ tia X dùng để nghiên cứu cấu trúc tinh thể của vật liệu, <br /> cho phép xác định nhanh, chính xác các pha tinh thể, định lượng pha tinh thể  và kích  <br /> thước tinh thể với độ tin cậy cao.<br /> <br /> Kỹ  thuật nhiễu xạ tia X được sử  dụng phổ  biến nhất là phương pháp bột hay  <br /> phương pháp Debye. Trong kỹ  thuật này, mẫu được tạo thành bột với mục đích có <br /> nhiều tinh thể có tính định hướng ngẫu nhiên để chắc chắn rằng có một số lớn hạt có  <br /> định hướng thỏa mãn điều kiện nhiễu xạ Bragg.<br /> <br /> Bộ phận chính của nhiễu xạ kế tia X là : Nguồn tia X, mẫu, detector tia X. Chúng <br /> được đặt nằm trên chu vi của vòng tròn (gọi là vòng tròn tiêu tụ). Góc giữa mặt phẳng  <br /> mẫu và tia tới X là   – góc Bragg. Góc giữa phương chiếu tia X và tia nhiễu xạ là 2 . <br /> <br /> Phương pháp bột cho phép xác định thành phần pha và nồng độ các pha có trong <br /> mẫu. Mỗi pha cho một hệ  vạch tương  ứng trên giản đồ  nhiễu xạ. Nếu mẫu gồm  <br /> nhiều pha nghĩa là gồm nhiều loại ô mạng thì trên giản đồ sẽ tồn tại đồng thời nhiều  <br /> hệ  vạch độc lập nhau. Phân tích các vạch ta có thể  xác định được các pha có trong  <br /> mẫu – đó là cơ sở để phân tích pha định tính.<br /> <br /> Phương pháp phân tích pha định lượng dựa trên cơ  sở  sự  phụ  thuộc cường độ <br /> tia nhiễu xạ vào nồng độ pha. Bằng cách so sánh số liệu nhận được từ  giản đồ  XRD  <br /> thực nghiệm với số liệu chuẩn trong sách tra cứu. Ta tính được tỷ lệ nồng độ các pha  <br /> trong hỗn hợp. <br /> <br /> 22<br /> Sd phương trình Vulff – Bragg, ta xác định được thông số mạng của từng pha có  <br /> trong mẫu:<br /> <br /> nλ = 2d.sin θ<br /> <br /> Trong đó: n là bậc nhiễu xạ (n có giá trị  nguyên n = 1, 2, 3),  λ là chiều dài bước sóng <br /> tia X, d là khoảng cách giữa hai mặt tinh thể.<br /> <br /> Đối với tinh thể  hydrotalcite, khoảng giữa các mặt mạng tinh thể  được tính  <br /> theo công thức sau:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trong đó: h, k, l là các chỉ số Miller; a, c: hằng số mạng.<br /> <br /> Ngoài ra bằng phương pháp nhiễu xạ  tia X còn có thể  định lượng pha tinh thể <br /> và kích thước tinh thể với độ tin cậy cao.<br /> <br /> Kích thước tinh thể  được xác định qua độ  rộng của vạch nhiễu xạ. Một cách  <br /> định tính, mẫu có các tinh thể với kích thước hạt lớn thì độ rộng vạch nhiễu xạ càng  <br /> bé và ngược lại. Để định lượng có thể tính toán kích thước hạt trung bình của tinh thể <br /> theo phương trình Scherrer:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Dt.b là kích thước hạt tinh thể,  θ là góc nhiễu xạ, B là độ  rộng vạch đặc trưng  <br /> (radian) ở độ cao bằng nửa cường độ cực đại (tại vị trí góc 2θ = 11,3; đối với vật liệu  <br /> HT), λ = 1,5406 Å là bước sóng của tia tới, k là hằng số Scherrer phụ  thuộc vào hình <br /> dạng của hạt và chỉ số Miller của vạch nhiễu xạ (đối với hydrotalcite, k = 0,89) [31].<br /> <br /> Độ tinh thể Ctt(%) được tính theo phương pháp phân giải pic, với công thức: <br /> <br /> Ctt  =  100%                                                               <br /> <br /> 23<br /> Độ  tinh thể  của hydrotalcite được xác định theo công thức trên với Y là chiều  <br /> cao của vạch đặc trưng (thường chọn vạch có chỉ số Miller 006), X là chiều cao chân  <br /> vạch tại vị trí thấp nhất giữa hai vạch có chỉ số Miller 003 và 006.<br /> <br /> 1.4.2. Phương pháp hồng ngoại (FTIR) [3]<br /> <br /> Phổ  hấp thụ  hồng ngoại dùng trong xác định cấu trúc phân tử  của chất cần  <br /> nghiên cứu. Dựa vào vị trí và cường độ các giải hấp thụ trong phổ hồng ngoại người  <br /> ta có thể phán đoán trực tiếp về sự có mặt các nhóm chức, các liên kết xác định trong <br /> phân tử chất nghiên cứu.<br /> <br /> Khi chiếu một chùm tia đơn sắc có bước sóng nằm trong vùng hồng ngoại (50­<br /> 10.000 cm­1) qua chất nghiên cứu, một phần năng lượng bị  chất hấp thụ  làm giảm <br /> cường độ của tia tới. Sự hấp thụ này tuân theo định luật Lambert­Beer:<br /> <br /> Io<br /> A log *l *C<br /> I<br /> <br /> Trong đó: ε là hệ số hấp thụ phân tử, C là nồng độ dung dịch (mol/L), l là độ dày <br /> truyền ánh sáng (cm), A là độ hấp thụ quang.<br /> <br /> Phân tử hấp thụ năng lượng sẽ thực hiện dao động (xê dịch các hạt nhân nguyên <br /> tử xung quanh vị trí cân bằng) làm thay đổi độ dài liên kết và các góc hoá trị tăng giảm  <br /> tuần hoàn, chỉ  có những dao động làm biến đổi moment lưỡng cực điện của liên kết  <br /> mới xuất hiện tín hiệu hồng ngoại.  Đường cong biểu diễn sự  phụ  thuộc của  độ <br /> truyền quang vào bước sóng là phổ hấp thụ hồng ngoại. Mỗi nhóm chức hoặc liên kết  <br /> có một tần số  (bước sóng) đặc trưng thể  hiện bằng pic trên phổ  hồng ngoại. Như <br /> vậy, căn cứ  vào các tần số  đặc trưng này có thể  xác định được các liên kết giữa các <br /> nguyên tử hay nhóm nguyên tử, từ đó xác định được cấu trúc của chất phân tích.<br /> <br />   1.4.3. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) <br /> <br /> 24<br /> Hiển vi điện tử  quét (Scanning Electron Microscopy, SEM) là công cụ  để  quan <br /> sát vi cấu trúc bề  mặt của vật liệu với độ  phóng đại và độ  phân giải lớn gấp hàng  <br /> nghìn lần so với kính hiển vi quang học.  Độ  phóng đại của SEM có thể  đạt đến <br /> 100000 lần, độ  phân giải khoảng vài trăm angstrom đến vài nanomet. Ngoài ra SEM  <br /> còn cho độ sâu trường ảnh lớn hơn so với kính hiển vi quang học.<br /> <br /> Khi dùng một chùm điện tử hẹp quét trên bề mặt mẫu, chúng tương tác với các  <br /> nguyên tử của mẫu và phát ra các bức xạ thứ cấp trình bày ở hình 1.6.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1.6: Các loại điện tử phát ra khi chiếu chùm tia điện tử lên mẫu<br /> <br /> Tùy theo detector thu loại tín hiệu nào mà ta có được thông tin tương ứng về mẫu  <br /> nghiên cứu. Việc thu điện tử thứ cấp là chế độ ghi ảnh thông dụng nhất của kính hiển  <br /> vi điện tử quét. Chùm điện tử thứ cấp có năng lượng thấp nên chủ yếu là các điện tử <br /> phát ra từ  bề mặt mẫu với độ  sâu chỉ  vài nanomet, do đó chúng tạo ra  ảnh hai chiều <br /> của bề mặt mẫu.<br /> <br /> 1.4.4. Phương pháp phân tích nhiệt (TA)<br /> <br /> Để  xác định đặc trưng liên quan đến sự  thay đổi nhiệt độ  của mẫu vật liệu <br /> thường dùng 2 phương pháp phân tích nhiệt là phân tích nhiệt vi sai quét (DTA) và <br /> phân tích nhiệt trọng lượng (TGA). Là phương pháp đo sự  thay đổi nhiệt độ  (đối với  <br /> 25<br /> DTA) hay sự  thay đổi khối lượng vật liệu (đối với TGA) khi tác động chương trình <br /> nhiệt độ  lên mẫu. Giản đồ  phân tích nhiệt thể  hiện sự  phụ  thuộc khối lượng mẫu  <br /> theo thời gian (đường TGA) hay sự phụ thuộc nhiệt độ theo thời gian (đường DTA).<br /> <br /> Các thông tin nhận được cho phép xác định thành phần khối lượng các chất có <br /> mặt trong mẫu, các dạng chuyển pha, độ bền nhiệt, độ bền oxi hoá của vật liệu, xác <br /> định được độ ẩm, hơi nước, ảnh hưởng của môi trường lên vật liệu và một số  thông <br /> tin khác.<br /> <br /> 1.4.5. Phương pháp xác định thành phần nguyên tố (EDX)<br /> <br /> Phổ tán sắc năng lượng tia X hay phổ tán sắc năng lượng (Energy dispersive X­<br /> ray spectroscopy, EDX hay EDS) là kỹ thuật phân tích thành phần hóa học của vật rắn  <br /> dựa vào việc ghi lại phổ tia X phát ra từ vật rắn do tương tác với các bức xạ (mà chủ <br /> yếu là chùm điện tử có năng lượng cao trong các kính hiển vi điện tử).<br /> <br /> Kỹ thuật EDX chủ yếu được thực hiện trong các kính hiển vi điện tử ở đó, ảnh <br /> vi cấu trúc vật rắn được ghi lại thông qua việc sử dụng chùm điện tử  có năng lượng <br /> cao tương tác với vật rắn. Khi chùm điện tử  có năng lượng lớn được chiếu vào vật  <br /> rắn, nó sẽ đâm xuyên vào nguyên tử vật rắn và tương tác với các lớp điện tử bên trong  <br /> của nguyên tử. Tương tác này dẫn đến việc tạo ra các tia X có bước sóng đặc trưng tỉ <br /> lệ với nguyên tử số (Z) của nguyên tử theo định luật Mosley:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Có nghĩa là tần số tia X phát ra là đặc trưng với nguyên tử của mỗi chất có mặt  <br /> trong chất rắn. Việc ghi nhận phổ  tia X phát ra từ  vật rắn sẽ  cho thông tin về  các <br /> nguyên tố hóa học có mặt trong mẫu đồng thời cho các thông tin về tỉ phần các nguyên <br /> tố này.<br /> <br /> <br /> <br /> 26<br /> CHƯƠNG II: MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ <br /> THỰC NGHIỆM<br /> <br /> 2.1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Tổng hợp được một số  hydroxide cấu trúc lớp kép (hydrotalcite) có khả  năng  <br /> loại NO3­ từ dung dịch nước, ứng dụng trong xử lý môi trường.<br /> <br /> 2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU<br /> <br /> ­ Nghiên cứu tổng hợp 3 loại vật liệu: Mg­Al/CO3, Mg­Cu­Al/CO3, Mg­Al/Cl.<br /> <br /> ­ Xác định các đặc trưng của vật liệu tổng hợp bằng các phương pháp XRD,  <br /> SEM, FTIR, TA, EDX.<br /> <br /> ­ Sơ bộ đánh giá khả năng loại NO3­ của các vật liệu tổng hợp được.<br /> <br /> 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM<br /> <br /> 2.3.1. Dụng cụ hoá chất<br /> <br /> Dụng cụ thí nghiệm:<br /> <br /> <br /> ­ Máy khuấy từ ­ Cốc các loại ­ Bình cầu 2 cổ 1000ml<br /> <br /> ­ Máy đo pH ­ Máy siêu âm ­ Lò nung<br /> <br /> ­ Máy li tâm ­ Tủ hút ­ Cân phân tích<br /> <br /> ­ Tủ sấy ­ Phễu nhỏ giọt ­ Bình định mức:1000 ml, 100 ml<br /> <br /> Hoá chất:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 27<br /> ­   Mg(NO3)2.6H2O;   Al(NO3)3.9H2O;   Cu(NO3)2.3H2O;   MgCl2.6H2O;   AlCl3.6H2O; <br /> NaCl; KNO3; Na2CO3 và các hóa chất thông dụng khác như: NaOH, HCl, … đều là loại <br /> tinh khiết của Trung Quốc.<br /> <br /> ­ Khí argon<br /> <br /> 2.3.2. Phương pháp tổng hợp vật liệu<br /> <br /> 2.3.2.1. Tổng hợp vật liệu Mg­Cu­Al/CO3<br /> <br /> ­ Chuẩn   bị  100ml  dung   dịch   hỗn   hợp  A   gồmMg(NO3)21,5M;  Cu(NO3)2  0,2M; <br /> Al(NO3)3  0,3M. Cân chính xác  38,4g Mg(NO3)2.6H2O; 4,84g Cu(NO3)2.3H2O; 11,25g <br /> Al(NO3)3.9H2O cho vào bình định mức 100 ml, thêm nước cất đến khoảng nửa bình rồi  <br /> lắc cho tan hết. Tiếp tục thêm nước cất đến vạch định mức thì thu được hỗn hợp <br /> dung dịch có nồng độ cần pha chế.<br /> <br /> ­ Chuẩn bị  100ml dung dịch B gồm NaOH1,65M và Na2CO3 0,5M. Cân chính xác <br /> 6,6g NaOH và 5,3g Na2CO3 cho vào bình định mức 100 ml, thêm nước cất vào bình rồi  <br /> lắc cho tan hết. Tiếp tục thêm nước cất đến vạch định mức thì thu được  hỗn hợp <br /> dung dịch có nồng độ cần pha chế. <br /> <br /> ­ Cho hỗn hợp dung dịch A vào bình cầu. Nhỏ từ từ dung dịch Bvào dung dịch A <br /> vớitốc độ 2­3 ml/phút đồng thời khuấy bằng máy khuấy từ.  Phản ứng được thực hiện <br /> ở nhiệt độ phòng, pH của dung dịch được duy trì khoảng trên 10 bằng cách thêm dung <br /> dịch NaOH 2M. Sau khi thêm hết dung dịch B, hệ tiếp tục được khuấy trong khoảng <br /> thời gian 4 giờ. Kết tủa tạo thành được gạn rửa với nước cất nhiều lần đến khi pH <br /> đạt trung tính. Sản phẩm thu được sau khi ly tâm được sấy khô  ở  90 0C trong 15 giờ <br /> (mẫu thu được kí hiệu là HT/CO3), một phần nung  ở  2000C (mẫu HT/CO3­200) và <br /> 5000C (mẫu HT/CO3­500) trong không khí với thời gian l
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2