intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự biến động rong biển kinh tế theo mùa vụ ở Bãi Nò, Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang

Chia sẻ: NI NI | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

74
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu biến động sinh khối theo mùa của rong biển ở hồ San Ignacio, Mê-xi-cô và nhiều nghiên cứu tương tự ở các khu vực khác. Một số nghiên cứu cũng cho rằng sự biến động các điều kiện môi trường, thủy văn liên quan chặt chẽ tới sự phân bố và nguồn lợi của rong biển của khu vực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự biến động rong biển kinh tế theo mùa vụ ở Bãi Nò, Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang

TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(3se): 34-40<br /> <br /> SỰ BIẾN ĐỘNG RONG BIỂN KINH TẾ THEO MÙA VỤ<br /> Ở BÃI NÒ, HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG<br /> Nguyễn Văn Tú<br /> Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, nvtu.itb@gmail.com<br /> TÓM TẮT: Qua 4 đợt khảo sát vào mùa mưa và mùa khô năm 2011 và 2012 đã xác định được 23 loài<br /> rong biển thuộc 14 chi của 10 họ có tiềm năng kinh tế cho khu vực Bãi Nò, Hà Tiên, trong đó, 11 loài<br /> thuộc ngành Chlorophyta, 9 loài thuộc ngành Rhodophyta và 3 loài thuộc ngành Heterokontophyta (lớp<br /> Phaeophyceae). Nguồn lợi rong biển kinh tế ở Bãi Nò, Hà Tiên có tính mùa vụ khá rõ rệt, số loài thu thập<br /> được ở cả 2 mùa mưa và mùa khô là 9 loài (39% số loài) trong đó, có 7 loài thu thập được ở cả 4 đợt khảo<br /> sát. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, rong biển kinh tế tại đây đa dạng hơn vào mùa mưa với 16 loài ghi<br /> nhận được thuộc 13 chi, của 9 họ trong khi đó vào mùa khô ghi nhận được 18 loài thuộc 11 chi của 8 họ.<br /> Gracilaria rubra là loài có sinh lượng lớn nhất. Ngoài ra, một số loài rong chứa Agarophytes khác cũng<br /> được ghi nhận tại đây nhưng trữ lượng không cao như Acanthophora spicifera, Gracilaria salicornia,<br /> Hydropuntia fisheri, Hydropuntia changii. Trong nhóm rong chứa Carrageenophytes ghi nhận được loài<br /> thuộc chi Hypnea.<br /> Từ khóa: Chlorophyta, Rhodophyta, Gracilaria, đa dạng sinh học, rong biển.<br /> MỞ ĐẦU<br /> <br /> Nghiên cứu các khu hệ rong biển ở phía<br /> Nam Việt Nam được khởi nguồn từ nghiên cứu<br /> của Dawson (1954) [4] về rong biển Vịnh Nha<br /> Trang và vùng phụ cận, với 204 loài được liệt<br /> kê và mô tả. Nghiên cứu của Phạm Hoàng Hộ<br /> (1969) [13] về rong biển phía nam Việt Nam là<br /> nguồn tư liệu chính cho những nghiên cứu về<br /> rong biển Việt Nam cũng như là khu hệ rong<br /> biển miền Nam Việt Nam cho đến nay. Rong<br /> biển ở biển Tây Việt Nam cho đến nay được<br /> nghiên cứu chưa nhiều, một trong những nghiên<br /> cứu quan trong về rong biển của khu vực này<br /> được xuất bản bởi Phạm Hoàng Hộ (1985) [14]<br /> trong cuốn “Thực vật đảo Phú Quốc”. Một số<br /> loài thuộc họ rong Câu (Gracilariaceae) vùng<br /> Hà Tiên cũng đã được ghi nhận trong nghiên<br /> cứu của Nguyễn Hữu Dinh (1992) [6].<br /> Các nghiên cứu đánh giá về rong biển kinh<br /> tế trên phương diện thành phần loài, biến động<br /> số lượng, nguồn lợi chưa được quan tâm nghiên<br /> cứu nhiều ở Việt Nam. Tuy vậy, giá trị kinh tế<br /> của rong biển đã thể hiện một phần qua các<br /> nghiên cứu về thành phần hóa học và các hợp<br /> chất chiết xuất từ rong biển. Trong đó, nghiên<br /> cứu của Lâm Ngọc Trâm và nnk. (1991) [25]<br /> công bố về thành phần hóa học của 34 loài<br /> thuộc 4 chi rong nâu, 10 chi rong đỏ và 1 chi<br /> rong lục ở vùng biển Phú Yên - Khánh Hòa 34<br /> <br /> Minh Hải; Nguyễn Thọ Phát (1996) [18] nghiên<br /> cứu đánh giá về một số chỉ tiêu sinh hóa của<br /> rong biển kinh tế ở Đảo Xanh, Bình Định;<br /> Hoàng Cường và nnk. (1980) [3] nghiên cứu về<br /> thành phần hóa học rong biển vùng biển Hải<br /> Phòng. Trong số các loài rong biển kinh tế chi<br /> Gracilaria và chi Sargassum là 2 chi rong biển<br /> kinh tế có sản lượng lớn ở Việt Nam, thành<br /> phần loài và nguồn lợi của 2 chi rong biển kinh<br /> tế này được Nguyễn Hữu Đại (1997, 2007) [7,<br /> 8] và Lê Như Hậu & Nguyễn Hữu Đại (2010)<br /> [12] đánh giá khá cụ thể qua công trình nghiên<br /> cứu của mình, tuy nhiên số liệu của hai chi rong<br /> này chưa được công bố riêng cho vùng Hà Tiên.<br /> Nghiên cứu đánh giá biến động thành phần<br /> loài rong biển nói chung và rong biển kinh tế<br /> nói riêng ở Việt Nam hầu như chưa được quan<br /> tâm. Các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung<br /> vào thành phần loài và sự phân bố của các loài<br /> rong ở một khu vực nhất định [1, 9, 21, 23, 24]:<br /> Sự biến động thành phần loài dưới tác động<br /> của các điều kiện môi trường, mùa vụ được<br /> nghiên cứu khá nhiều trên thế giới, công trình<br /> nghiên cứu của Sohrab (2012) [19] nghiên cứu<br /> về sự biến động thành phần loài và sinh khối<br /> rong biển theo mùa vụ ở vịnh Péc xích;<br /> Nidsaraporn (2012) [16] đánh giá hiện trạng<br /> rong biển theo mùa vụ ở bán đảo Trat, Thái<br /> Lan. Nunez Lopez (1998) [17] nghiên cứu biến<br /> <br /> Nguyen Van Tu<br /> <br /> động sinh khối theo mùa của rong biển ở hồ San<br /> Ignacio, Mê-xi-cô và nhiều nghiên cứu tương tự<br /> ở các khu vực khác. Một số nghiên cứu cũng<br /> cho rằng sự biến động các điều kiện môi trường,<br /> thủy văn liên quan chặt chẽ tới sự phân bố và<br /> nguồn lợi của rong biển của khu vực [10, 20].<br /> VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Vật liệu<br /> Máy GPS 760SX (Garmin) xác định khu<br /> vực và phạm vi khảo sát. Sử dụng máy DSG-10<br /> (DYS, Korea) đo độ mặn, nhiệt độ của nước.<br /> Máy pH 330i (WTW, Đức) dùng để đo pH<br /> nước. Sử dụng đĩa Sechi để đo độ đục. Khung<br /> thu mẫu 100 × 100 cm với ô lưới 10 × 10 cm<br /> được sử dụng để thu mẫu rong biển. Formalin<br /> 5% được sử dụng để lưu mẫu rong tươi và giấy<br /> bìa cứng được sử dụng để ép mẫu khô phục vụ<br /> cho việc định danh.<br /> Thời gian và khu vực nghiên cứu<br /> <br /> Hình 1. Bản đồ vùng nghiên cứu<br /> Nghiên cứu được thực hiện trong hai năm<br /> 2011 và 2012. Gồm 4 đợt nghiên cứu: đợt 1 vào<br /> ngày 05-10/9/2011 (mùa mưa); đợt 2 vào ngày<br /> 25-28/12 năm 2011 (mùa khô), đợt 3 vào ngày<br /> 14-17/3/2012 (mùa khô); đợt 4 vào ngày<br /> <br /> 15-19/6/2012 (mùa mưa).<br /> Khu vực khảo sát được giới hạn từ<br /> 10o22’00” đến 10o22’26”.36 độ Vĩ bắc,<br /> 104o27’09.24” đến 104o28’.14” độ kinh đông<br /> (hình 1).<br /> Phương pháp<br /> Điều tra đa dạng sinh học rong biển theo<br /> quy phạm tạm thời xuất bản bởi Ủy ban Khoa<br /> học và Kỹ thuật nhà nước năm 1981 [26].<br /> Mẫu vật được định danh theo hướng dẫn<br /> của Phạm Hoàng Hộ (1969) [13] và Coppejans<br /> et al. (2009) [2].<br /> Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm<br /> Microsoft Excel, biểu đồ, hình ảnh được xử lý<br /> bằng phần mềm Illustrator CS3.<br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> Đa dạng sinh học rong biển kinh tế ở Bãi Nò<br /> Kết quả nghiên cứu trong hai năm 2011 và<br /> 2012 đã ghi nhận được 23 loài nằm trong 14 chi<br /> thuộc 10 họ có tiềm năng kinh tế. Cấu trúc số<br /> lượng loài thu thập được trong khu vực gồm 11<br /> loài Rong lục (Chlorophyta), 9 loài Rong đỏ<br /> (Rhodophyta) và 3 loài Rong nâu<br /> (Heterokontophyta). Về số lượng loài thu thập<br /> được thông qua các đợt khảo sát: số loài thu<br /> được nhiều nhất vào đợt khảo sát mùa mưa<br /> 2011 (9/2011) với 15 loài và số loài thu được ít<br /> nhất là 12 loài trong đợt khảo sát mùa mưa 2012<br /> (6/2012) trên tổng số 23 loài ghi nhận được cho<br /> khu vực. Theo Mukund et al. (2012) [15] thành<br /> phần loài và sinh khối phụ thuộc nhiều vào thời<br /> gian khảo sát trong năm, tính mùa vụ của rong<br /> biển cũng khá cao ở những vùng có các yếu tố<br /> môi trường biến đổi lớn theo mùa. Tính mùa vụ<br /> về cấu trúc loài cũng thể hiện qua nghiên cứu<br /> này (bảng 1).<br /> <br /> Bảng 1. Thành phần loài rong biển kinh tế ở Bãi Nò<br /> <br /> STT<br /> <br /> Tên khoa học<br /> <br /> Thời gian ghi nhận<br /> Mùa<br /> Mùa Mùa<br /> Mùa<br /> mưa<br /> khô<br /> khô<br /> mưa<br /> 2011 2011 2012 2012<br /> <br /> NGÀNH CHLOROPHYTA Pascher, 1914<br /> Họ Caulerpaceae Kützing, 1843<br /> Chi Caulerpa Lamouroux, 1809<br /> <br /> 35<br /> <br /> TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(3se): 34-40<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> <br /> 6<br /> 7<br /> <br /> 8<br /> <br /> 9<br /> 10<br /> 11<br /> <br /> 12<br /> <br /> 13<br /> 14<br /> <br /> 15<br /> 16<br /> 17<br /> <br /> 36<br /> <br /> Caulerpa cupressoides (West) C.Agardh, 1817<br /> C. peltata var. macrodisca (Decaisne) Bosse, 1898<br /> Họ Cladophoraceae Wille, 1884<br /> Chi Cheatomorpha Kützing, 1845<br /> Chaetomorpha crassa (C.Agardh) Kützing, 1845<br /> Chaetomorpha antennina (Bory) Kützing, 1847<br /> Chi Cladophora Kützing, 1843<br /> Cladophora rugulosa Martens, 1866<br /> Họ Codiaceae Kützing, 1843<br /> Chi Codium Stackhouse, 1797<br /> Codium geppiorum Schmidt, 1923<br /> Codium tenue (Kützing) Kützing, 1856<br /> Họ Dasycladaceae Kützing, 1843<br /> Chi Neomeris Lamouroux, 1816<br /> Neomeris vanbosseae Howe, 1909<br /> Họ Ulvaceae Lamouroux ex Dumortier, 1822<br /> Chi Ulva Linnaeus, 1753<br /> Ulva compressa Linnaeus, 1753<br /> Ulva kylinii (Bliding) Hayden, Maggs, Silva, Stanhope<br /> & Waaland, 2003<br /> <br /> xx<br /> <br /> Ulva flexuosa Wulfen, 1803<br /> NGÀNH HETEROKONTOPHYTA, 1978<br /> Lớp Phaeophyceae, 1891<br /> Họ Dictyotaceae Lamouroux ex Dumortier, 1822<br /> Chi Dictyota Lamouroux, 1809<br /> Dictyota sp.<br /> Họ Sargassaceae Kützing, 1843<br /> Chi Hormophysa Kützing, 1843<br /> Hormophysa articulata Kützing, 1860<br /> Chi Sargassum C.Agardh, 1820<br /> Sargassum polycystum C.Agardh, 1824<br /> NGÀNH RHODOPHYTA Wettstein, 1922<br /> Họ Rhodomelaceae Areschoug, 1847<br /> Chi Acanthophora Lamouroux, 1813<br /> Acanthophora spicifera (Vahl) Børgesen, 1910<br /> Acanthophora muscoides (Linnaeus) Bory, 1828<br /> Chi Palisada K.W. Nam, 2006<br /> Palisada perforata (Bory) K.W.Nam, 2007<br /> <br /> xx<br /> <br /> x<br /> <br /> xx<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> xxx<br /> <br /> x<br /> x<br /> <br /> xx<br /> xx<br /> <br /> xx<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> xx<br /> <br /> x<br /> <br /> xx<br /> <br /> xxx<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> x<br /> x<br /> <br /> Nguyen Van Tu<br /> <br /> 18<br /> 19<br /> 20<br /> 21<br /> 22<br /> <br /> 23<br /> <br /> Họ Gracilariaceae Nägeli, 1847<br /> Chi Gracilaria Greville, 1830<br /> Gracilaria salicornia (C.Agardh) Dawson, 1954<br /> Gracilaria rubra Chang & Xia, 1976<br /> Chi Hydropuntia Montagne, 1842<br /> Hydropuntia changii (Xia & Abbott) Wynne, 1989<br /> Hydropuntia edulis (Gmelin) Gurgel & Fred., 2004<br /> Hydropuntia fisheri (Xia & Abbott) Wynne, 1989<br /> Họ Cystocloniaceae Kützing, 1843<br /> Chi Hypnea Lamouroux, 1813<br /> Hypnea sp.<br /> <br /> x<br /> xx<br /> x<br /> x<br /> xx<br /> <br /> xx<br /> xxx<br /> <br /> xx<br /> xxx<br /> <br /> x<br /> x<br /> <br /> x<br /> xxx<br /> <br /> xxx<br /> xx<br /> xx<br /> <br /> xx<br /> xxx<br /> x<br /> <br /> x<br /> <br /> (xxx). mật độ cao; (xx). mật độ trung bình; (x). mật độ thấp.<br /> <br /> Hình 2. Biến động thành phần loài<br /> rong biển kinh tế theo mùa<br /> <br /> Hình 3. Cấu trúc số lượng loài, chi<br /> và họ theo mùa<br /> <br /> Biến động cấu trúc loài theo mùa vụ<br /> Biến động số lượng và thành phần loài qua<br /> các đợt khảo sát được thể hiện theo hình 2. Theo<br /> đó, các loài rong kinh tế thuộc ngành rong đỏ<br /> (Rhodophyta) và ngành rong lục (Chlorophyta)<br /> có số lượng loài chiếm ưu thế ở Bãi Nò với 20/23<br /> loài ghi nhận được. Đánh giá theo mùa vụ cho<br /> thấy, ngành rong lục (Chlorophyta) chiếm ưu thế<br /> về số lượng loài cũng như sinh khối lớn vào mùa<br /> mưa, trong khi đó ngành rong đỏ (Rhodophyta)<br /> có số lượng loài không thay đổi nhiều theo mùa<br /> vụ. Tuy nhiên, sinh khối của các loài tốt hơn vào<br /> mùa khô.<br /> <br /> Mùa mưa 2011 và mùa khô 2011 có số lượng<br /> chi và họ ghi nhận được bằng nhau nhưng số<br /> loài mùa mưa 2011 nhiều hơn mùa khô 2011 là<br /> 2 loài (hình 3).<br /> <br /> Về cấu trúc số lượng loài, chi, họ của các<br /> mùa nghiên cứu thì số lượng họ và chi mùa khô<br /> 2012 là ít nhất và tiếp đến là mùa mưa 2012.<br /> <br /> Hình 4. Tần suất bắt gặp các loài rong<br /> ở Bãi Nò trong 4 đợt khảo sát<br /> <br /> 37<br /> <br /> TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(3se): 34-40<br /> <br /> Trong tổng số 23 loài ghi nhận được ở Bãi<br /> Nò, có 30% số loài được ghi nhận ở cả 4 đợt<br /> khảo sát, 39% số loài ghi nhận được ở cả 2 mùa<br /> và 61% số loài xuất hiện 2 trong số 4 lần khảo<br /> sát trong 2 năm 2012 và 2012 (hình 4).<br /> Nhìn chung, thành phần loài và sinh lượng<br /> rong biển kinh tế ở Bãi Nò, Hà Tiên ưu thế<br /> trong khoảng thời gian từ tháng 9 cho tới tháng<br /> 3 năm sau. Thời gian này khá trái ngược với<br /> một số nghiên cứu công bố về mùa vụ rong biển<br /> ở Việt Nam [5, 13]. Tuy nhiên, theo một số<br /> nghiên cứu thì mùa vụ rong biển ở Việt Nam<br /> khá khác nhau theo các vùng phân bố và loài<br /> nghiên cứu [11, 16, 22].<br /> Đặc điểm môi trường, sinh thái học và nguồn<br /> lợi rong kinh tế<br /> Qua phân tích sinh lượng và thành phần loài<br /> <br /> rong biển kinh tế trong khu vực cho thấy sự<br /> biến động về sinh lượng và thành phần loài rong<br /> ở các thời điểm thu mẫu và mùa vụ khác nhau.<br /> Việc nghiên cứu tổng thể về các chỉ số môi<br /> trường, sinh thái học liên quan đến nguồn lợi và<br /> thành phần loài và sự phân bố của rong biển<br /> kinh tế nói chung và một số loài kinh tế trọng<br /> điểm nói riêng trong khu vực cần được thực<br /> hiện sâu hơn. Qua đánh giá ban đầu về mối<br /> tương quan giữa nguồn lợi rong và một số chỉ<br /> tiêu môi trường cơ bản ghi nhận được cho thấy<br /> độ đục ở khu vực khảo sát khá cao, dường như<br /> đây cũng là đặc điểm chung về môi trường vùng<br /> ven bờ của vùng biển Tây Việt Nam. Độ mặn ở<br /> khu vực nghiên cứu cũng khá thấp so với nền<br /> độ mặn chung của khu vực biển Tây và thấp<br /> hơn nhiều so với độ mặn ở các tỉnh miền Trung<br /> Việt Nam (bảng 2).<br /> <br /> Bảng 2. Diễn biến môi trường của Bãi Nò trong thời gian khảo sát<br /> Mùa mưa<br /> Mùa mưa<br /> Mùa khô<br /> Thông số môi trường<br /> 2011<br /> 2012<br /> 2011<br /> Nhiệt độ nước<br /> 27<br /> 29<br /> 25<br /> pH<br /> 7,9<br /> 8,1<br /> 8<br /> <br /> Mùa khô<br /> 2012<br /> 26<br /> 7,8<br /> <br /> Độ đục (cm)<br /> <br /> 22<br /> <br /> 27,6<br /> <br /> 38,5<br /> <br /> 32<br /> <br /> Độ mặn (ppm)<br /> <br /> 23<br /> <br /> 25<br /> <br /> 25<br /> <br /> 26<br /> <br /> Sự xuất hiện khá nhiều các loài rong thuộc<br /> ngành Chlorophyta và một số loài có khả năng<br /> thích nghi độ mặn cao của chi Gracilaria<br /> (Rhodophyta) thể hiện sự thích hợp các đặc<br /> điểm môi trường, sinh thái cho sự sinh trưởng,<br /> phát triển các loài rong này ở vùng nghiên cứu.<br /> Chi Gracilaria thuộc ngành Rhodophyta là<br /> nguồn lợi rong biển chính của vùng này, trong<br /> đó loài Gracilaria rubra là loài có sinh lượng<br /> lớn nhất. Ngoài ra một số loài rong chứa<br /> Agarophytes khác cũng được ghi nhận tại đây<br /> nhưng trữ lượng không cao như Hydropuntia<br /> fisheri, Gracilaria salicornia, Hydropuntia<br /> changii, Acanthophora spicifera, nhóm rong<br /> chứa Carrageenophytes ghi nhận được 1 loài là<br /> Hypnea sp..<br /> KẾT LUẬN<br /> <br /> Vùng biển Bãi Nò, Hà Tiên, Kiên Giang có<br /> số loài rong biến có tiềm năng kinh tế khá đa<br /> dạng với 23 loài rong biển thuộc 14 chi của 10<br /> 38<br /> <br /> họ. Trong đó, 11 loài thuộc ngành<br /> Chlorhophyta, 9 loài thuộc ngành Rhodophyta<br /> và 3 loài thuộc ngành Heterokontophyta (lớp<br /> Phaeophyceae).<br /> Thành phần loài và sinh khối của rong biển<br /> biến động theo mùa vụ. Số loài thu thập được cả<br /> 2 mùa mưa và mùa khô là 9 loài (39% số loài).<br /> Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng rong<br /> biển kinh tế tại đây đa dạng hơn vào mùa mưa<br /> với 16 loài ghi nhận được thuộc 13 chi, của 9 họ<br /> trong khi đó vào mùa khô ghi nhận được 18 loài<br /> thuộc 11 chi của 8 họ.<br /> Ở Bãi Nò, Hà Tiên, loài Gracilaria rubra có<br /> sinh lượng khá lớn. Ngoài ra một số loài rong<br /> chứa Agarophytes khác cũng được ghi nhận tại<br /> đây nhưng trữ lượng không cao như<br /> Acanthophora spicifera, Gracilaria salicornia,<br /> Hydropuntia fisheri, Hydropuntia changii.<br /> Nhóm rong chứa Carrageenophytes chỉ ghi nhận<br /> được 1 loài là Hypnea sp..<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2