BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _________________________

LÊ NGỌC THÙY NỮ TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN NƢỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _________________________

LÊ NGỌC THÙY NỮ TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN NƢỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và

thông tin sử dụng trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 9 năm 2018

Lê Ngọc Thùy Nữ

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

TÓM TẮT

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .................................................................... 1

1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3

1.3. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 3

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

1.5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4

CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN ..................................................................................... 6

2.1. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................... 6

2.1.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................... 6

2.1.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài ................................................................ 8

2.1.3. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế ............................................... 9

2.1.4. Lý thuyết giải thích sự tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ..................................................................................................... 12

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan .................................................. 14

2.2.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế .............. 14

2.2.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế .......................... 20

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................... 31

3.1. Quy trình chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu ................................... 31

3.2. Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 31

3.3. Mô tả biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu ....................................................... 33

3.3.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................. 34

3.3.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài .............................................................. 35

3.3.3. Lạm phát ............................................................................................... 36

3.3.4. Tiết kiệm nội địa ................................................................................... 37

3.3.5. Đầu tư nội địa........................................................................................ 38

3.3.6. Độ mở thương mại ................................................................................ 39

3.3.7. Chi tiêu chính phủ ................................................................................. 40

3.3.8. Tăng trưởng dân số ............................................................................... 42

3.4. Phương pháp hồi quy ................................................................................... 43

CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 45

4.1. Thống kê mô tả và ma trận tương quan ....................................................... 45

4.2. Kiểm định phương pháp hồi phù hợp .......................................................... 50

4.3. Thảo luận kết quả ........................................................................................ 51

4.3.1. Biến phụ thuộc GDPGR ....................................................................... 51

4.3.2. Biến phụ thuộc GDPPCGR .................................................................. 59

CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH ......................... 68

5.1. Kết luận ........................................................................................................ 68

5.2. Các hàm ý chính sách .................................................................................. 70

5.3. Hạn chế đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................ 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

ODA (Official Development Assistance): Hỗ trợ phát triển chính thức.

GMM (General Method of Moments): Phương pháp Moments tổng quát.

GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội.

GNP (Gross National Product): Tổng sản lượng quốc gia.

OLS (Ordinary Least Square): Phương pháp bình phương nhỏ nhất.

2SLS (Two-Stage Least Squares): Phương pháp hồi quy 2 giai đoạn.

OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): Tổ chức Hợp

tác và Phát triển Kinh tế.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ................................ 26

Bảng 3.1. Mô tả biến ................................................................................................. 33

Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến ............................................................................ 45

Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc .................. 49

Bảng 4.3. Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi và tự tương quan .......................... 51

Bảng 4.4. Kết quả tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế

GDPGR ..................................................................................................................... 53

Bảng 4.5. Kết quả ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế

GDPPCGR ................................................................................................................ 61

TÓM TẮT

Tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

vẫn là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Bên cạnh các quan điểm cho

rằng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác

động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì vẫn tồn tại nhiều quan

điểm cho rằng các dòng vốn nước ngoài này không có tác động tích cực hoặc thậm

chí có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia tiếp nhận.

Luận văn nghiên cứuc tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và

dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát

triển ở Châu Á giai đoạn 1990 - 2016, sử dụng phương pháp hồi quy GMM, với dữ

liệu thu thập dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới (World

Bank).

Kết quả nghiên cứu phát hiện rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và

dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước

ngoài chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con

người tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện

chính sách một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng

thể chế đủ mạnh (Durham, 2004). Từ đó, kết quả nghiên cứu góp phần tạo cơ sở cho

các nhà hoạch định chính sách xây dựng các chính sách thu hút, quản lý và sử dụng

hiệu quả các dòng vốn nước ngoài, hạn chế gây ra sự lãng phí cũng như làm gia

tăng vấn đề tham nhũng, trục lợi, làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

đang phát triển.

Từ khóa: Dòng vốn nước ngoài, tăng trưởng kinh tế, các quốc gia đang phát

triển Châu Á, GMM.

1

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1. Lý do chọn đề tài

Một trong những yếu tố then chốt trong quá trình toàn cầu hóa hay hội nhập

toàn cầu của nền kinh tế thế giới là dòng vốn nước ngoài (Chorn và Siek, 2017).

Theo đó, trước tình hình thiếu hụt nguồn vốn trong nước để tài trợ cho sự phát triển

trong dài hạn, hầu hết các quốc gia đang phát triển phụ thuộc đáng kể vào nguồn tài

chính bên ngoài. Điều này dẫn đến việc gia tăng nhu cầu vốn nước ngoài để bổ sung

cho các nguồn lực trong nước và được xem như là yếu tố quan trọng đối với sự phát

triển và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển (Chorn và Siek, 2017).

Trong đó, nguồn viện trợ nước ngoài và nguồn vốn đầu tư nước ngoài là các nguồn

vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế tại các quốc gia

đang phát triển.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong các nguồn vốn quan

trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế của quốc gia bởi nguồn vốn này có khả năng

tạo ra sự thuận lợi khi thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ kỹ thuật, kiến

thức, kỹ năng và sự đổi mới của các quốc gia đã phát triển đến các quốc gia đang

phát triển, do đó có thể giúp các quốc gia nhận nguồn vốn này thúc đẩy tốc độ tăng

trưởng kinh tế cũng như mức độ phát triển kinh tế của quốc gia (Borensztein và các

cộng sự, 1998; Makki và Somwaru, 2004; Chowdhury và Mavrotas, 2005). Cũng

như Moreira (2005) đã lập luận rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không

chỉ lan truyền công nghệ, mà còn thúc đẩy sự hình thành vốn con người, góp phần

hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo ra môi trường kinh tế cạnh tranh và tăng cường sự

phát triển của các doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thật sự quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế

của các quốc gia đang phát triển (Chorn và Siek, 2017) và có lẽ có tác động mạnh

hơn so với tác động của đầu tư nội địa đến tăng trưởng kinh tế (Bengoa và Sanchaez

– Robles, 2003; Hermes và Lensink, 2003; Li và Xiu, 2005; Alguacil và các cộng

sự, 2011).

2

Bên cạnh đó, nguồn viện trợ nước ngoài cũng thường được dịch chuyển từ

các quốc gia đã phát triển đến các quốc gia đang phát triển bằng cách trực tiếp hoặc

gián tiếp thông qua các tổ chức nhằm mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội

(Chorn và Siek, 2017). Do đó, viện trợ nước ngoài có thể đẩy nhanh tốc độ tăng

trưởng tiềm tàng của quốc gia nhận viện trợ. Hơn thế nữa, viện trợ nước ngoài có

thể cải thiện tốc độ tăng trưởng ổn định của quốc gia bằng cách mang lại sự chuyển

giao công nghệ kỹ thuật, kiến thức, khuyến khích cơ chế quản trị tốt hơn và nâng

cao tay nghề, kích thích đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người (Morrissey, 2001;

Adamu, 2013). Easterly (2003) tin rằng nhiều quốc gia đang phát triển có môi

trường kinh doanh tương đối nguy hiểm đối với các nguồn vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài, và do đó nguồn viện trợ nước ngoài sẽ đóng vai trò quan trọng đối với

việc góp phần vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kinh tế ở các quốc

gia đang phát triển. Hansen và Tarp (2001) cho thấy rằng viện trợ nước ngoài không

chỉ có thể làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư của quốc gia mà còn có tác

động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia mà thậm chí quốc gia đó bị

cản trở bởi một môi trường chính sách bất lợi. Moreira (2005), Karras (2006),

Ndambendia (2010) cũng đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy tồn tại mối quan

hệ cùng chiều giữa nguồn viện trợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

đang phát triển, trong khi đó, Fambon (2013) lại cho thấy trong trường hợp ở

Cameroon, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tác động tích cực và đáng kể

tới tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, tuy nhiên, nguồn viện trợ nước

ngoài thì không có tác động đáng kể tới tăng trưởng kinh tế mặc dù ảnh hưởng này

vẫn là ảnh hưởng tích cực. Mặt khác, ngoài những ưu điểm mà nguồn viện trợ nước

ngoài mang đến cho các quốc gia đang phát triển, thì nguồn viện trợ nước ngoài lại

có sự tác động tiêu cực tới nền kinh tế của các quốc gia này bao gồm việc nhập

khẩu các công nghệ không phù hợp, bóp méo thu nhập quốc gia nhận đầu tư, và

khuyến khích chính phủ thực hiện các hành vi tham nhũng ở các quốc gia đang phát

triển (Chorn và Siek, 2017).

3

Từ đây có thể thấy rằng, dòng vốn nước ngoài bao gồm dòng viện trợ nước

ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tác động đáng kể tới tăng

trưởng kinh tế tại các quốc gia và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Cho nên,

học viên lựa chọn đề tài “Tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng

kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á” làm đề tài luận văn thạc sỹ với

mong muốn tìm hiểu rõ tác động của nguồn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu

Á.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xác định tác động của dòng vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài và nguồn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia đang phát triển ở Châu Á. Qua đó, bài nghiên cứu giúp các nhà hoạch

định có cái nhìn tổng quan về tầm quan trọng của các dòng vốn quốc tế đến tăng

trưởng kinh tế,từ đó đưa ra những chính sách phù hợp để phát triển quốc gia một

cách bền vững.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn đề xuất các câu hỏi

nghiên cứu như sau:

- Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh tế tại

các quốc gia đang phát triển ở Châu Á hay không?

- Nếu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh

tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á thì đó là tác động tích cực (+) hay tiêu

cực (-)?

- Dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia đang phát triển ở Châu Á hay không?

4

- Nếu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh

tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á thì đó là tác động tích cực (+) hay tiêu

cực (-)?

- Những chính sách gì được khuyếnh nghị để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, cũng như thu hút và sử dụng hiệu quả

các dòng vốn nước ngoài?

1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tƣợng nghiên cứu

Các đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong luận văn là tăng trưởng kinh tế,

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng viện trợ nước ngoài và các yếu tố kinh

tế vĩ mô khác quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài, dòng viện trợ nước ngoài và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác

quyết định tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai

đoạn 1990 – 2016.

1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài (bao gồm dòng vốn viện

trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia, luận văn áp dụng mô hình nghiên cứu của Alguacil và các cộng sự

(2011), Chorn và Siek (2017). Đồng thời, để giải quyết mục tiêu nghiên cứu và câu

hỏi nghiên cứu mà luận văn đã đề cập, luận văn sử dụng phương pháp GMM với ưu

điểm có thể giải quyết vấn đề nội sinh (do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ

thuộc và mối tương quan hai chiều giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh

tế), vấn đề tự tương quan và vấn đề phương sai thay đổi.

5

Cấu trúc luận văn

Luận văn bao gồm 05 chương như sau:

Chương 1. Giới thiệu đề tài

Chương 2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm

Chương 3. Phương pháp nghiên cứu

Chương 4. Kết quả nghiên cứu

Chương 5. Kết luận

6

CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU

THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN

2.1. Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là dòng vốn đầu tư của

một nhà đầu tư nước ngoài để có được quyền kiểm soát lâu dài đối với việc quản lý

doanh nghiệp, và phải chiếm ít nhất 10% cổ phần có quyền biểu quyết trong một

doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế không phải quốc gia của nhà đầu tư

đang kinh doanh. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là tổng vốn

cổ phần, và bao gồm các khoản tái đầu tư của lợi nhuận, vốn dài hạn khác, và vốn

ngắn hạn. Các thành phần này có thể theo dõi trong cán cân thanh toán của một

quốc gia (World Bank, 2013). Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đo

lường dưới dạng cổ phiếu hoặc dòng vốn. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

dưới dạng cổ phiếu là dòng vốn tích lũy của nhà đầu tư có ở một quốc gia trong một

khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

dưới dạng dòng vốn thì là những gì mà nhà đầu tư tạo ra trong một năm cụ thể, do

đó, ở dưới dạng dòng vốn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng chảy

ra hoặc chảy vào quốc gia trong một năm cụ thể.

Hơn thế nữa, theo Dunning và Lundan (2008), dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài thường bắt đầu với các động cơ, mục đích khác nhau của các công ty đa

quốc gia. Chẳng hạn như tìm kiếm thị trường tiềm năng mới, tìm kiếm nguồn tài

nguyên thiên nhiên, tìm kiếm các kiến thức mới và tìm kiếm sự hiệu quả mới. Trong

đó, mục đích tìm kiếm thị trường mới có thể hiểu như là khi các công ty đa quốc gia

thực hiện đầu tư sang các thị trường mới để có được một thị trường kinh doanh lớn

hơn. Khi các công ty đa quốc gia thực hiện đầu tư ở các quốc gia với mục đích khai

thác tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia nhận đầu tư như dầu mỏ, vàng, quặng

sắt…thì đây được xem như là mục đích tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời,

7

nếu các công ty đa quốc gia thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài để có thể cải thiện

kỹ năng thông qua việc nghiên cứu và phát triển cũng như có thể cải tiến công nghệ

sản xuất kinh doanh thì đây được xem như là tìm kiếm kiến thức. Cuối cùng, tìm

kiếm hiệu quả được xem như là động cơ chính mà các công ty đa quốc gia thực hiện

di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh đến những quốc gia đang phát triển nơi mà họ

có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất do lực lượng lao

động giá rẻ ở các quốc gia đang phát triển.

* Vai trò của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các quốc gia tiếp

nhận

Đầu tiên, FDI là đóng vai trò quan trọng, được xem như nguồn vốn nhằm bù

đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực tăng trưởng và phát triển. Tiếp

nhận số lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài đối với các nước đang phát triển không

chỉ tác động đến tổng cầu, mà còn tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Đối với

tổng cầu của nền kinh tế, khi có những biến đổi bất thường trong đầu tư sẽ có ảnh

hưởng khá lớn về sản lượng cũng như thu nhập trong ngắn hạn. Đối với tổng cung,

vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, các năng lực mới đi vào hoạt động sẽ làm cho

tổng cung tăng lên, nhất là tổng cung trong dài hạn, dẫn đến tăng sản lượng tiềm

năng, từ đó, giảm giá sản phẩm. Khi tăng sản lượng và giảm giá góp phần thúc đẩy

tăng tiêu dùng, điều này kích thích phát triển sản xuất. Đây chính là động lực để

tăng tích lũy, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập và nâng cao chất

lượng cuộc sống xã hội.

Thứ hai, FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước

ngoài sẽ tác động và thay đổi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói tại các nước đang

phát triển, vì đó là nguyên nhân làm cho quy mô đầu tư bị hạn chế và kỹ thuật chậm

cải tiến trong thời kỳ khoa học - kỹ thuật trên thế giới cũng như lực lượng sản xuất

đang phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, để tận dụng được tối đa lợi thế, tiềm năng,

quốc gia cần phải mở cửa giao thương với các nước nhằm tậm dụng những cơ hội

phát huy và củng cố tiềm năng của quốc gia mình.

8

Thứ ba, FDI có thể làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước

ngoài giúp giải quyết sự chênh lệch giữa các vùng, khu vực, lãnh thổ, góp phần hỗ

trợ các khu vực phát triển kém xóa đói, giảm nghèo. Thu hút đầu tư góp phần phát

huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị,… của các

vùng. Từ đó, thay đổi cơ cấu các ngành, cơ cấu lao động…, góp phần đáp ứng các

yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội tốt hơn.

Cuối cùng, FDI góp phần phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ của

quốc gia. Các công ty đã thực hiện chuyển giao các công nghệ từ quốc gia của mình

hay từ quốc gia khác cho quốc gia tiếp nhận đầu tư thông qua FDI. Thông qua thu

hút đầu tư nước ngoài, các quốc gia nhận được vốn đầu tư nước ngoài sẽ nhận được

những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, đồng thời, nâng cao kỹ năng quản lý, chất

lượng lao động.

2.1.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài

Dòng vốn viện trợ phát triển chính thức hay còn được gọi là dòng vốn viện

trợ nước ngoài là một trong các dòng vốn nước ngoài bên cạnh dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài và dòng vốn kiều hối (Makori và các cộng sự, 2015). Dòng vốn

viện trợ phát triển chính thức chảy từ các quốc gia đã phát triển hoặc các tổ chức thế

giới đến các quốc gia đang phát triển dưới hình thức các khoản vay, các khoản ưu

đãi về tài chính và trợ cấp.

Dòng vốn viện trợ phát triển chính thức được chia làm hai loại chính: (1) các

khoản vay hoặc trợ cấp được cấp bởi một nhà tài trợ (viện trợ song phương) và (2)

các khoản vay hoặc trợ cấp được cấp bởi nhiều nhà tài trợ (viện trợ đa phương)

(Ekanayake và Chatrna, 2008). Trong đó, viện trợ song phương được các cơ quan

của các nước viện trợ thực hiện, chẳng hạn như Cơ quan hỗ trợ Phát triển chính

thức của New Zealand (NZODA), Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID)

hoặc Cơ quan Phát triển Quốc tế của Thụy Điển (SODA) và những quốc gia khác

(Makori và các cộng sự, 2015). Trong khi đó, viện trợ đa phương là nguồn tài trợ

hoặc nguồn vốn xuất phát từ các quốc gia phát triển nhưng được quản lý thông qua

9

các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng

Thế giới (WB) hoặc các tổ chức chuyên môn khác như Tổ chức Lương thực và

Nông nghiệp (FAO) hoặc Chương trình Lương thực Thế giới (WFP)… (Karras,

2006; OECD, 2012; Jayaraman và các cộng sự, 2016).

* Vai trò của dòng vốn viện trợ nước ngoài đối với các quốc gia nhận viện

trợ

Đầu tiên, ODA góp phần mang lại nguồn lực cho các quốc gia đang phát

triển. Do phần lớn các quốc gia này phần lớn thiếu vốn nên khi có dòng vốn viện trợ

vào quốc gia sẽ góp phần bổ sung thêm nguồn lực phục vụ yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội. Bên cạnh đó, nguồn viện trợ chảy vào các quốc gia đang phát triển giúp

tăng vốn đầu tư và ngoại tệ, tạo điều kiện cho các quốc gia này tiếp cận thêm vốn từ

các tổ chức quốc tế khác và đủ khả năng trả các khoản nợ đến hạn.

Thứ hai, ODA cũng được xem là một trong các yếu tố hỗ trợ các quốc gia

đang đối mặt với việc đồng nội tệ bị phá giá có khả năng khôi phục giá trị đồng tiền

của quốc gia mình thông qua các khoản viện trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế.

Thứ ba, ODA hỗ trợ vốn cho các công ty nhỏ trong nước, giúp hoạt động sản

xuất kinh doanh được phát triển thông qua hiệu quả đầu tư các nguồn vốn, thúc đẩy

mở rộng quy mô của doanh nghiệp.

Cuối cùng, ODA giúp các quốc gia tiếp nhận viện trợ được nhập khẩu các

thiết bị, máy móc cần thiết từ các nước phát triển phục vụ cho quá trình công nghiệp

hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, quốc gia tiếp nhận viện trợ có khả năng gia

nhập các tổ chức tài chính thế giới thông qua quốc gia viện trợ ODA, cũng như tạo

điều kiện nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính khác trên thế giới.

2.1.3. Một số quan điểm về tăng trƣởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

hay tổng sản lượng quốc gia (GNP) hay quy mô sản lượng quốc gia bình quân trên

đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.

10

Tăng trưởng kinh tế được xét phụ thuộc 2 quá trình gồm: sự tích lũy tài sản

như vốn, lao động, đất đai và việc đầu tư vào các tài sản này có năng suất hơn.

Trong đó, trọng tâm là đầu tư và tiết kiệm, tuy nhiên, chỉ khi đầu tư có hiệu quả thì

mới có thể thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, các yếu tố có vai trò nhất định tác động

đến tăng trưởng kinh tế phải kể đến là các chính sách của chính phủ, thể chế, chính

trị ổn định, kinh tế bền vững, đặc điểm địa lý, trình độ giáo dục và y tế.

Đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa

quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế

kỳ trước, và tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng phần trăm (%).

Cụ thể như sau:

y = dY/Y × 100(%)

Trong đó, Y là quy mô của nền kinh tế và y là tốc độ tăng trưởng. Tốc độ

tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa được tính khi quy mô kinh tế được xác

định bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa. Tương tự, tốc độ tăng trưởng GDP (hay

GNP) thực tế khi quy mô kinh tế được xác định bằng GDP (hay GNP) thực tế.

Các nhà kinh tế học đã dùng các mô hình kinh tế nhằm giải thích nguồn gốc

tăng trưởng kinh tế, cụ thể:

Mô hình tăng trưởng cổ điển do David Ricardo (1772-1823) kế thừa và phát

triển trên cơ sở quan điểm của Adam Smith (1723 - 1790). Mô hình được đưa luận

điểm là đất sản xuất là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Ông cho rằng đất sản

xuất bị giới hạn nên cần phải sản xuất trên vùng đất xấu hơn để tăng diện tích, do

đó, lợi nhuận ngày càng giảm kéo theo chí phí sản xuất tăng cao, giá nông sản tăng,

tăng tiền lương danh nghĩa và giảm lợi nhuận. Trong khi đó, nguồn tích lũy để phát

triển sản xuất chính là lợi nhuận, từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Điều này cho thấy

rằng, vì diện tích đất bị giới hạn nên kéo theo lợi nhuận của người nông dân cũng

như người công nhân bị giảm, làm cho tăng trưởng kinh tế bị ảnh trưởng. Tuy

nhiên, khi đạt mức tăng trưởng càng cao thì mô hình không còn giải thích được

nguồn gốc của tăng trưởng.

11

Mô hình hai khu vực giải thích rằng tăng trưởng kinh tế chính là kết quả của

sự tăng trưởng ở cả khu vực nông nghiệp lẫn khu vực công nghiệp, trong đó, lao

động được xem là yếu tố chính, đầu tư làm tăng năng suất và khoa học - kỹ thuật

trên khu vực nông nghiệp và công nghiệp cũng là yếu tốt góp phần tăng trưởng kinh

tế. Đại diện cho mô hình này gồm có mô hình Lewis, mô hình tăng trưởng Tân cổ

điển và mô hình hai khu vực của Harry T. Oshima.

Mô hình Harrod - Domar cho rằng khi tăng số lượng vốn đầu tư phát triển

sản xuất chính là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế.

Mô hình tăng trưởng của Robert Solow (1956) giải thích rằng khi vốn sản

xuất tăng lên, trong ngắn hạn sẽ làm ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, còn trong

dài hạn lại không làm ảnh hưởng. Khi đó, tăng trưởng kinh tế sẽ đạt được trạng thái

dừng. Khi tỷ lệ tiết kiệm cao hơn, nền kinh tế có thể đạt mức sản lượng cao hơn

nhưng trong dài hạn sẽ không làm ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế.

Mô hình tăng trưởng Kaldor cho rằng khoa học - kỹ thuật phát triển hay công

nghệ phát triển sẽ làm tăng trưởng kinh tế, đồng thời, ngoài yếu tố vốn sản xuất,

tăng trưởng kinh tế còn tùy thuộc vào trình độ phát triển công nghệ.

Mô hình Tân cổ điển giải thích rằng nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc

vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào là vốn(K) và lao động (L).

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes, với mô hình Harrod - Domar tiêu

biểu.Theo đó, 2 giả thiết căn bản của mô hình là giá không biến động và nền kinh tế

có thể ở tình trạng toàn dụng lao động hoặc không. Tăng lượng vốn (K) đưa vào sản

xuất chính là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế của mô hình. Các nhà kinh tế học giải

thích rằng nền kinh tế sẽ ngày càng mất cân bằng khi chuyển từ trạng thái tăng

trưởng cân bằng sang trạng thái tăng trưởng mất cân bằng.

Bên cạnh đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển được hình thành trên nền tăng

giả thiết gồm giá cả linh hoạt và nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng lao động. CÁc

nhà kinh tế học sử dụng mô hình để cho thấy rằng nền kinh tế chỉ mất cân bằng tạm

12

thời và sớm khôi phục trạng thái cân bằng khi đang từ trạng thái tăng trưởng cân

bằng chuyển sang trạng thái tăng trưởng mất cân bằng.

2.1.4. Lý thuyết giải thích sự tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến

tăng trƣởng kinh tế

Có hai lý thuyết chính để giải thích tại sao nguồn vốn nước ngoài có tác động

tích cực tới tăng trưởng kinh tế: lý thuyết tích lũy vốn và lý thuyết lan tỏa công

nghệ. Trong đó, lý thuyết tích lũy vốn cho rằng nguồn vốn nước ngoài được xem

như như là công cụ bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế nhận được nguồn vốn này.

Trong khi đó, lý thuyết lan toả công nghệ cho rằng nguồn vốn nước ngoài có thể tác

động đến tăng trưởng kinh tế qua kênh lan tỏa kiến thức/công nghệ kỹ thuật từ các

quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển.

Đầu tiên, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển được đề xuất bởi Solow (1956)

cho rằng sự gia tăng trong vốn khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng,

và kết quả là sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Khi nguồn vốn

nước ngoài là một nguồn vốn vật chất cho nước nhận đầu tư, thì việc gia tăng nguồn

vốn nước ngoài sẽ làm gia tăng lượng vốn khả dụng cho quá trình sản xuất. Cho

nên, theo khung lý thuyết tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế, một sự gia tăng trong

nguồn vốn nước ngoài sẽ góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của quốc gia và

khi đó nguồn vốn nước ngoài sẽ đóng vai trò như một nguồn vốn bổ sung cho lượng

vốn khả dụng của quốc gia. Tuy nhiên, giả sử rằng lợi nhuận của vốn đầu tư giảm

dần theo thời gian, tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài đến tăng trưởng

kinh tế không ổn định trong dài hạn. Điều này hàm ý rằng, theo lý thuyết tăng

trưởng tân cổ điển thì nguồn vốn nước ngoài chỉ đóng vai trò làm động lực tăng

trưởng kinh tế trong ngắn hạn (Brems, 1970).

Bên cạnh đó, lý thuyết lan toả công nghệ cho rằng nguồn vốn nước ngoài có

thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua kênh lan tỏa kiến thức/công nghệ kỹ

thuật từ các quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Khi đó, vai trò

của nguồn vốn nước ngoài như là một công cụ khuếch tán công nghệ hoặc kiến

13

thức, điều này ngụ ý rằng, nguồn vốn nước ngoài sẽ tác động trực tiếp đến tăng

trưởng kinh tế (Borensztein và các cộng sự, 1998), đặc biệt là trong khung lý thuyết

tăng trưởng kinh tế nội sinh được Romer (1986) đề xuất, lý thuyết này nhấn mạnh

sự tích lũy của kiến thức như là một động cơ đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của quốc

gia. Kinoshita (1999) đã cho rằng quá trình khuếch tán kiến thức/công nghệ từ các

quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển có thể thực hiện theo một

trong 04 dạng sau: hiệu ứng sao chép, hiệu ứng đào tạo, hiệu ứng liên kết và hiệu

ứng cạnh tranh. Khi công ty từ các quốc gia đã phát triển thành lập công ty con hoặc

nhà máy ở các quốc gia đang phát triển, các công ty có thể giới thiệu các công nghệ

kỹ thuật tiên tiến/hiệu quả đến thị trường nội địa. Thông qua việc tương tác trên thị

trường, các nhà sản xuất nội địa có thể sao chép các công nghệ kỹ thuật cao này và

tiến hành thực hiện sản xuất dựa trên các công nghệ này, điều này sẽ làm gia tăng

sản lượng thông qua việc sử dụng công nghệ kỹ thuật hiệu quả hơn từ các công ty

ngoài nước. Cơ chế này được gọi là hiệu ứng sao chép. Hiệu ứng đào tạo cho thấy

rằng các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tiến hành đào tạo lực lượng lao động ở quốc

gia nhận đầu tư để tận dụng tốt các công nghệ kỹ thuật tiên tiến mà họ đã giới thiệu

ở thị trường nội địa. Sự giáo dục mà người lao động nhận được sẽ tạo ra sự gia tăng

trong lượng kiến thức của quốc gia nhận đầu tư, điều này sẽ dẫn đến sản lượng cao

hơn và thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn.

Tiếp theo, hiệu ứng liên kết được thực hiện khi các công ty nội địa mua hàng

hóa trung gian từ các công ty nước ngoài. Nếu các nguyên liệu đầu vào này tiên tiến

hơn so với các nguyên liệu có sẵn cho các công ty nội địa ở trước đây, thì các doanh

nghiệp nước ngoài có thể gián tiếp nâng cấp công nghệ - kỹ thuật của các công ty

nội địa, điều này sẽ kéo sản lượng công ty gia tăng và kết quả là thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế.

Cuối cùng, khi các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động hiệu quả hơn, thì các

doanh nghiệp này có thể làm gia tăng tính cạnh tranh trong thị trường hoạt động,

đặc biệt là tại các thị trường mà các công ty nội địa đang hoạt động độc quyền trước

đây. Hiệu ứng cạnh tranh xảy ra khi sự gia tăng trong tính cạnh tranh của thị trường

14

bắt buộc các công ty nội địa phải hoạt động hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất

hoặc đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào việc nâng cấp công nghệ kỹ thuật của công ty.

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan

2.2.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và tăng trƣởng kinh tế

Borensztein và các cộng sự (1998) đã kiểm tra ảnh hưởng của dòng vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển trong

giai đoạn 1970 - 1989. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ

liệu dạng bảng bảo gồm 69 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô hình nghiên

cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến

độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn con người, chi tiêu

chính phủ, lạm phát, chất lượng thể chế, độ sâu tài chính. Sau đó, nghiên cứu đã tiến

hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS và

tìm thấy rằng bản thân dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không có tác động

đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Nhưng dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của quốc gia

thông qua việc chuyển giao công nghệ. Cụ thể, tác giả cũng chỉ ra rằng hiệu ứng

tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế chỉ được

tìm thấy ở những quốc gia nhận đầu tư có đủ vốn con người. Các tác giả cũng lập

luận rằng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào tăng trưởng

kinh tế của quốc gia nhận đầu tư khi quốc gia có đủ năng lực hấp thụ được các công

nghệ tiên tiến mà các nhà đầu tư đưa vào các quốc gia này.

De Mello (1999) đã giải thích ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn 1970 –

1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao

gồm 32 quốc gia thuộc OECD và không thuộc OECD trên thế giới. Đồng thời, mô

hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc

và các biến độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư nội địa.

Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi

15

quy OLS, và các tác giả phát hiện rằng tác động tích cực của dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia phụ thuộc vào mức độ thay

thế và bổ sung giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nội địa của các

quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Hơn thế nữa, nghiên cứu của tác giả cũng cho rằng

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế

thông qua quá trình tích lũy vốn và chuyển giao công nghệ, mà còn có thể ảnh

hưởng đến tăng trưởng thông qua sự gia tăng kiến thức do đào tạo lao động và các

kỹ năng mềm. Mặt khác, nghiên cứu cũng xác định rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp

ngoài chỉ có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thuộc

OECD và không có tác động đáng kể tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia không

thuộc OECD.

Benoga và Sanchez - Robles (2003) giải thích tác động của dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài và tự do kinh tế tới tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Mỹ

Latinh trong giai đoạn 1970 – 1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu

nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 19 quốc gia ở Mỹ Latinh. Đồng thời, mô

hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc

và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, vốn con người, chỉ số tự do kinh

tế, chi tiêu chính phủ, lạm phxát. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình

nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS và tìm thấy rằng dòng vốn

đầu tư trực tiếp có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc

gia trong mẫu nghiên cứu với mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng, các quốc

gia thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng nhiều càng thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế tại các quốc gia sở tại. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy rằng vốn

con người, chỉ số tự do kinh tế có tương quan dương với tăng trưởng kinh tế tại các

quốc gia tại mức ý nghĩa 10%. Ngược lại, lạm phát và chi tiêu chính phủ lại cho

thấy mối tương quan âm với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa

10%. Hơn thế nữa, các tác giả cũng cho rằng chỉ số tự do kinh tế, nợ công và lạm

phát có tác động đáng kể đến chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài.

16

Makki và Somwaru (2004) đã kiểm tra ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài và độ mở thương mại tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang

phát triển trong giai đoạn 1971 - 2001. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu

nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 66 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô

hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc

và các biến độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở thương

mại, vốn con người, đầu tư nội địa, lạm phát, chi tiêu chính phủ và thuế. Sau đó,

nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi quy

dường như không liên quan (SUR) và phương pháp hồi quy ba bước (3SLS) và tìm

thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực tới tăng trưởng

kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng chính sách thu hút dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể giúp quốc gia cải thiện tăng trưởng kinh tế. Hơn

thế nữa, nghiên cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy vai trò của vốn con

người đối với hiệu ứng tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế như Borensztein và các cộng sự (1998) đã tìm thấy trước đó. Nhưng

các tác giả lại phát hiện rằng, các quốc gia sở tại sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn từ

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu độ mở thương mại quốc gia tương đối lớn.

Chowdhury và Mavrotas (2005) phân tích mối quan hệ giữa dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong

giai đoạn 1969 – 2000. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ

liệu dạng bảng bao gồm 03 quốc gia: Chile, Malaysia và Thái Lan. Đồng thời, các

tác giả dựa trên phương pháp kiểm định nhân quả của Toda – Yamamoto áp dụng

cho hai biến tăng trưởng kinh tế và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó,

nghiên cứu tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không có tác động

nhân quả đến tăng trưởng kinh tế của Chile nhưng tăng trưởng kinh tế lại có ảnh

hưởng nhân quả đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này cho thấy rằng,

mặc dù việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế ở Chile nhưng khi nền kinh tế Chile càng tăng trưởng thì sẽ càng thu

hút được nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn thế nữa, ở Malaysia và

17

Thái Lan, nghiên cứu tìm thấy rằng cả dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng

trưởng kinh tế đều cho thấy mối quan hệ nhân quả với nhau ở mức ý nghĩa thống kê

5%. Cho thấy, khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhận nhiều thì sẽ thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế của Malaysia và Thái Lan, khi tăng trưởng kinh tế ở 02

quốc gia này gia tăng thì sẽ thu hút được nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài hơn.

Li và Liu (2005) đã giải thích ảnh hưởng của FDI tới tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn 1970 – 1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện

thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 84 quốc gia đã phát triển và

đang phát triển trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng

trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư nội địa, tăng trưởng dân số, vốn con người,

cơ sở hạ tầng, lỗ hỏng công nghệ. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình

nghiên cứu bởi phương pháp hồi quy OLS với mô hình OLS gộp, mô hình ảnh

hưởng cố định và mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên, qua đó, các tác giả tìm thấy rằng

bản thân dòng vốn FDI không có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có tác

động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua vốn con người. Từ đó thấy được,

các quốc gia có vốn con người cao thì khi thực hiện chính sách thu hút dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, các tác giả

cũng tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có tác động tiêu cực đến

tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia sở tại có lỗ hỏng công nghệ nhiều với quốc

gia của các nhà đầu tư.

Seetanah và Khadaroo (2007) đã phân tích ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong

giai đoạn 1980 – 2000. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ

liệu dạng bảng với 39 quốc gia đang phát triển ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình

nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và

các biến độc lập bao gồm FDI, đầu tư nội địa, đầu tư công và lực lượng lao động.

18

Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi

quy OLS và GMM, qua đó, các tác giả tìm thấy rằng FDI tác động tích cực tới tăng

trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Từ đó thấy được, chính sách thu hút FDI có thể

làm cho quốc gia thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, nghiên cứu cũng tìm

thấy bằng chứng cho thấy rằng các yếu tố khác như đầu tư nội địa, đầu tư công và

lực lượng lao động đều cho thấy ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức

ý nghĩa thống kê 10%. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy rằng hiệu ứng tích cực

của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dường như yếu hơn so với các loại hình

đầu tư khác.

Herzer (2010) đã giải thích ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1970 – 2005. Cụ thể, nghiên cứu thực

hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 44 quốc gia đang phát

triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem

như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm FDI, vốn con người, độ mở

thương mại, sự phát triển thị trường tài chính, sự can thiệp của chính phủ và mức độ

tự do kinh doanh. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi

phương pháp kỹ thuật đồng liên kết và tìm thấy rằng, trái ngược với các nghiên cứu

trước đây, FDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa thống kê

10%. Điều này cho thấy rằng, chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài có thể làm cho quốc gia suy giảm tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, nghiên

cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy vai trò của vốn con người, độ mở

thương mại, sự phát triển thị trường tài chính đối với mối quan hệ giữa FDI và tăng

trưởng kinh tế như các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy trước đó. Nhưng các tác

giả lại phát hiện rằng, FDI sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi quốc

gia sở tại có sự can thiệp chính phủ cao và độ tự do kinh doanh cao.

Hansen và Anis (2012) đã xem xét mối quan hệ giữa FDI đến tăng trưởng

kinh tế của Tunisia trong giai đoạn 1975 – 2009. Đồng thời, mô hình nghiên cứu

của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc

lập bao gồm FDI, vốn con người, độ mở thương mại, sự phát triển tài chính. Sau đó

19

nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi mô hình Vector hiệu chỉnh

sai số (VECM) cũng như thực hiện kiểm định đồng liên kết Johansen, và các tác giả

thấy rằng FDI có quan hệ tích cực trong dài hạn với tăng trưởng kinh tế của Tunisia.

Điều này cho thấy rằng, trong dài hạn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tunisia. Thêm nữa, nghiên cứu cũng tìm thấy bằng

chứng cho thấy rằng hiệu ứng tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến

tăng trưởng kinh tế sẽ mạnh mẽ hơn khi vốn con người và sự phát triển tài chính

của Tunisia có sự gia tăng.

Gui-Diby (2014) đã giải thích tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Phi trong giai đoạn 1980 –

2009. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bảo

gồm 50 quốc gia ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng

trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chi tiêu chính phủ, dân số, vốn con người, đầu tư

nội địa. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương

pháp ước lượng GMM hệ thống và tìm thấy rằng nhìn chung FDI có tác động tích

cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư ở mức ý nghĩa 10% trong

khoảng thời gian 1980 - 2009. Có nghĩa là, trong suốt thời gian nghiên cứu, các

quốc gia càng thực hiện tốt chính sách thu hút FDI càng có thể thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Nhưng tác giả cũng chỉ ra rằng trước năm 1995, FDI làm cản trở tăng

trưởng kinh tế của các nước ở Châu Phi, kể từ năm 1995, hiệu ứng tích cực của

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế mới xuất hiện.

Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả cũng cho rằng vốn con người không làm ảnh

hưởng đáng kể đến hiệu ứng của FDI đến tăng trưởng kinh tế.

Iamsiraroj (2016) đã xem xét quan hệ giữa FDI đến tăng trưởng kinh tế của

Tunisia trong giai đoạn 1971 – 2010. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu

nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 124 quốc gia đã phát triển và đang phát

triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem

như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm FDI, lực lượng lao động, vốn

20

con người, đầu tư nội địa, độ mở thương mại, chi tiêu chính phủ, lạm phát, cơ sở hạ

tầng, tỷ giá hối đoái, lãi suất thực, chất lượng thể chế và chỉ số độ tự do kinh tế.

Tiếp đó, nghiên cứu đã thực hiện hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước

lượng OLS và tìm thấy rằng FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia nhận đầu tư ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng, các quốc

gia càng thực hiện tốt chính sách thu hút FDI sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

của các quốc gia. Hơn thế nữa, đầu tư nội địa, độ mở thương mại, chỉ số tự do kinh

tế có tương quan dương với tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Ngược lại, chi

tiêu chính phủ, lạm phát có mối tương quan âm với tăng trưởng kinh tế ở mức ý

nghĩa 10%. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cho thấy rằng lực lượng lao động, độ mở

thương mại và chỉ số tự do kinh tế là các yếu tố then chốt trong việc thu hút dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó cải thiện tăng trưởng kinh tế của quốc gia

nhận được đầu tư.

2.2.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài và tăng trƣởng kinh tế

Một số nhà nghiên cứu trước đây đã cho rằng dòng vốn viện trợ phát triển

chính thức ODA có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia nhận

viện trợ (Morrisey, 2001; Ekanayake Chatrna, 2008; Fatima, 2014). Tuy nhiên, các

kết quả thực nghiệm tìm thấy đối với mối quan hệ giữa dòng vốn viện trợ nước

ngoài và tăng trưởng kinh tế chưa thật sự nhất quán.

Papanek (1973) thực hiện phân tích tác động của các nguồn vốn đến tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia trên thế giới trong những năm đầu 1950 và 1960. Cụ

thể, tác giả đã xem xét mẫu nghiên cứu gồm 34 quốc gia trong những năm đầu 1950

và 51 quốc gia trong những năm đầu 1960. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác

giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao

gồm viện trợ nước ngoài, dòng vốn đầu tư nước ngoài và các dòng vốn khác, và tiết

kiệm trong nước. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi

phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS cổ điển và tìm thấy rằng viên trợ nước

ngoài có tác động tích cực và mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có

21

trong mẫu nghiên cứu hơn so với các biến khác trong mô hình nghiên cứu. Điều này

cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài có thể giúp quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế tốt hơn so với việc sử dụng các chính sách thu hút vốn đầu tư nước

ngoài cũng như tăng cường tiết kiệm nội địa. Tác giả lập luận cho phát hiện này như

là viện trợ nước ngoài không giống như tiết kiệm nội địa, viện trợ nước ngoài có thể

lắp đầy lỗ hỏng tỷ giá cũng như lỗ hỏng tiết kiệm. Hơn thế nữa, không như dòng

vốn đầu tư nước ngoài và các dòng vốn ngoại khác, viện trợ nước ngoài có thể được

xem là một công cụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.

Fayissa và El – Kaissy (1999) tiến hành phân tích tác động của viện trợ nước

ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1971

– 1990. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 77 quốc gia

đang phát triển và phân tách giai đoạn nghiên cứu thành các giai đoạn nghiên cứu

khác nhau bao gồm: (1) từ 1971 – 1980, (2), 1981 – 1990 và (3) từ 1971 – 1990.

Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là

biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tiết kiệm nội địa,

vốn con người và xuất khẩu. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình

nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng OLS cổ điển và tìm thấy rằng viên trợ nước

ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa thống kê 10%.

Điều này cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài có thể giúp quốc gia nhận viện trợ thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các yếu tố khác được các tác giả thêm vào mô

hình nghiên cứu cũng cho thấy tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể,

tiết kiệm nội địa, vốn con người và xuất khẩu đều có thể cải thiện tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu của các tác giả.

Burnside và Dollar (2000) đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu

tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có thu nhập trung bình và

thấp trên thế giới trong hai giai đoạn 1970 – 1973 và 1990 – 1993. Cụ thể, nghiên

cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 56 quốc gia đang phát triển có thu

nhập trung bình và thấp trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với

tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm

22

viện trợ nước ngoài, chất lượng thể chế, cung tiền M2, chi tiêu chính phủ, thặng dư

ngân sách, lạm phát, độ mở thương mại. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy

mô hình nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS cổ điển và tìm

thấy rằng viện trợ nước ngoài chỉ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia có các chính sách phù hợp và ổn định ở mức ý nghĩa thống kê 10%.

Theo đó, viện trợ nước ngoài sẽ có lợi cho các quốc gia có các chính sách phù hợp

và ổn định bằng việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Tuy nhiên,

nghiên cứu cũng tiết lộ rằng không tồn tại bằng chứng thực nghiệm đối với việc

viện trợ nước ngoài có thể khuyến khích các quốc gia áp dụng các chính sách phù

hợp và ổn định, do đó, cũng có thể thấy rằng nguồn viện trợ nước ngoài trở nên lãng

phí đối với các quốc gia không áp dụng các chính sách phù hợp và ổn định.

Hansen và Tarp (2001) tiến hành đánh giá tác động của nguồn vốn viện trợ

nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới ở hai giai đoạn

1974 – 1977 và 1990 - 1993. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu

bao gồm 56 quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình và thấp trên thế giới.

Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là

biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, chất lượng thể chế,

thặng dư ngân sách, lạm phát, độ mở thương mại, độ sâu tài chính. Sau đó, nghiên

cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng GMM và

tìm thấy bằng chứng thực nghiệm trái ngược với phát hiện mà Burnside và Dollar

(2000) đã tìm thấy trước đó. Theo đó, các tác giả cho rằng viện trợ nước ngoài có

tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa thống kê

10% mà không phụ thuộc vào chất lượng chính sách của các quốc gia đang áp dụng.

Cụ thể, nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa dòng vốn viện trợ

nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, biến tương tác giữa viện trợ nước

ngoài và hiệu quả chính sách lại không có ý nghĩa thống kê.

Duc (2006) thực hiện nghiên cứu nhằm giải thích ảnh hưởng của dòng vốn

viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển từ năm

1975 đến năm 2000. Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 39 quốc gia

23

đang phát triển trên thế giới sau khi loại trừ các quốc gia không có sẵn số liệu trong

tổng số 119 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả

được hình thành dựa trên lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh được phát triển bởi

Barro (1991) với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến

độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tiết kiệm nội địa, FDI, độ mở thương mại, dân

số, và vốn con người. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu

bởi phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng viện trợ nước ngoài có tác động

tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý

nghĩa thống kê 10%. Cho thấy rằng, dòng vốn viện trợ nước ngoài gây cản trở tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Kết quả này được tác giả lập luận rằng, ở những

nước mà môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử

dụng để tài trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư

nhân để kích thích tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, viện trợ nước ngoài có thể liên

quan đến sự gia tăng tham nhũng của quốc gia nhận đầu tư (Svensson, 1998). Viện

trợ nước ngoài làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong

và Zou, 2001). Ngoài ra, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên

quan đến xuất khẩu hàng hóa, viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản

thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các

điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và

Obsfeld, 2003).

Karras (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa dòng vốn viện trợ nước ngoài và

tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi GDP trên đầu người với dữ liệu từ năm 1970

đến năm 1997. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 71 quốc gia đang

phát triển trên thế giới được thu thập từ Penn World Table. Đồng thời, mô hình

nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và

các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tốc độ tăng dân số, mức độ đầu tư,

chi tiêu chính phủ. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi

phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng viện trợ nước ngoài được đại diện

bởi ODA/GDP và ODA/dân số đều có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở

24

mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thẩy rằng, các quốc gia càng nhận nhiều viện trợ

nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đồng thời, nghiên

cứu này cũng cho thấy rằng tác động tích cực này không phụ thuộc vào hiệu quả

chính sách của các quốc gia đang áp dụng.

Feeny và McGillivray (2008) phân tích mối quan hệ giữa viện trợ nước ngoài

và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới từ năm 1977 đến năm 2001.

Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 113 quốc gia đã và đang phát

triển trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh

tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước

ngoài, chất lượng thể chế, cung tiền M2, thu nhập quốc gia. Sau đó, nghiên cứu đã

tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng GMM và tìm

thấy bằng chứng thực nghiệm tương tự với phát hiện mà Hansen và Tarp (2001) đã

tìm thấy trước đó. Theo đó, các tác giả cho rằng viện trợ nước ngoài có tác động

đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa thống kê 10% mà

không liên quan đến hiệu quả chính sách của các quốc gia đang áp dụng. Cụ thể,

nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa dòng vốn viện trợ nước

ngoài và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại cho rằng khả năng viện

trợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia phụ thuộc vào khả

năng hấp thụ của các quốc gia nhận viện trợ. Theo đó, các tác giả lập luận rằng khả

năng hấp thụ các nguồn vốn bên ngoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố chẳng hạn như

cơ sở hạ tầng hiện có của quốc gia nhận viện trợ, lực lượng lao động có tay nghề

cao và năng lực thể chế và hành chính của quốc gia và địa phương của quốc gia

nhận viện trợ. Đồng thời, nguồn vốn viện trợ nước ngoài quá nhiều thì sẽ làm gia

tăng các vấn đề có liên quan đến việc hấp thụ nguồn vốn và do đó gây phản tác

dụng.

Asteriou (2009) phân tích mối quan hệ dài hạn giữa dòng vốn viện trợ nước

ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở khu vực Nam Á trong giai đoạn

1975 – 2002. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 05 quốc

gia đang phát triển ở Nam Á bao gồm Bangladesh, Nepal, Ấn Độ, Sri Lanka,

25

Pakistan. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được

xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, đầu tư

nội địa, tỷ lệ khấu hao của vốn. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình

nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng PMG và MG, qua đó tác giả tìm thấy rằng

viện trợ nước ngoài có mối quan hệ dài hạn với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả rút ra, trong dài hạn, các quốc

gia càng nhận được nhiều viện trợ nước ngoài càng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia.

Amassoma (2014) tiến hành phân tích ảnh hưởng của ODA đến tăng trưởng

kinh tế của Nigeira trong giai đoạn 1981 – 2012. Nghiên cứu này thu thập số liệu

chuỗi thời gian từ Penn World Data, Ngân hàng Thế giới. Trong đó, mô hình nghiên

cứu của các tác giả sử dụng biến tăng trưởng kinh tế làm biến phụ thuộc và các biến

độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, đầu tư nội địa, xuất khẩu và nhập khẩu. Sau

khi thực hiện kiểm định tính dừng bởi ADF và Philips – Perron, và tiến hành hồi

quy mô hình Vector hiệu chỉnh sai số VECM, thì nghiên cứu tìm thấy dòng vốn

viện trợ và tăng trưởng kinh tế tồn tại mối quan hệ ngược chiều trong dài hạn. Điều

này cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia nhận đầu tư. Hơn thế nữa, các tác giả lập luận mối quan hệ ngược chiều

này như là kết quả của vấn đề tham nhũng của quốc gia tiếp nhận đầu tư gia tăng

(khi viện trợ nước ngoài không được sử dụng như mong muốn ban đầu của quốc gia

viện trợ).

Tang và Bundhoo (2017) nghiên cứu thực nghiệm nhằm hiểu rõ tác động của

dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Phi

thời kỳ 1990 – 2012. Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 10 quốc gia

đang phát triển ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng

trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện

trợ nước ngoài, đầu tư nội địa, lực lượng lao động, cung tiền M2, lạm phát, chi tiêu

chính phủ, độ mở thương mại. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình

nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng bản thân viện trợ

26

nước ngoài không có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%.

Nhưng khi kết hợp với biến chính sách hoặc chất lượng thể chế thì biến tương tác

giữa viện trợ và hiệu quả chính sách lại có tác động cùng chiều đến tăng trưởng

kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy, các nước nhận viện trợ khi thực thi

các chính sách phù hợp và ổn định hoặc có chất lượng thể chế tốt thì dòng vốn viện

trợ nước ngoài càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

này. Từ đây, đã phần nào hiểu được tại sao dòng vốn viện trợ không thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia ở Châu Phi bởi vì các quốc gia này có cơ chế quản trị

yếu kém.

Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan

Bài nghiên cứu Mẫu nghiên cứu Phƣơng pháp Kết quả nghiên cứu

hồi quy

Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

Borensztein và các 69 quốc gia đang OLS Hiệu ứng tích cực của dòng vốn

cộng sự (1998) phát triển trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đến

giai đoạn 1970 – tăng trưởng kinh tế chỉ được tìm

1989 thấy ở những quốc gia nhận đầu

tư có đủ vốn con người.

De Mello (1999) 32 quốc gia thuộc OLS FDI chỉ có tác động đáng kể

đến tăng trưởng kinh tế của các OECD và không

quốc gia thuộc OECD. thuộc OECD trong

giai đoạn 1970 –

1999

Benoga và 19 quốc gia ở Mỹ OLS Các quốc gia thu hút dòng vốn

Sanchez - Robles Latinh trong giai đầu tư trực tiếp nước ngoài càng

(2003) đoạn 1970 – 1999 nhiều càng thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia sở tại.

Makki và 66 quốc gia đang Phương pháp Chính sách thu hút dòng vốn

27

Somwaru (2004) phát triển trong hồi quy đầu tư trực tiếp nước ngoài có

giai đoạn 1971 - dường như thể giúp quốc gia cải thiện tăng

2001 không liên trưởng kinh tế.

quan (SUR) Các quốc gia sở tại sẽ nhận

và phương được nhiều lợi ích hơn từ dòng

pháp hồi quy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

ba bước nếu độ mở thương mại quốc gia

(3SLS) tương đối lớn.

Chowdhury và Chile, Malaysia, Phương pháp Ở Malaysia và Thái Lan, nghiên

Mavrotas (2005) và Thái Lan trong kiểm định cứu tìm thấy rằng cả FDI và

giai đoạn 1969 – nhân quả của tăng trưởng kinh tế đều cho thấy

2000 Toda – mối quan hệ nhân quả với nhau.

Yamamoto

Li và Liu (2005) 84 quốc gia đã và OLS FDI sẽ có tác động tích cực đến

đang phát triển tăng trưởng kinh tế thông qua

trên thế giới từ vốn con người.

năm 1970 đến FDI sẽ có tác động tiêu cực đến

năm 1999 tăng trưởng kinh tế ở những

quốc gia sở tại tồn tại lỗ hỏng

công nghệ nhiều với quốc gia

của các nhà đầu tư.

Seetanah và 39 quốc gia đang OLS và Chính sách thu hút FDI có thể

Khadaroo (2007) phát triển ở Châu GMM giúp quốc gia thúc đẩy tăng

Phi từ năm 1980 trưởng kinh tế.

đến năm 2000 Hiệu ứng tích cực của dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài

dường như yếu hơn so với các

loại hình đầu tư khác.

Herzer (2010) 44 quốc gia đang Phương pháp Chính sách thu hút FDI có thể

28

phát triển từ năm kỹ thuật đồng gây ra suy giảm tăng trưởng

1970 đến năm liên kết kinh tế cho các quốc gia.

2005 FDI sẽ có tác động tích cực đến

tăng trưởng kinh tế khi quốc gia

sở tại có sự can thiệp chính phủ

cao và độ tự do kinh doanh cao.

Hansen và Anis Tunisia trong giai VECM Trong dài hạn, dòng vốn đầu tư

(2012) đoạn 1975 – 2009 trực tiếp nước ngoài có thể thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế của

Tunisia.

Hiệu ứng tích cực của dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài đến

tăng trưởng kinh tế sẽ mạnh mẽ

hơn khi vốn con người và sự

phát triển tài chính của Tunisia

có sự gia tăng.

Gui-Diby (2014) 50 quốc gia ở GMM Các quốc gia càng thực thi tốt

chính sách thu hút FDI càng có Châu Phi trong

thể thúc đẩy tăng trưởng kinh giai đoạn 1980 –

tế. 2009

Vốn con người không làm ảnh

hưởng đáng kể đến hiệu ứng

của dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đến tăng trưởng

kinh tế.

Iamsiraroj (2016) Tunisia trong giai OLS Các quốc gia càng thực thi tốt

đoạn 1971 – 2010 chính sách thu hút FDI sẽ càng

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia.

29

Dòng viện trợ nƣớc ngoài

Papanek (1973) 34 quốc gia trong OLS Viện trợ nước ngoài có thể giúp

những năm đầu quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy

1950 và 51 quốc tăng trưởng kinh tế tốt hơn việc

gia trong những sử dụng các chính sách thu hút

năm đầu 1960 vốn đầu tư nước ngoài cũng như

tăng cường tiết kiệm nội địa.

Fayissa và El – 77 quốc gia đang OLS Viện trợ nước ngoài có thể giúp

Kaissy (1999) phát triển trong quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy

giai đoạn 1971 – tăng trưởng kinh tế.

1990

Burnside và 56 quốc gia đang OLS Viện trợ nước ngoài sẽ có lợi

Dollar (2000) phát triển có thu cho các quốc gia có các chính

sách phù hợp và ổn định bằng nhập trung bình và

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh thấp trong hai giai

tế của các quốc gia này. đoạn 1970 – 1973

và 1990 – 1993

Hansen và Tarp 56 quốc gia đang GMM ODA có tác động đáng kể đến

(2001) phát triển có thu tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia mà không liên quan nhập trung bình và

đến hiệu quả chính sách của các thấp ở hai giai

quốc gia đang áp dụng. đoạn 1974 – 1977

và 1990 – 1993

Duc (2006) 39 quốc gia đang OLS ODA gây cản trở tăng trưởng

kinh tế ở các quốc gia này. phát triển từ năm

1975 đến năm

2000

Karras (2006) 71 quốc gia đang OLS Các quốc gia càng nhận nhiều

phát triển từ 1970 viện trợ nước ngoài có thể thúc

30

– 1997 đẩy tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia.

Feeny và 113 quốc gia đang GMM Viện trợ nước ngoài có tác động

McGillivray phát triển và đã đáng kể đến tăng trưởng kinh tế

(2008) phát triển trong của các quốc gia mà không liên

giai đoạn 1977 – quan đến hiệu quả chính sách

2001 của các quốc gia đang áp dụng.

Khả năng viện trợ nước ngoài

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia phụ thuộc khả

năng hấp thụ của các quốc gia

nhận viện trợ.

Asteriou (2009) 05 quốc gia đang PMG và MG Trong dài hạn, các quốc gia

phát triển ở Nam càng nhận được nhiều viện trợ

Á từ năm 1975 nước ngoài càng có thể thúc đẩy

đến năm 2002 tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia.

Amassoma (2014) Nigeira trong giai VECM Viện trợ nước ngoài sẽ làm cản

đoạn 1981 – 2012 trở tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia tiếp nhận đầu tư.

Tang và Bundhoo 10 quốc gia đang OLS Các quốc gia nhận viện trợ nếu

(2017) phát triển ở Châu thực hiện các chính sách phù

Phi thời kỳ 1990 – hợp và ổn định hoặc có chất

2012 lượng thể chế tốt thì dòng vốn

viện trợ nước ngoài càng tăng

thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế ở các quốc gia này.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

31

CHƢƠNG 3.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương này trình bày cách thức trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đã nêu ở

phần trên. Phương pháp chung để thực hiện nghiên cứu là phương pháp định lượng

và quy trình nghiên cứu tổng quát cụ thể như sau: (1) Quy trình chọn mẫu và thu

thập dữ liệu, (2) Mô hình nghiên cứu, (3) Kỳ vọng dấu và (4) Phương pháp hồi quy.

3.1. Quy trình chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu

Dựa trên các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu luận văn đã đề cập

trong chương 01, luận văn thực hiện thu thập số liệu của các quốc gia đang phát

triển Châu Á trong giai đoạn 1990 – 2016 dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới của

Ngân hàng Thế giới (World Bank). Nhưng do trong giai đoạn 1990 – 2016, xảy ra

cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 – 1998, nên luận văn quyết định nghiên

cứu mẫu số liệu từ năm 2000 đến năm 2016 để loại trừ các ảnh hưởng của cuộc

khủng hoảng tài chính Châu Á đối với các quốc gia đang phát triển ở Châu Á.

Hơn thế nữa, trong quá trình thu thập số liệu, luận văn thấy rằng có một số

quốc gia không có sẵn dữ liệu liên tục từ năm 2000 – 2016, do đó, luận văn loại trừ

các quốc gia này ra khỏi mẫu nghiên cứu để có thể thu được mẫu nghiên cứu dữ liệu

dạng bảng cân đối (Balanced Panel data). Mẫu nghiên cứu cuối cùng luận văn thu

được gồm 32 quốc gia đang phát triển Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016. Chi tiết

danh sách các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu được luận văn trình bày trong phụ

lục 01 của luận văn.

3.2. Mô hình nghiên cứu

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu mà luận văn đã đề

cập, luận văn tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu sau dựa trên phương pháp tiếp

cận của các nghiên cứu có liên quan trước đây khi phân tích tác động của dòng vốn

nước ngoài, bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ

32

nước ngoài, đến tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia như Alguacil và các cộng sự

(2011), Chorn và Siek (2017). Cụ thể mô hình hồi quy được thể hiện như sau:

GROWTHit = α0 + α1*GROWTHit-1 + α2*FDIit + α3*AIDit + α4*INFit +

α5*SAVit + α6*INVit + α7*TRADEit + α8*GOVEXPit + α9*POPGRit + ɛit (1)

GROWTHit là tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi: (1) phần trăm thay đổi

trong GDP ở năm t so với năm t – 1 (GDPGR) và (2) phần trăm thay đổi trong GDP

trên đầu người ở năm t và năm t – 1 (GDPPCGR).

GROWTHit-1 là tăng trưởng kinh tế ở năm trước.

FDIit là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tính bởi tỷ lệ dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP.

AIDit là nguồn viện trợ nước ngoài được tính bởi tỷ lệ dòng vốn viện trợ

nước ngoài chính thức trên GDP.

INFit là lạm phát của quốc gia được tính bởi phần trăm thay đổi trong chỉ số

giá tiêu dùng của quốc gia.

SAVit là mức độ tiết kiệm của quốc gia được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa

trên GDP.

INVit là đầu tư nội địa của quốc gia được đo lường bởi tỷ lệ đầu tư nội địa

trên GDP.

TRADEit là độ mở cửa thương mại của quốc gia được tính bởi tỷ lệ tổng xuất

nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP.

GOVEXPit là chi tiêu chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên

GDP.

POPGRit là tốc độ tăng dân số được tính bởi phần trăm thay đổi trong dân số

ở năm t so với năm t – 1 .

ɛit là sai số mô hình.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

33

3.3. Mô tả biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu

Bảng 3.1. Mô tả biến

Biến Ký hiệu Mô tả Nguồn

Biến phụ thuộc

Tốc độ tăng trưởng Phần trăm thay đổi trong GDPGR World Bank GDP ở năm t và năm t – 1 GDP

Phần trăm thay đổi trong Tốc độ tăng trưởng GDPPCGR GDP trên đầu người ở năm World Bank GDP trên đầu người t và năm t – 1

Biến độc lập

Dòng vốn đầu tư trực Tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực FDI World Bank tiếp nước ngoài tiếp nước ngoài trên GDP

Dòng vốn viện trợ Tỷ lệ dòng vốn viện trợ AID World Bank nước ngoài nước ngoài trên GDP

Phần trăm thay đổi trong

Lạm phát INF chỉ số giá tiêu dùng ở năm World Bank

t và năm t – 1

Tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên Tiết kiệm nội địa SAV World Bank GDP

Tỷ lệ đầu tư nội địa trên Đầu tư nội địa INV World Bank GDP

Tổng xuất khẩu và nhập Độ mở cửa thương TRADE khẩu của quốc gia trên WorldBank mại GDP

Tỷ lệ chi tiêu chính phủ Chi tiêu chính phủ GOVEXP World Bank trên GDP

34

Phần trăm thay đổi trong

Tăng trưởng dân số POPGR tổng dân số ở năm t và World Bank

năm t – 1

3.3.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

Luận văn sử dụng dữ liệu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng (net

FDI inflows) của World Bank. Theo IMF, dòng vốn FDI vào ròng được xem như là

dòng vốn đầu tư dài hạn của một cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài, trực tiếp tham

gia quản lý, điều hành hoạt động (phải chiếm ít nhất 10% cổ phần có quyền biểu

quyết) của một doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế không phải quốc gia

của nhà đầu tư đang kinh doanh. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

thường bao gồm tổng của vốn đầu tư ban đầu cộng với lợi nhuận tái đầu tư và các

khoản nợ nội bộ trên cán cân thanh toán.

FDI là một trong các dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể đến tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia. Theo đó, có rất nhiều cách mà dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở cả góc

độ lý thuyết lẫn thực nghiệm. Cụ thể, ở góc độ lý thuyết, mô hình tăng trưởng kinh

tế tân cổ điển, hay còn được gọi là mô hình tăng trưởng kinh tế ngoại sinh, được đề

xuất bởi Solow (1956) đã cho rằng FDI có thể góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh

tế bằng cách gia tăng vốn khả dụng của quốc gia. Bởi vì một sự gia tăng trong vốn

khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng, và kết quả là sẽ làm gia tăng

tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Tương tự vậy, mô hình tăng trưởng kinh tế

nội sinh được đề xuất bởi Romer (1986) cũng cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài sẽ giúp quốc gia nhận đầu tư cải thiện tăng trưởng kinh tế nhờ vào hiệu

ứng lan tỏa công nghệ. Khi quốc gia nhận dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì

sẽ gián tiếp tiếp thu các kiến thức, công nghệ cao từ các quốc gia đã phát triển. Do

đó, sẽ có thể gia tăng năng suất sản xuất, sản lượng cao hơn và thúc đẩy tăng trưởng

trong dài hạn. Hiệu ứng tích cực này nhận được nhiều sự ủng hộ của các nghiên cứu

trước đây khi cung cấp các phát hiện cho thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

35

ngoài sẽ giúp các quốc gia nhận đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nghiên

cứu như Borensztein và các cộng sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez -

Robles (2003), Makki và Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen

và Anis (2012), Gui-Diby (2014) và Iamsiraroj (2016).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng

rằng hệ số hồi quy của biến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mang dấu

dương ở các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư.

3.3.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài

Dòng vốn viện trợ nước ngoài bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại,

viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính

phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hiệp quốc, các tổ

chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang phát triển.

Tương tự như dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng vốn viện trợ nước

ngoài cũng là một trong các dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể đến tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia. Theo đó, có rất nhiều cách mà dòng vốn viện trợ

nước ngoài có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở cả góc độ

lý thuyết lẫn thực nghiệm. Cụ thể, ở góc độ lý thuyết, mô hình tăng trưởng tân cổ

điển, hay còn được gọi là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, được đề xuất bởi Solow

(1956) đã cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế bằng cách gia tăng vốn khả dụng của quốc gia. Bởi vì một sự gia

tăng trong vốn khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng, và kết quả là sẽ

làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Hiệu ứng tích cực này nhận

được nhiều sự ủng hộ của các nghiên cứu trước đây khi cung cấp các phát hiện cho

thấy rằng dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể giúp các quốc gia tiếp nhận đầu tư

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu bao gồm Papanek (1973), Fayissa và

El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008), Asteriou (2009).

36

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng

rằng hệ số hồi quy của biến dòng vốn viện trợ nước ngoài sẽ mang dấu dương ở các

mô hình hồi quy, ngụ ý rằng dòng vốn viện trợ trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư.

3.3.3. Lạm phát

Biến lạm phát được tính bằng phần trăm là tỷ số giữa chỉ số giá tiêu dùng ở

năm t so với chỉ số giá tiêu dùng năm t - 1 chia cho chỉ số giá tiêu dùng năm t - 1.

Lạm phát là một trong các yếu tố quan trọng quyết định tăng trưởng kinh tế

của một quốc gia, trong đó, lạm phát được đo lường bởi phần trăm thay đổi trong

chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia. Điều này được ủng hộ ở cả khía cạnh lý thuyết

lẫn nghiên cứu thực nghiệm, mặc dù chiều hướng tác động của lạm phát đến tăng

trưởng kinh tế thì vẫn chưa nhất quán giữa các lý thuyết và giữa các nghiên cứu

thực nghiệm. Cụ thể, ở khía cạnh lý thuyết, tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau.

Trong khi trường phái cơ cấu (structuralists) cho rằng lạm phát thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế của quốc gia, thì trường phái trọng tiền (monetarists) lại phát biểu rằng lạm

phát cản trở tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Trong đó, trường phái cơ cấu lập luận

rằng sự gia tăng trong chỉ số giá (lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu

vực tư nhân có sự gia tăng đáng kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi

tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, quan điểm này của trường phái cơ cấu đã bị

bác bỏ bởi trường phái trọng tiền, trường phái này cho rằng nguyên nhân gây ra lạm

phát xuất phát từ việc cung tiền gia tăng, điều này sẽ làm gia tăng chi phí trong nền

kinh tế. Khi đó, người dân trong nền kinh tế sẽ hạn chế chi tiêu vì họ cảm giác đồng

tiền đang mất giá, đồng thời, các nhà đầu tư cũng sẽ hạn chế đầu tư vì họ cảm giác

các khoản sinh lời của họ sẽ bị “xói mòn” bởi lạm phát. Hơn thế nữa, chi phí đầu

vào gia tăng sẽ làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt

động kinh doanh. Điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi

37

ro phá sản nếu tình trạng này kéo dài. Dẫn đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia sẽ

sụt giảm đáng kể.

Tương tự vậy, ở khía cạnh bằng chứng thực nghiệm, cũng tồn tại hai quan

điểm trái ngược nhau khi phát biểu về ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh

tế của quốc gia. Cụ thể, một số nghiên cứu thực nghiệm của Tobin (1965), Paul và

các cộng sự (1997), Ghosh và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và

Chowdhury (2001), Rapach (2003), Benhabib và Spiegel (2009) đã tìm thấy mối

quan hệ đồng biến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Ngược

lại, một số kết quả nghiên cứu của Stockman (1981), Fisher (1993), Barro (1996),

Bruno và Easterly (1998), Faia và Carneiro (2001), Valdovinos (2003), Boyd và

Champ (2006), Erbaykal và Okuyan (2008), Gillman và Harris (2010), Tung và

Thanh (2015), Chorn và Siek (2017).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng

hệ số hồi quy của biến lạm phát sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở các mô

hình hồi quy, ngụ ý rằng lạm phát có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.

3.3.4. Tiết kiệm nội địa

Mối quan hệ giữa tiết kiệm nội địa và tăng trưởng kinh tế được các nhà

nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách quan tâm nhiều trong thời gian vừa

qua, trong đó tiết kiệm nội địa thường được xác định bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên

GDP. Theo Solow (1956), tiết kiệm có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế

của quốc gia bởi tiết kiệm càng nhiều có thể làm gia tăng tích lũy vốn trong nền

kinh tế và điều này sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Điều

này cho thấy rằng tiết kiệm nội địa đóng góp trực tiếp vào sự tăng trưởng kinh tế.

Mặc dù các lý thuyết cho rằng tiết kiệm là một trong các yếu tố trọng yếu có

tác động tới tăng trưởng kinh tế, nhưng một số bằng chứng thực nghiệm lại xác định

quan hệ của tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự rõ ràng. Theo Carroll

– Weil (1994), tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động đến mức độ tiết kiệm nội địa,

nhưng tiết kiệm nội địa không tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, một

38

vài nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành bởi Jappelli và Pagano (1994), Sinha và

Sinha (1998), Rodrik (2000), Agrawal (2000), Carroll và các cộng sự (2000),

Anoruo và Ahmad (2001), Verma (2007), và Abu (2010) đã ủng hộ phát hiện của

Carrol và Weill (1994). Nhưng một số nghiên cứu khác lại cho rằng tiết kiệm nội

địa có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế khi mức độ tiết kiệm càng cao

thì sẽ làm gia tăng vốn tích lũy và kết quả là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia. Các nghiên cứu này bao gồm Harrod (1939), Domar (1946), Lewis

(1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo (1991), Levine và

Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995), Alguacil và các cộng

sự (2004), Odhiambo (2009).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng

hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa sẽ mang dấu dương ở các mô hình hồi quy,

ngụ ý rằng tiết kiệm nội địa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.

3.3.5. Đầu tƣ nội địa

Đầu tư nội địa là một trong các yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển

kinh tế của quốc gia và đây là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế của

nền kinh tế (Bakari, 2017), trong đó, đầu tư nội địa thường được đo lường bởi tỷ lệ

đầu tư nội địa trên GDP. Có thể thấy rằng, đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi

tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng

chẳng hạn như đường, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và nhà

ở, mở rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực

giáo dục, y tế và truyền thông cũng như các dự án liên quan đến các hoạt động thộc

lĩnh vực kinh tế (Bakari, 2017). Từ đó, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Hơn thế nữa, cả mô hình tăng trưởng tân cổ điển và mô hình tăng trưởng nội sinh

đều đề cập vai trò quan trọng của đầu tư nội địa trong quá trình tăng trưởng kinh tế

của quốc gia. Các nghiên cứu ủng hộ cho tầm quan trọng của đầu tư nội địa bao

gồm Kormendi và Meguire (1985), Romer (1986), Lucas (1988), Grier và Tullock

(1989), Barro (1991), Levine và Renelt (1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng

39

sự (1992), Fischer (1993), Barro và Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang

và các cộng sự (2008), Adams (2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner

(2014), Emmanuel và Kehinde (2018) khi tìm thấy bằng chứng cho thấy đầu tư nội

địa sẽ giúp quốc gia thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng

rằng hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa sẽ mang dấu dương ở các mô hình hồi

quy, ngụ ý rằng đầu tư nội địa sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận

đầu tư.

3.3.6. Độ mở thƣơng mại

Độ mở thương mại thường được xác định bởi tổng giá trị xuất khẩu và nhập

khẩu trên GDP của các quốc gia. Độ mở thương mại thường được sử dụng trong các

nghiên cứu phân tích tăng trưởng kinh tế với vai trò như một yếu tố đại diện cho

việc giao thương quốc tế của các quốc gia. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng do độ mở

thương mại được tính bởi giá trị xuất khẩu và nhập khẩu, mà trong công thức tính

GDP của quốc gia thì khi xuất khẩu tăng nhiều hơn so với nhập khẩu thì GDP của

quốc gia sẽ gia tăng, hàm ý sự tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Cho nên tác động

của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự nhất quán. Cụ thể,

sự gia tăng trong độ mở thương mại có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận

hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng

hóa sản phẩm hơn (Ahmed và Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn.

Hơn thế nữa, xuất khẩu quốc gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của

nền kinh tế, trong khi càng nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí

sản xuất. Do đó, độ mở cửa thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Mặt khác, theo lý thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp

quốc gia sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng

hóa và dịch vụ không quá tốn kém để có thể sản xuất trong nước. Một số nghiên

cứu thực nghiệm cũng đã tìm thấy các bằng chứng cho thấy rằng các quốc gia có độ

mở cửa thương mại càng lớn sẽ có tăng trưởng kinh tế càng cao chẳng hạn như

40

Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro (1995), Ben – David và

Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004), Lee (2004), Ahmed và

Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger (2012), Dava (2012),

Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng sự (2015), Keho

(2017).

Tuy nhiên, một số quan điểm khác lại cho rằng độ mở thương mại sẽ làm cản

trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Cụ thể, các quốc gia càng có độ mở thương

mại càng cao thì sẽ càng phụ thuộc nhiều vào nhu cầu quốc tế và khi các quốc gia

đối tác có sự biến động đáng kể trong nền kinh tế sẽ gây ra các bất lợi cho quốc gia

này, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển (Alessandro, 2004). Hơn thế nữa, độ

mở thương mại có thể làm gia tăng lạm phát, gây bất lợi cho đồng nội tệ, và làm

cho quốc gia mất cân đối trong cán cân thanh toán (Rodrik, 1992). Bên cạnh đó, để

có thể gia tăng xuất khẩu và nhập khẩu, các quốc gia thường áp dụng các chính sách

ưu đãi cho đối tác. Trong đó, việc áp dụng các mức thuế thấp và hàng nhập khẩu sẽ

trở nên hấp dẫn hơn so với hàng hóa trong nước (Batra và Slottje, 1993; Leamer,

1995). Kết quả là làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Một số nghiên cứu

thực nghiệm cũng đã tìm thấy các phát hiện thấy độ mở cửa thương mại không thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế bao gồm Vamvakidis (2002), Olfemi (2004), Kim (2011),

Hye và Lau (2012), Trejos và Barboza (2015), Musila và Yiheyis (2015), Moyo và

Khobai (2018).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng

hệ số hồi quy của biến độ mở thương mại sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở

các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng độ mở thương mại có tác động đáng kể đến tăng

trưởng kinh tế.

3.3.7. Chi tiêu chính phủ

Chi tiêu chính phủ đóng vai trò quan trọng trong các lý thuyết xác định tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia (Ahmad và Othman, 2014). Tuy nhiên tác động của

chi tiêu chính phủ tới tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì chưa thật sự rõ ràng.

41

Tồn tại hai quan điểm liên quan đến vai trò của chi tiêu chính phủ đối với nền kinh

tế. Quan điểm đầu tiên cho rằng chi tiêu chính phủ đóng vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quan điểm này lập luận rằng sự góp mặt của

chính phủ trong nền kinh tế sẽ giúp nền kinh tế hiệu chỉnh các biến động chu kỳ của

tổng chi tiêu của nền kinh tế trong ngắn hạn cũng như cung cấp cơ sở hạ tầng để

cho khu vực tư nhân đầu tư nhiều hơn (Ahmad và Othman, 2014). Nói cách khác,

sự góp mặt của chính phủ sẽ tạo ra ảnh hưởng tích cực đến năng suất và tăng trưởng

kinh tế. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho

quan điểm này. Các nghiên cứu này bao gồm Ram (1986), Barro (1990), Lee

(1992), Ghura (1995), Devarajan và các cộng sự (1996), Kneller và các cộng sự

(1999), Yasin (2000), Olorunfemi (2008), Alexiou (2009), Wahab (2011), Attari và

Javed (2013), Alshahrani và Alsadiq (2014).

Tuy nhiên, quan điểm ngược lại cho rằng chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở

tăng trương kinh tế của các quốc gia. Quan điểm này lập luận rằng, khi chính phủ

thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn

như chi phí khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral

subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của

quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan

điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng

kinh tế của quốc gia. Các nghiên cứu này bao gồm Conte và Darr (1988), Grier và

Tullock (1989), Alexander (1990), Carlstrom và Gokhale (1991), Engen và Skinner

(1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson (2001), Mitchell (2005),

Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011), Butkiewicz và Yanikkaya

(2011).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng

hệ số hồi quy của biến chi tiêu chính phủ sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở

các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng chi tiêu chính phủ có tác động đáng kể đến tăng

trưởng kinh tế.

42

3.3.8. Tăng trƣởng dân số

Tốc độ tăng trưởng dân số được xem như là một thành phần tương đối quan

trọng khi xác định tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong thời gian gần đây,

trong đó, tốc độ tăng trưởng dân số được đo lường bởi phần trăm thay đổi trong

tổng dân số của quốc gia. Baker và các cộng sự (2005) đã cho rằng tốc độ tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia có mức thu nhập cao trong thời gian gần đây đang

chậm lại do tốc độ tăng trưởng dân số ở các quốc gia này được dự báo có xu hướng

suy giảm. Cho nên, có thể thấy rằng, tốc độ tăng trưởng dân số có ảnh hưởng đáng

kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, tác động như thế nào thì

vẫn đang được các nhà nghiên cứu tranh luận trong thời gian qua. Cụ thể, ở góc độ

lý thuyết, mô hình tăng trưởng tân cổ điển được đề xuất bởi Solow (1956) đã kỳ

vọng rằng tốc độ tăng trưởng dân số và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ

ngược chiều với nhau. Mô hình tăng trưởng tân cổ điển còn hay được biết đến như

là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, khi đó hai yếu tố chính của mô hình này là tiết

kiệm (dẫn đến sự gia tăng vốn của nền kinh tế) và dân số (đại diện cho lực lượng

lao động của quốc gia) được xem như là ngoại sinh với nhau. Có thể thấy rằng, tốc

độ tăng trưởng dân số càng nhanh thì sẽ làm giảm lượng vốn trên mỗi công nhân và

từ đó làm cản trở tăng trưởng kinh tế (Bucci, 2015). Các nghiên cứu thực nghiệm

ủng hộ quan điểm của mô hình tăng trưởng tân cổ điên bao gồm Brander và

Dowrick (1994), Reed và Gill (1997), Kellye và Schmidt (2001), Barro và Sala – I –

Martin (2004), Onwuka (2006), Bucci (2008), Afzal (2009), Banerjee (2012), Dao

(2012), Huang và Xie (2013), Yao và các cộng sự (2013), Mierau và Turnovsky

(2014).

Trái ngược với kỳ vọng của mô hình tăng trưởng ngoại sinh, mô hình tăng

trưởng nội sinh cho rằng tốc độ tăng trưởng dân số sẽ có ảnh hưởng tích cực đến

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng tốc độ

tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc gia có được nhiều nguồn tri thức càng

nhiều, nói cách khác vốn con người của quốc gia gia tăng. Mà vốn con người và

dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn chặn sự suy giảm vốn tích lũy như điều

43

mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập. Kết quả là quốc gia vẫn tăng trưởng kinh

tế. Quan điểm này đã được ủng hộ từ các nghiên cứu trước đây bao gồm Kuznets

(1967), Kelley (1988), Kelley và McGreevy (1994), Bloom và Canning (2004),

Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner và các cộng sự (2014), Sethy và Sahoo

(2015), Tumwebaze và Ijjo (2015).

Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng

hệ số hồi quy của biến tăng trưởng dân số sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở

các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng tăng trưởng dân số có tác động đáng kể đến tăng

trưởng kinh tế.

3.4. Phƣơng pháp hồi quy

Dựa trên phương pháp ước lượng mà Chorn và Siek (2017) đã áp dụng khi

nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, phương

pháp hồi quy OLS được khuyến nghị để sử dụng trong luận văn. Tuy nhiên, phương

pháp hồi quy OLS yêu cầu phải thỏa một số giả định khi hồi quy. Cụ thể các giả

định này là:

 Mối tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc là tuyến tính.

 Không có đa cộng tuyến.

 Không có phương sai thay đổi.

 Không có tự tương quan.

 Không có nội sinh.

Khi mà một trong các giả định này bị vi phạm thì phương pháp hồi quy OLS

sẽ không được sử dụng vì kết quả có được từ phương pháp này có thể bị giả mạo.

Cụ thể, do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu,

cho nên sẽ có thể tồn tại vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu của luận văn như

đề nghị của các nghiên cứu trước đây (Alguacil và các cộng sự, 2011). Hơn thế nữa,

ngoài việc dòng vốn nước ngoài có tác động đến tăng trưởng kinh tế thì tăng trưởng

kinh tế cũng có khả năng tác động đến dòng vốn nước ngoài. Chẳng hạn như dòng

44

vốn nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dòng vốn nước ngoài có thể

được thu hút bởi một sự tăng trưởng kinh tế cao (Nair – Rechert và Weinhold, 2001;

Herzer và Klasen, 2008; Kose và các cộng sự, 2008). Trong trường hợp này, vấn đề

nội sinh giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh tế đã tồn tại.

Để giải quyết vấn đề nội sinh này, các tài liệu trước đây đã đề cử hai phương

pháp có thể sử dụng. Theo đó, phương pháp hồi quy hai bước (2SLS) và phương

pháp hồi quy GMM thường được thực hiện trong các nghiên cứu trước đây khi xử

lý vấn đề nội sinh. Mặc dù, có ưu điểm giải quyết vấn đề nội sinh nhưng phương

pháp hồi quy hai bước vẫn yêu cầu thỏa hai giả định sau, trong khi phương pháp hồi

quy GMM thì không yêu cầu:

 Không có phương sai thay đổi.

 Không có tự tương quan.

Từ đây có thể thấy rằng, nếu mô hình nghiên cứu có tồn tại tự tương quan

hoặc/và phương sai sai số thay đổi thì phương pháp hồi quy hai bước sẽ không được

sử dụng và luận văn sẽ tiến hành ước lượng mô hình nghiên cứu tác động của dòng

vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế bởi phương pháp hồi quy GMM.

45

CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Thống kê mô tả và ma trận tƣơng quan

Trong phần này, luận văn thực hiện mô tả các biến bằng cách sử dụng các

giá trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất để có

thể khái quát bộ dữ liệu của luận văn sử dụng nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của dòng

vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á

trong giai đoạn 2000 – 2016. Kết quả thống kê mô tả được luận văn thể hiện ở bảng

4.1. Từ kết quả của bảng 4.1, có thể thấy các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tốc

độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 5.3390 (với biến đại diện GDPGR) và 4.0902

(với biến đại diện GDPPCGR). Điều này cho thấy rằng GDP và GDP trên đầu

người ở năm hiện tại gia tăng khoảng 5.3390% và 4.0902% so với năm trước. Đồng

thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của hai đại diện cho tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia lần lượt là 4.1068 và 4.0504 thì có thể thấy các quốc gia trong mẫu nghiên

cứu có sự thay đổi đáng kể trong tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như giữa các quốc

gia trong mẫu nghiên cứu có các mức tăng trưởng khác nhau. Theo đó, giá trị lớn

nhất và giá trị nhỏ nhất của GDPGR (GDPPCGR) lần lượt là 26.7550 (23.7153) và

-21.5945 (-23.1812).

Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến

BIẾN Trung vị Số quan sát

Giá trị trung bình 5.3990 Độ lệch chuẩn 4.1068 Giá trị nhỏ nhất -21.5945 5.4872 Giá trị lớn nhất 26.7550 544 GDPGR

4.0504 -23.1812 4.2433 23.7153 544 GDPPCGR 4.0902

5.7611 13.6213 -56.4645 2.9047 217.9205 544 FDI

4.4235 8.1137 -0.6183 0.9720 64.2715 544 AID

23.1873 21.1806 -50.9784 24.9489 83.7213 544 SAV

24.5792 10.1394 0.0000 23.7306 68.0227 544 INV

103.443 79.426 0.0000 87.238 442.620 544 TRADE

13.0430 7.7908 0.0000 11.9454 58.1181 544 GOVEXP

46

7.2367 8.4905 -22.0914 5.2711 59.7404 544 INF

1.2464 0.7797 -1.4745 1.2673 5.3215 544 POPGR

Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.

Thêm nữa, theo giá trị trung bình của biến FDI thì có thể thấy các quốc gia

trong mẫu nghiên cứu có FDI bình quân đạt 5.7611. Điều này cho thấy rằng, dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm

khoảng 5.7611% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, với giá trị độ lệch

chuẩn của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 13.61213 thì có thể thấy các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể chính sách thu hút dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có

các chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và

giá trị nhỏ nhất của FDI lần lượt là 217.9205 và -56.4645.

Đồng thời, dựa vào giá trị trung bình của biến AID thì có thể thấy rằng các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu có dòng vốn viện trợ nước ngoài bình quân đạt

4.4235. Điều này cho thấy rằng, dòng vốn viện trợ nước ngoài của các quốc gia

trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 4.4235% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng

thời, với giá trị độ lệch chuẩn của dòng vốn viện trợ nước ngoài là 8.1137 thì có thể

thấy được các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể chính sách thu

hút dòng vốn viện trợ nước ngoài cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu

có các chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất

và giá trị nhỏ nhất của AID lần lượt là 64.2715 và -0.6183.

Giá trị trung bình của biến SAV cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có mức độ tiết kiệm nội địa bình quân đạt 23.1873. Điều này cho thấy

rằng, tiết kiệm nội địa của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng

23.1873% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời dựa vào giá trị độ lệch chuẩn

của tiết kiệm nội địa là 21.1806 thì có thể thấy rằng người dân của các quốc gia

trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể trong quyết định tiết kiệm cũng như

giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ tiết kiệm nội địa khác nhau.

47

Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của SAV lần lượt là 83.7213 và

-50.9784.

Giá trị trung bình của biến INV cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên

cứu có mức độ đầu tư nội địa bình quân đạt 24.5792. Điều này cho thấy rằng đầu tư

nội địa của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 24.5792% so với tổng

GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của đầu tư nội địa là

10.1394 thì có thể thấy rằng người dân của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có

sự thay đổi đáng kể trong quyết định đầu tư cũng như giữa các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có mức đầu tư nội địa khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ

nhất của INV lần lượt là 68.0227 và 0.

Giá trị trung bình của biến TRADE cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có độ mở thương mại bình quân đạt 103.443. Điều này cho thấy, độ mở

cửa thương mại của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 103.443% so

với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của độ mở

thương mại là 79.426 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự

thay đổi đáng kể trong quyết định hội nhập thương mại toàn cầu cũng như giữa các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ mở cửa thương mại khác nhau. Theo đó,

giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của TRADE lần lượt là 442.620 và 0.

Giá trị trung bình của biến GOVEXP cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có chi tiêu chính phủ bình quân đạt 13.0430. Điều này cho thấy, chi tiêu

chính phủ của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 13.0430% so với

tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của chi tiêu chính

phủ là 7.7908 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi

đáng kể trong quyết định chi tiêu chính phủ cũng như giữa các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có mức độ chi tiêu chính phủ khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá

trị nhỏ nhất của GOVEXP lần lượt là 58.1181 và 0.

Giá trị trung bình của biến INF cho thấy các quốc gia trong mẫu nghiên cứu

có lạm phát bình quân đạt 7.2367. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của lạm

48

phát là 8.4905, có thể thấy được các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi

đáng kể trong lạm phát cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức

độ lạm phát khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của INF lần lượt

là 59.7404 và -22.0914.

Giá trị trung bình của biến POPGR cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu có tăng trưởng dân số bình quân đạt 1.2464. Đồng thời, dựa vào giá trị độ

lệch chuẩn của tăng trưởng dân số là 0.7797 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong

mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể trong tăng trưởng dân số cũng như giữa các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ tăng trưởng dân số khác nhau. Theo đó,

giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của POPGR lần lượt là 5.3215 và -1.4745.

Qua phần thống kê mô tả chung cho các biến trong mô hình theo Bảng 4.1, có

thể thấy đươc các biến quan sát thu thập có dao động ổn định, đa phần các giá trị độ

lệch chuẩn của mẫu nghiên cứu đều thấp hơn so với giá trị trung bình của các biến.

Cỡ mẫu của luận văn gồm 544 quan sát là cỡ mẫu được chấp nhận để thực hiện hồi

quy trong thống kê, phù hợp để thực hiện các kiểm định thống kê và hồi quy.

Bên cạnh đó, luận văn tiến hành xem xét mối tương quan tuyến tính đơn biến

giữa các đại diện cho biến phụ thuộc và các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu

bằng cách lập ma trận tương quan. Bảng 4.2 trình bày ma trận tương quan giữa các

biến và có thể thấy rằng dòng vốn viện trợ nước ngoài, chi tiêu chính phủ có tương

quan âm với các đại diện của tăng trưởng kinh tế (GDPGR và GDPPCGR) ở mức ý

nghĩa thống kê 10%. Cho thấy, dòng vốn viện trợ nước ngoài và chi tiêu chính phủ

có sự dịch chuyển ngược hướng với sự di chuyển trong tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia.

Ngược lại, có thể thấy rằng tiết kiệm nội địa, đầu tư nội địa, lạm phát đều có

tương quan dương với các đại diện của tăng trưởng kinh tế (GDPGR và

GDPPCGR) ở mức ý nghĩa thống kê 10%. Điều này cho thấy rằng, tiết kiệm nội

địa, đầu tư nội địa và lạm phát có sự dịch chuyển cùng hướng với sự di chuyển

trong tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.

49

Bảng 4.2. Ma trận tƣơng quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc

GDPGR GDPPCGR FDI AID SAV INV TRADE GOVEXP INF POPGR

1 GDPGR

1 GDPPCGR 0.9799***

0.056 0.0695 1 FDI

-0.1335*** -0.1067** 0.2882*** 1 AID

0.2006*** 0.1625*** 0.0272 -0.6078*** 1 SAV

0.1983*** 0.1936*** -0.0924** -0.1886*** 0.3788*** 1 INV

-0.0215 -0.0387 0.2977*** -0.0964** 0.2303*** 0.0357 1 TRADE

-0.2329*** -0.1945*** -0.139*** 0.4173*** -0.3096*** 0.1382*** 0.0183 1 GOVEXP

0.1582*** 0.1532*** -0.1021** -0.0883** 0.0064 -0.0203 -0.1855*** -0.0496 1 INF

0.1093** -0.0902** -0.0681 -0.1382*** 0.1954*** 0.0285 0.0868** -0.2008*** 0.027 1 POPGR

Trong đó, *, ** , *** lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.

50

Bên cạnh đó, các giá trị tuyệt đối của các hệ số tương quan tuyến tính giữa

các biến độc lập đều tương đối không cao. Cho nên, có thể không tồn tại hiện tượng

đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu của luận văn.

4.2. Kiểm định phƣơng pháp hồi phù hợp

Từ các phân tích trong phần 3.4 của luận văn, để lựa chọn được phương pháp

hồi quy phù hợp dùng để ước lượng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn

nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong

giai đoạn 2000 - 2016 , luận văn thực hiện kiểm tra hai hiện tượng liên quan đến các

giả định của phương pháp hồi quy OLS bao gồm hiện tượng tự tương quan và hiện

tượng phương sai sai số thay đổi. Luận văn thực hiện kiểm tra hiện tượng tự tương

quan bằng kiểm định Wooldridge với câu lệnh trong phần mềm Stata là xtserial và

kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi bằng kiểm định Modified Wald với câu

lệnh trong phần mềm Stata là xttest3. Kết quả của hai kiểm định đối với các phương

trình hồi quy trong luận văn được thể hiện trong bảng 4.3. Qua bảng 4.3, luận văn

thấy rằng các giá trị p-value của kiểm định tự tương quan Wooldridge ở cả 03

phương trình hồi quy đều bằng 0.000, nhỏ hơn mức ý nghĩa thống kê 10%. Kết quả

này cho thấy rằng, luận văn có thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm định, điều này có

thể hiểu như là tồn tại hiện tượng tự tương quan trong mô hình nghiên cứu ảnh

hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát

triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi sử dụng phương pháp hồi quy OLS.

Tương tự như vậy, luận văn thấy rằng các giá trị p-value của kiểm định

phương sai thay đổi Modified Wald ở cả 03 phương trình hồi quy đều bằng 0.000,

nhỏ hơn mức ý nghĩa thống kê 10%. Kết quả cho thấy luận văn có thể bác bỏ giả

thuyết H0 của kiểm định, điều này có thể hiểu như là tồn tại hiện tượng phương sai

thay đổi trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á từ năm 2000 đến năm 2016

khi sử dụng phương pháp hồi quy OLS.

51

Bảng 4.3. Kết quả kiểm tra phƣơng sai thay đổi và tự tƣơng quan

Kiểm định Phƣơng trình P-value Kết luận

0.0000 Phương sai thay đổi FDI Phƣơng sai thay đổi 0.0000 Phương sai thay đổi AID Modified Wald 0.0000 Phương sai thay đổi FDI và AID

0.0000 Tự tương quan FDI Tự tƣơng quan 0.0000 Tự tương quan AID Wooldridge 0.0000 Tự tương quan FDI và AID

Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.

Qua đó, có thể nhận thấy rằng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn

nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á từ

năm 2000 đến năm 2016 tồn tại hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi

khi được hồi quy bởi phương pháp OLS. Trong trường hợp này, phương pháp hồi

quy hai bước 2SLS cũng sẽ không được áp dụng do bị vi phạm hai giả định (1)

không có tự tương quan và (2) không có phương sai thay đổi. Vì thế, luận văn sử

dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của

dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở

Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 nhằm mục đích khắc phục hiện tượng nội sinh

(do sự hiện diện biến trễ của biến phụ thuộc), tự tương quan và phương sai thay đổi.

4.3. Thảo luận kết quả

4.3.1. Biến phụ thuộc GDPGR

Trong phần này, luận văn trình bày kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ảnh

hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi

GDPGR) của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016

được ước lượng bởi phương pháp hồi quy GMM. Kết quả hồi quy được trình bày

trong bảng 4.4. Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân tích các kết quả đạt được, luận

văn thực hiện việc xem rằng liệu kết quả thu được từ cách hồi quy mô hình nghiên

cứu bởi phương pháp GMM có đáng tin cậy hay không bằng cách sử dụng hai kiểm

52

định AR(2) và Hansen. Trong đó, kiểm định AR(2) xem xét hiện tượng tự tương

quan bậc 02 và kiểm định Hansen xem xét tính phù hợp của các biến công cụ được

sử dụng trong phương pháp GMM. Dựa vào các kết quả kiểm định trong bảng 4.4,

luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định AR(2) lần lượt ở cột (1), (2) và (3)

là 0.158, 0.133, và 0.273. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê

10%. Điều này cho thấy rằng luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm

định: không tồn tại tự tương quan. Nói cách khác, hiện tượng tự tương quan bậc hai

không tồn tại trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến

tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc gia đang phát triển ở

Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi ước lượng bởi phương pháp GMM. Tương

tự vậy luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định Hansen lần lượt ở cột (1),

(2) và (3) là 0.514, 0.645, và 0.423. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý

nghĩa thống kê 10%. Theo đó, luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm

định: các biến công cụ không có tương quan với phần dư của mô hình nghiên cứu.

Hoặc nói rằng, các biến công cụ được sử dụng trong phương pháp GMM có thể giải

quyết vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước

ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc gia đang

phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Từ đây có thể thấy rằng kết quả

có được do sử dụng phương pháp GMM hồi quy mô hình nghiên cứu là phù hợp và

đáng tin cậy nhằm mục đích dùng để phân tích.

53

Bảng 4.4. Kết quả tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng

kinh tế GDPGR

GDPGR Hệ số (1) Hệ số (2) Hệ số (3)

GDPGR(-1) 0.5354*** (18.14)

FDI 0.4585*** (6.86) -0.1203*** (-3.28)

AID

SAV

INV

TRADE

GOVEXP

INF

POPGR

HỆ SỐ CHẶN

-0.2958*** (-4.52) 0.2863*** (7.37) 0.0088 (1.18) -0.3821*** (-8.14) 0.1919*** (3.34) 3.9835** (2.10) 0.4439 (0.46) 0.018 0.158 0.514 -0.0388*** (-3.35) -0.0173** (-2.47) 0.0623*** (5.08) 0.0365*** (4.50) -0.0251** (-2.08) 0.0385** (2.10) 1.6271** (2.49) -4.1495*** (-2.99) 0.003 0.133 0.645 0.3300*** (15.74) -0.0658*** (-6.31) -0.1005*** (-13.88) -0.0433*** (-7.62) 0.0567*** (12.27) 0.0088*** (5.65) -0.0370*** (-5.56) 0.2737*** (21.93) 0.0328 (0.32) 1.7651*** (7.25) 0.002 0.273 0.423 AR(1) AR(2) HANSEN

Trong đó, các kết quả trong bảng kết quả thu được từ việc ước lượng bởi

phương pháp hồi quy GMM hệ thống hai bước. Giá trị trong dấu ( ) thể hiện giá trị

thống kê t. Đồng thời, cột (1) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, cột (2) trình bày mô hình

nghiên cứu tác động của dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế và

cột (3) trình bày mô hình nghiên cứu tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, AR(1) và AR(2) lần lượt kiểm định tự tương quan bậc

01 và bậc 02. Hansen kiểm định sự phù hợp của các biến công cụ được sử dụng

trong phương pháp hồi quy GMM. Ngoài ra, *, ** , *** lần lượt là mức ý nghĩa

thống kê 10%, 5% và 1%.

54

Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.

Tiếp theo, luận văn thảo luận kết quả nghiên cứu mô hình tác động của dòng

vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc

gia đang phát triển Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016. Đầu tiên, giá trị hệ số hồi

quy của biến trễ biến phụ thuộc lần lượt ở cột (1), (2) và (3) bằng 0.4585, 0.5354,

và 0.3300 và tất cả đều ý nghĩa ở mức thống kê 1%. Kết quả cho thấy, tăng trưởng

kinh tế ở kỳ trước có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của kỳ hiện tại. Nói

cách khác, khi tăng trưởng kinh ở năm trước tăng 1% thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế ở năm nay tăng từ 0.33% đến 0.5354%.

Dòng vốn nước ngoài được đại diện bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) có tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở

mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (1) và (3) lần lượt là -0.1203 và -0.0658.

Kết quả này cho thấy rằng, khi FDI của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng

1%, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này có thể giảm khoảng 0.0658% đến

0.1203%. Điều này cũng ngụ ý là, các quốc gia thuộc mẫu nghiên cứu thực hiện

chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện này ngược lại với sự kỳ vọng dấu ban đầu

của luận văn được đề cập trong phần 3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm

được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước đây chẳng hạn như Borensztein và các cộng

sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez - Robles (2003), Makki và

Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen và Anis (2012), Gui-Diby

(2014) và Iamsiraroj (2016). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước

đây của Eller và các cộng sự (2005), Herzer (2010), Antwi và Zhao (2013). Có thể

giải thích như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia đang phát

triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu tương đối

thấp, vốn con người không quá cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn

tương đối yếu do chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, như

được ghi nhận bởi các nghiên cứu trước đây, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con người

55

tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện hiệu quả

các chính sách (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng thể chế đủ

mạnh (Durham, 2004). Cho nên, việc dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy

vào các quốc gia này sẽ không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng

phí cũng như làm gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả là cản trở tăng trưởng kinh tế.

Tương tự như kết quả được tìm được đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài, dòng vốn viện trợ nước ngoài (AID) cũng thể hiện tác động ngược chiều đến

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (2)

và (3) lần lượt là -0.038 và -0.1005. Kết quả này cho thấy rằng khi dòng vốn viện

trợ nước ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng 1%, tăng trưởng kinh tế

của quốc gia này sẽ bị giảm khoảng 0.038% đến 0.1005%. Điều này cũng ngụ ý

rằng, các quốc gia thuộc mẫu nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn

viện trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát

hiện này ngược lại với dấu kỳ vọng ban đầu của luận văn được đề cập trong phần

3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Papanek (1973),

Fayissa và El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008),

Asteriou (2009). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước đây của

Duc (2006), Doucouliagos và Paldam (2009), Lacerda (2010), Amassoma (2014).

Kết quả giải thích rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia

đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu

kém, vốn con người không cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn yếu do

chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, ở các quốc gia mà

môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử dụng để tài

trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư nhân để kích

thích tăng trưởng kinh tế (Duc, 2006). Hơn thế nữa, dòng vốn viện trợ nước ngoài

có thể làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong và Zou,

2001). Bên cạnh đó, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên quan

đến xuất khẩu hàng hóa, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản

thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các

56

điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và

Obsfeld, 2003). Ngoài ra, dòng vốn viện trợ nước ngoài chảy vào quốc gia thường

xuyên có thể làm cho bộ máy chính trị bị tha hóa và gây hưởng xấu đến chất lượng

thể thế cần thiết cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Deaton, 2013).

Hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là

-0.2958, -0.0173 và -0.0433; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở

mức ý nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng, khi tiết kiệm nội địa của quốc gia tăng

1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm 0.0173% đến 0.2958%.

Điều này ngụ ý rằng, tiết kiệm nội địa sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này trái ngược với sự kỳ vọng dấu mà

luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Harrod (1939),

Domar (1946), Lewis (1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo

(1991), Levine và Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995),

Alguacil và các cộng sự (2004), Odhiambo (2009). Tuy nhiên lại phù hợp với bằng

chức thực nghiệm mà Chorn và Siek (2017) đã tìm thấy trong thời gian gần đây khi

cho rằng, tiết kiệm nội địa sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Có thể

giải thích kết quả này như là các quốc gia càng có mức độ tiết kiệm nội địa càng cao

càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn

đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.

Hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là 0.2863,

0.0623 và 0.0567; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa

5%. Kết quả này cho thấy rằng, khi đầu tư nội địa của quốc gia tăng 1% thì tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0567% đến 0.2863%.

Điều này ngụ ý rằng, đầu tư nội địa sẽ làm thúc đẩy kinh tế của các quốc gia trong

mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở

phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Kormendi và Meguire (1985), Romer

(1986), Lucas (1988), Grier và Tullock (1989), Barro (1991), Levine và Renelt

(1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng sự (1992), Fischer (1993), Barro và

Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang và các cộng sự (2008), Adams

57

(2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner (2014), Emmanuel và Kehinde

(2018). Có thể giải thích kết quả này như là đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi

tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng

chẳng hạn như đường xá, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và

nhà ở, mở rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực

giáo dục, y tế và truyền thông cũng như các dự án có liên quan đến các hoạt động

kinh tế (Bakari, 2017). Do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Độ mở thương mại thể hiện tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%, ngoại trừ kết quả trong

cột (1) không có ý nghĩa thống kê. Hơn thế nữa hệ số của độ mở thương mại mang

giá trị ở cột (2) và (3) lần lượt là 0.0365 và 0.0088. Kết quả này cho thấy rằng, khi

độ mở thương mại của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

này sẽ gia tăng khoảng 0.0088% đến 0.0365%. Điều này ngụ ý rằng, độ mở thương

mại sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.

Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các

nghiên cứu trước đây như Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro

(1995), Ben – David và Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004),

Lee (2004), Ahmed và Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger

(2012), Dava (2012), Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng

sự (2015) Keho (2017). Có thể giải thích kết quả này như là sự gia tăng trong độ mở

thương mại có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan

truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn

(Ahmed và Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn. Hơn thế nữa, xuất

khẩu quốc gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của nền kinh tế, trong

khi càng nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí sản xuất. Do đó, độ

mở cửa thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác,

theo lý thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp quốc gia sử dụng các

nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng hóa và dịch vụ không

quá tốn kém để có thể sản xuất trong nước.

58

Chi tiêu chính phủ thể hiện tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%.Hơn thế nữa hệ số

của Chi tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là -0.3821, -0.0251,

-0.037. Kết quả này cho thấy rằng, khi chi tiêu chính phủ của quốc gia tăng 1% thì

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm khoảng 0.0251% đến 0.3821%.

Điều này ngụ ý rằng, chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận

văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Conte và Darr (1988),

Grier và Tullock (1989), Alexander(1990), Carlstrom và Gokhale (1991), Engen và

Skinner (1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson (2001), Mitchell

(2005), Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011), Butkiewicz và

Yanikkaya (2011). Có thể giải thích kết quả này như là khi chính phủ thực hiện chi

tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn như chi phí

khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral subsidy cost)…

Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Các bằng

chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan điểm này khi tìm thấy

kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Lạm phát thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc

gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%.Hơn thế nữa hệ số của Chi

tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là 0.1919, 0.0385, 0.2737.

Kết quả này cho thấy rằng, khi lạm phát của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0385% đến 0.2737%. Điều này ngụ ý

rằng, lạm phát sẽ làm gia tăng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở

phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây Tobin (1965), Paul và các cộng sự (1997),

Ghosh và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và Chowdhury (2001),

Rapach (2003), Benhabib và Spiegel (2009). Có thể giải thích kết quả này như là

rằng, sự gia tăng trong chỉ số giá (lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu

vực tư nhân có sự gia tăng đáng kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi

59

tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tương tự vậy, tăng trưởng dân số thể hiện tác động cùng chiều đến tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%,

ngoại trừ kết quả hồi quy trong cột (3). Hơn thế nữa hệ số của tăng trưởng dân số

mang giá trị ở cột (1), và (2) lần lượt là 3.9835, 1.6271. Kết quả này cho thấy rằng,

khi tăng trưởng dân số của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc

gia này sẽ gia tăng khoảng 1.6271% đến 3.9835%. Điều này ngụ ý rằng, tăng

trưởng dân số sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở

phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây Kuznets (1967), Kelley (1988), Kelley và

McGreevy (1994), Bloom và Canning (2004), Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner

và các cộng sự (2014), Sethy và Sahoo (2015), Tumwebaze và Ijjo (2015). Có thể

giải thích kết quả này như là tốc độ tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc

gia có được nhiều nguồn tri thức càng nhiều, nói cách khác vốn con người của

quốc gia gia tăng. Mà vốn con người và dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn

chặn sự suy giảm vốn tích lũy như điều mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập.

Kết quả là quốc gia vẫn tăng trưởng kinh tế.

4.3.2. Biến phụ thuộc GDPPCGR

Trong phần này, luận văn trình bày kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ảnh

hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi

GDPPCGR) của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016

được ước lượng bởi phương pháp hồi quy GMM. Kết quả hồi quy được trình bày

trong bảng 4.5. Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân tích các kết quả đạt được, luận

văn thực hiện việc xem rằng liệu kết quả thu được từ cách hồi quy mô hình nghiên

cứu bởi phương pháp GMM có đáng tin cậy hay không bằng cách sử dụng hai kiểm

định AR(2) và Hansen. Trong đó, Kiểm định AR(2) xem xét hiện tượng tự tương

quan bậc 02 và kiểm định Hansen xem xét tính phù hợp của các biến công cụ được

60

sử dụng trong phương pháp GMM. Dựa vào các kết quả kiểm định trong bảng 4.5,

luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định AR(2) lần lượt ở cột (1), (2) và (3)

là 0.150, 0.117, và 0.216. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê

10%. Điều này cho thấy rằng, luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm

định: không tồn tại tự tương quan. Nói cách khác, hiện tượng tự tương quan bậc hai

không tồn tại trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến

tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPPCGR) của các quốc gia đang phát triển

ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi ước lượng bởi phương pháp GMM.

Tương tự vậy luận văn thấy rằng, giá trị p-value của kiểm định Hansen lần lượt ở

cột (1), (2) và (3) là 0.518, 0.597, và 0.456. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức

ý nghĩa thống kê 10%. Điều này cho thấy rằng, luận văn không thể bác bỏ giả

thuyết H0 của kiểm định: các biến công cụ không tương quan với phần dư của mô

hình nghiên cứu. Nói cách khác, các biến công cụ được sử dụng trong phương pháp

GMM có thể giải quyết vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của

dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPPCGR) của

các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Từ đây có thể

thấy rằng, kết quả có được do sử dụng phương pháp GMM hồi quy mô hình nghiên

cứu là phù hợp và đáng tin cậy nhằm mục đích dùng để phân tích.

Tiếp theo, luận văn thảo luận kết quả nghiên cứu mô hình ảnh hưởng của

dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các

quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Đầu tiên, giá trị hệ

số hồi quy của biến trễ biến phụ thuộc lần lượt ở cột (1), (2) và (3) bằng 0.4559,

0.5367, và 0.2795 và tất cả đều ý nghĩa ở mức thống kê 1%. Kết quả này cho thấy

rằng, tăng trưởng kinh tế ở kỳ trước sẽ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của kỳ

hiện tại. Nói cách khác, khi tăng trưởng kinh ở năm trước tăng 1% thì sẽ thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế ở năm này tăng từ 0.2795% đến 0.5367%.

61

Bảng 4.5. Kết quả ảnh hƣởng của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng

kinh tế GDPPCGR

GDPPCGR Hệ số (1) Hệ số (2) Hệ số (3)

GDPPCGR(-1) 0.5367*** (19.92)

FDI 0.4559*** (6.41) -0.1142*** (-3.30)

AID

SAV

INV

TRADE

GOVEXP

INF

POPGR

HỆ SỐ CHẶN

-0.2939*** (-4.40) 0.2819*** (6.79) 0.0074 (1.04) -0.3751*** (-7.78) 0.2069*** (3.41) 3.3918* (1.74) 0.4078 (0.42) 0.021 0.15 0.518 -0.0422*** (-4.70) -0.0152** (-2.23) 0.0485*** (7.72) 0.0207*** (3.77) -0.0131* (-1.80) 0.0813*** (8.58) 1.0468*** (3.96) -2.5434*** (-3.50) 0.002 0.117 0.597 0.2795*** (26.80) -0.0504*** (-5.38) -0.0978*** (-15.73) -0.0245*** (-5.16) 0.0368*** (8.95) 0.0087*** (4.73) 0.0111 (1.39) 0.3134*** (32.19) -0.1919 (-1.64) 0.4882 (1.56) 0.001 0.216 0.456 AR(1) AR(2) HANSEN

Trong đó, các kết quả trong bảng kết quả thu được từ việc ước lượng bởi

phương pháp hồi quy GMM hệ thống hai bước. Giá trị trong dấu ( ) thể hiện giá trị

thống kê t. Đồng thời, cột (1) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, cột (2) trình bày mô hình

nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế và

cột (3) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, AR(1) và AR(2) lần lượt kiểm định tự tương quan bậc

01 và bậc 02. Hansen kiểm định sự phù hợp của các biến công cụ được sử dụng

trong phương pháp hồi quy GMM. Ngoài ra, *, ** , *** lần lượt thể hiện mức ý

nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.

62

Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.

Dòng vốn nước ngoài được đại diện bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài có tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý

nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (1) và (3) lần lượt là -0.1142 và -0.0504. Kết quả

này cho thấy rằng khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các quốc gia trong

mẫu nghiên cứu tăng 1% thì sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này

khoảng 0.0504% đến 0.1142%. Điều này cũng ngụ ý rằng các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ

làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện này có phần trái

ngược với sự kỳ vọng dấu ban đầu của luận văn được đề cập trong phần 3.3, cũng

như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước đây chẳng

hạn như Borensztein và các cộng sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez -

Robles (2003), Makki và Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen

và Anis (2012), Gui-Diby (2014) và Iamsiraroj (2016). Nhưng kết quả này lại phù

hợp với các phát hiện trước đây của Eller và các cộng sự (2005), Herzer (2010),

Antwi và Zhao (2013). Kết quả có thể hiểu như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu

chủ yếu là các quốc gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là

chất lượng thể chế yếu tương đối thấp, vốn con người không quá cao, mức độ hấp

thụ dòng vốn nước ngoài còn tương đối yếu do chính sách thực thi của quốc gia vẫn

chưa được tốt. Mặt khác, như được ghi nhận bởi các nghiên cứu trước đây, dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia

nhận đầu tư có vốn con người tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và

Liu, 2005), thực thi chính sách một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj,

2016) và có chất lượng thể chế đủ mạnh (Durham, 2004). Cho nên việc dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia này sẽ không mang lại hiệu quả

cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng phí cũng như làm gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả

là cản trở tăng trưởng kinh tế.

Tương tự như kết quả được thể hiện ở dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,

dòng vốn viện trợ nước ngoài (AID) cũng thể hiện tác động ngược chiều đến tăng

63

trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (2) và (3)

lần lượt là -0.0422 và -0.0978. Kết quả này được hiểu là khi dòng vốn viện trợ nước

ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng 1% thì sẽ làm giảm tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia này khoảng 0.0422% đến 0.0978%. Điều này cũng ngụ ý

rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn viện

trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện

này có phần trái ngược với sự kỳ vọng dấu ban đầu của luận văn được đề cập trong

phần 3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Papanek (1973),

Fayissa và El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008),

Asteriou (2009). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước đây của

Duc (2006), Doucouliagos và Paldam (2009), Lacerda (2010), Amassoma (2014).

Có thể hiểu kết quả này như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc

gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu

kém, vốn con người không cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn yếu do

chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, ở các quốc gia mà

môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử dụng nhằm

tài trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư nhân để kích

thích tăng trưởng kinh tế (Duc, 2006). Hơn thế nữa, dòng vốn viện trợ nước ngoài

có thể làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong và Zou,

2001). Bên cạnh đó, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên quan

đến xuất khẩu hàng hóa, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản

thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các

điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và

Obsfeld, 2003). Ngoài ra, dòng vốn viện trợ nước ngoài chảy vào quốc gia thường

xuyên có thể làm cho bộ máy chính trị bị tha hóa và gây hưởng xấu đến chất lượng

thể thế cần thiết cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Deaton, 2013).

Hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là

-0.2939, -0.0152 và -0.0245; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở

mức ý nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng khi tiết kiệm nội địa của quốc gia tăng

64

5% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm 0.0152% đến 0.2939%.

Điều này ngụ ý rằng tiết kiệm nội địa sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này trái ngược với sự kỳ vọng dấu mà

luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Harrod (1939),

Domar (1946), Lewis (1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo

(1991), Levine và Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995),

Alguacil và các cộng sự (2004), Odhiambo (2009). Tuy nhiên lại phù hợp với bằng

chức thực nghiệm mà Chorn và Siek (2017) đã tìm thấy trong thời gian gần đây khi

cho rằng tiết kiệm nội địa sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Có thể

giải thích kết quả này như là các quốc gia càng có độ tiết kiệm nội địa càng cao

càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn

đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.

Hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là 0.2819,

0.0485 và 0.0368; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa

1%. Kết quả này cho thấy rằng khi đầu tư nội địa của quốc gia tăng 1% thì tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0368% đến 0.2819%. Điều

này ngụ ý rằng đầu tư nội địa sẽ làm thúc đẩy kinh tế của các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở

phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Kormendi và Meguire (1985), Romer

(1986), Lucas (1988), Grier và Tullock (1989), Barro (1991), Levine và Renelt

(1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng sự (1992), Fischer (1993), Barro và

Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang và các cộng sự (2008), Adams

(2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner (2014), Emmanuel và Kehinde

(2018). Có thể hiểu kết quả này như là đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi tiêu

vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng chẳng

hạn như đường, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và nhà ở, mở

rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực giáo dục -

đào tạo, y tế và truyền thông cũng như các dự án liên quan đến các hoạt động thuộc

lĩnh vực kinh tế (Bakari, 2017). Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

65

Độ mở thương mại thể hiện tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các

quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%, ngoại trừ kết quả trong

cột (1) không có ý nghĩa thống kê. Hơn thế nữa hệ số của độ mở thương mại mang

giá trị ở cột (2) và (3) lần lượt là 0.0207 và 0.0087. Kết quả này có thể hiểu rằng khi

độ mở thương mại của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

này sẽ gia tăng khoảng 0.0087% đến 0.0207%. Điều này ngụ ý rằng độ mở thương

mại sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.

Phát hiện này phù hợp theo dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các

nghiên cứu trước đây như Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro

(1995), Ben – David và Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004),

Lee (2004), Ahmed và Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger

(2012), Dava (2012), Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng

sự (2015) Keho (2017). Kết quả giải thích rằng, sự gia tăng trong độ mở thương mại

có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức

lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn (Ahmed và

Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn. Hơn thế nữa, xuất khẩu quốc

gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của nền kinh tế, trong khi càng

nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí sản xuất. Do đó, độ mở cửa

thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, theo lý

thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp quốc gia sử dụng các nguồn

lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng hóa và dịch vụ không quá tốn

kém để có thể sản xuất trong nước.

Chi tiêu chính phủ thể hiện tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 10% ngoại trừ cột (3).

Hơn thế nữa hệ số của Chi tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1) và (2) lần lượt là

-0.3751, và -0.0131. Kết quả này cho thấy rằng, chi tiêu chính phủ của quốc gia

tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm khoảng 0.0131% đến

0. 3751%. Điều này ngụ ý rằng, chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng

66

mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Conte và Darr

(1988), Grier và Tullock (1989), Alexander(1990), Carlstrom và Gokhale (1991),

Engen và Skinner (1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson

(2001), Mitchell (2005), Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011),

Butkiewicz và Yanikkaya (2011). Có thể giải thích kết quả này như là khi chính phủ

thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn

như chi phí khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral

subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của

quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan

điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng

kinh tế của quốc gia.

Lạm phát thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc

gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%.Hơn thế nữa hệ số của Chi

tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là 0.2069, 0.0813, 0.3134.

Kết quả này cho thấy rằng khi lạm phát của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0813% đến 0.3134%. Điều này ngụ ý

rằng lạm phát sẽ làm gia tăng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu

nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần

3.3 và các nghiên cứu trước đây Tobin (1965), Paul và các cộng sự (1997), Ghosh

và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và Chowdhury (2001), Rapach

(2003), Benhabib và Spiegel (2009). Kết quả cho thấy sự gia tăng trong chỉ số giá

(lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu vực tư nhân có sự gia tăng đáng

kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền

kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tương tự, tăng trưởng dân số thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 10%, ngoại

trừ kết quả hồi quy trong cột (3). Hơn thế nữa, hệ số của tăng trưởng dân số mang

giá trị ở cột (1), và (2) lần lượt là 3.3918, 1.0468. Kết quả này cho thấy rằng, khi

tăng trưởng dân số của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

67

này sẽ gia tăng khoảng 1.0468% đến 3.3918%. Điều này ngụ ý rằng, tăng trưởng

dân số sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.

Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các

nghiên cứu trước đây Kuznets (1967), Kelley (1988), Kelley và McGreevy (1994),

Bloom và Canning (2004), Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner và các cộng sự

(2014), Sethy và Sahoo (2015), Tumwebaze và Ijjo (2015). Có thể giải thích kết quả

này như là tốc độ tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc gia có được nhiều

nguồn tri thức càng nhiều, nói cách khác vốn con người của quốc gia gia tăng. Mà

vốn con người và dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn chặn sự suy giảm vốn

tích lũy như điều mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập. Kết quả là quốc gia

vẫn tăng trưởng kinh tế.

68

CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH

SÁCH

5.1. Kết luận

Dựa trên các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu luận văn đã đề cập

trong chương 01. Luận văn thực hiện thu thập số liệu của các quốc gia đang phát

triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016 dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới

của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Đồng thời, trong quá trình thu thập số liệu,

luận văn thấy rằng có một số quốc gia không có sẵn dữ liệu liên tục từ năm 2000 –

2016, do đó, luận văn loại trừ các quốc gia này ra khỏi mẫu nghiên cứu để có thể

thu được mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng cân đối (Balanced Panel data). Mẫu

nghiên cứu cuối cùng luận văn thu được từ 32 quốc gia đang phát triển ở Châu Á

trong giai đoạn 2000 – 2016.

Bên cạnh đó, để nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài (bao gồm

dòng vốn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đến tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia, luận văn áp dụng mô hình nghiên cứu của Alguacil

và các cộng sự (2011), Chorn và Siek (2017). Đồng thời, để hồi quy mô hình nghiên

cứu này, luận văn sử dụng phương pháp GMM với ưu điểm có thể giải quyết vấn đề

nội sinh (do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ thuộc và mối tương quan hai

chiều giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh tế), vấn đề tự tương quan và

vấn đề phương sai thay đổi.

Kết quả luận văn tìm thấy rằng, dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể

đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, chiều hướng tác động của các

dòng vốn nước ngoài này đến tăng trưởng kinh tế lại có sự khác biệt với các phát

hiện trước đây. Cụ thể, luận văn tìm thấy rằng, cả dòng vốn viện trợ nước ngoài và

dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều thể hiện tác động tiêu cực đến tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này có thể hiểu như là khi

69

quốc gia càng đẩy mạnh thu hút dòng vốn nước ngoài thì sẽ làm cản trở tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia. Luận văn giải thích phát hiện này như các quốc gia trong

mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia

đang phát triển là chất lượng thể chế yếu tương đối thấp, vốn con người không quá

cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn tương đối yếu do chính sách thực thi

của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, như được ghi nhận bởi các nghiên cứu

trước đây, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước ngoài

chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con người

tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện chính sách

một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng thể chế đủ

mạnh (Durham, 2004). Cho nên việc dòng vốn nước ngoài chảy vào các quốc gia

này sẽ không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng phí cũng như làm

gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả là cản trở tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, luận văn cũng phát hiện thấy rằng, các yếu tố đưa vào mô hình

nghiên cứu như tiết kiệm nội địa, đầu tư nội địa, độ mở cửa thương mại, chi tiêu

chính phủ, lạm phát và tăng trưởng dân số đều là các yếu tố quan trọng quyết định

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, chiều hướng tác động của các yếu

tố này lại có sự khác biệt.

Cụ thể, đầu tư nội địa, độ mở cửa thương mại, lạm phát và tăng trưởng dân

số đều thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có

trong mẫu nghiên cứu của luận văn. Hàm ý rằng, các quốc gia có đầu tư nội địa

càng cao, càng mở cửa thương mại hội nhập thế giới, lạm phát cao và dân số tăng

trưởng nhanh thì có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong mẫu

nghiên cứu của luận văn. Ngược lại, các yếu tố như tiết kiệm nội địa, chi tiêu chính

phủ lại cho thấy tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong

mẫu nghiên cứu của luận văn. Điều này có nghĩa là các quốc gia càng có mức tiết

kiệm nội địa càng cao, càng chi tiêu chính phủ cao thì sẽ càng cản trở tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu của luận văn.

70

5.2. Các hàm ý chính sách

Kết quả luận văn tìm thấy rằng, dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể

đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Cụ thể, luận văn tìm thấy rằng, cả dòng

vốn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều thể hiện tác

động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Vì

vậy, các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á cần

có những chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài phù hợp với tình hình phát triển

của quốc gia sở tại nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dòng vốn nước ngoài đến

tăng trưởng kinh tế quốc gia, đồng thời, phát huy hiệu quả dòng vốn nước ngoài

chảy vào quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đối với việc thu hút dòng vốn nước ngoài, các quốc gia đang phát triển

thường áp dụng các chính sách như ưu đãi về thuế, trợ cấp hoặc các ưu đãi khác như

các chương trình đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ địa điểm đầu tư… Tuy các chính

sách ưu đãi này được áp dụng tương đối phổ biến ở các quốc gia, nhưng khả năng

thu hút dòng vốn nước ngoài của từng quốc gia là khác nhau, cũng như hiệu quả sử

dụng dòng vốn này của mỗi quốc gia là khác nhau do sự khác biệt về mô trường

kinh tế, quy mô kinh tế, chính trị, pháp luật của từng quốc gia. Từ kết quả nghiên

cứu tìm thấy ở Chương 4, việc sử dụng dụng hiệu quả dòng vốn nước ngoài ở các

quốc gia đang phát triển là hết sức cần thiết nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, do đó, các quốc gia đang phát triển cần lưu ý thực hiện một số chính sách

cụ thể như sau:

Thứ nhất, các quốc gia cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế

chính sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh

thuận lợi. Theo đó, các quốc gia đang phát triển cần hoàn thiện thể chế pháp lý,

nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm tạo điều kiện lựa chọn, thu hút các dòng vốn

nước ngoài chất lượng cao, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

quốc gia, cũng như những tiến bộ của khoa học công nghệ trong thời kỳ công

nghiệp hóa - hiện đại hóa và xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư quốc tế. Trong

71

đó, hệ thống luật pháp đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thu hút vốn đầu tư

nước ngoài, nhất là các chính sách mở cửa kinh tế. Hệ thống pháp luật chưa phát

triển và gặp bất cập hoặc có vấn đề trong việc áp dụng luật pháp là những tồn tại,

hạn chế việc nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư.

Bên cạnh đó, đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật góp

phần khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội, nhất là trong các lĩnh

vực dễ phát sinh tham nhũng. Môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, thông

thoáng và thuận lợi cũng là một trong những yếu tố quan trọng khi các quốc gia

thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, tận dụng cơ chế hợp tác song phương, đa

phương để có những cơ chế đặc thù đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế.

Do đó, hệ thống thể chế pháp lý hoàn chỉnh tạo cơ hội thu hút dòng vốn nước

ngoài, đồng thời, nâng cao hiệu quả sử dụng dòng vốn nước ngoài, từ đó, góp phần

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.

Thứ hai, các quốc gia đang phát triển cần quan tâm nâng cao chất lượng

nguồn vốn con người. Theo đó, dòng vốn nước ngoài luôn có tác động quan trọng

đến việc tăng trưởng năng suất lao động của nước nhận đầu tư. Nó có thể giúp dịch

chuyển cơ cấu lao động trong nước từ nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang

nhóm ngành có năng suất lao động cao hơn. Bên cạnh đó, các nước nhận đầu tư kỳ

vọng rằng, các doanh nghiệp đa quốc gia khi tham gia vào thị trường trong nước với

lợi thế về công nghệ, về thị trường, quản lý sẽ có năng suất lao động cao hơn so với

khu vực ở trong nước.

Xu hướng của các nước đang phát triển đang chuyển đổi theo hướng từ thu

hút dòng vốn nước ngoài theo số lượng dần sang thu hút dòng vốn nước ngoài theo

chất lượng, chuyển dần thu hút với lợi thế giá nhân công rẻ sang cạnh tranh bằng

nguồn lực chất lượng cao. Để hấp thụ, sử dụng dòng vốn nước ngoài hiệu quả, tạo

giái trị gia tăng cao hơn cho dòng vốn nước ngoài được nhận, mỗi quốc gia tiếp

nhận cần có nguồn vốn con người đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, được đào tạo

72

theo các tiêu chuẩn quốc tế. Từ đó, góp phần tăng lợi thế cạnh tranh, thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế của quốc gia.

Thứ ba, các quốc gia đang phát triển cần tăng cường kiểm soát các khoản chi

ngân sách nhà nước nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả dòng vốn, hạn chế việc

xảy ra các vấn đề tiêu cực như tham nhũng, lãng phí… Theo đó, các nhà hoạch định

chính sách cũng có thể chủ động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia thông

qua việc thay đổi các yếu tố như đầu tư nội địa, tiết kiệm nội địa, lạm phát, chi tiêu

chính phủ, độ mở thương mại, tăng trưởng dân số. Bởi vì đầu tư nội địa có liên quan

đến việc chi tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở

hạ tầng. Cũng như việc gia tăng trong độ mở thương mại có thể giúp quốc gia thu

được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh

tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn và sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế của

quốc gia. Ngược lại, khi các nhà hoạch định chính sách cần thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế của các quốc gia thì cũng có thể cân nhắc đến việc hạn chế tiết kiệm nội địa,

và chi tiêu chính phủ. Do khi chính phủ thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát

sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn như chi phí khai thác (cost of extraction),

chi phí hành vi trợ cấp (behavioral subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm

cản trở sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời

gian qua cũng đã ủng hộ quan điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính

phủ làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Đồng thời, các quốc gia càng có

mức độ tiết kiệm nội địa càng cao càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong

nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng

trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.

Có thể thấy, các dự án sử dụng vốn nước ngoài đã tạo môi trường đầu tư,

môi trường sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy các dịch vụ công cộng ở địa phương

cũng như quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, việc sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội

hóa từ các dòng vốn nước ngoài tạo những lợi ích thiết thực, giảm gánh nặng cho

ngân sách, hạn chế chi ngân sách nhà nước tràn lan, không tập trung nguồn lực,

đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển mạnh cho nền kinh tế.

73

Tóm lại, các quốc gia nếu tồn tại một trong các yếu tố như nguồn vốn con

người chưa đáp ứng yêu cầu, thể chế pháp lý chưa hoàn thiện hay việc kiểm soát

chi ngân sách nhà nước chưa chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến việc sử dụng dòng vốn nước

ngoài kém hiệu quả, không tạo được sự kích thích đối với tăng trưởng kinh tế quốc

gia, có thể làm giảm năng lực cạnh tranh, thu hút vốn nước ngoài so với các quốc

gia còn lại.

5.3. Hạn chế đề tài và hƣớng nghiên cứu tiếp theo

Luận văn đã phần nào giải quyết các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên

cứu mà luận văn đề ra, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn nhận thấy đề

tài vẫn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể các hạn chế như sau:

Đầu tiên, đề tài mới thu thập được số liệu của khoảng 32 quốc gia đang phát

triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016 nhưng vẫn chưa có thể đại diện cho các

quốc gia đang phát triển nói riêng và ở châu Á nói chung. Do đó, các phát hiện mà

luận văn tìm được chỉ đúng với 32 quốc gia này. Đây là hạn chế đầu tiên mà luận

văn mắc phải.

Thứ hai, luận văn chỉ sử dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng

vốn viện trợ nước ngoài để đại diện cho dòng vốn nước ngoài, ngoài hai đại diện

này thì một số dòng vốn khác cũng được xem là dòng vốn nước ngoài như kiều hối,

dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài lại không được luận văn sử dụng. Đây là hạn

chế thứ hai mà luận văn mắc phải.

Thứ ba, mặc dù đã loại trừ ảnh hưởng tiềm tàng của cuộc khủng hoảng tài

chính Châu Á năm 1997 – 1998 nhưng trong giai đoạn từ 2000 – 2016 thì vẫn tồn

tại một cuộc khủng hoảng khác đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cho nên có

thể các quốc gia trong giai đoạn này sẽ bị tác động bởi cuộc khủng hoảng này dẫn

đến các kết quả hồi quy vẫn chưa thật sự nhất quán. Đây là hạn chế thứ ba mà luận

văn mắc phải.

Cuối cùng, các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế của các quốc gia mà

luận văn xác định và đưa vào mô hình nghiên cứu thì hầu như được tiến hành theo ý

74

kiến chủ quan của học viên nhưng có dựa trên các mô hình nghiên cứu của các tác

giả trước đây. Tuy nhiên vẫn còn nhiều yếu tố khác có thể tác động đáng kể đến

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhưng luận văn vẫn chưa đưa vào mô hình

nghiên cứu. Đây là hạn chế cuối cùng mà luận văn mắc phải.

Thông qua các hạn chế này, luận văn có một số đề xuất để các nghiên cứu

sau này có thể đạt được kết quả tốt hơn. Các đề xuất này bao gồm:

Đầu tiên, các nghiên cứu sau này có thể cân nhắc đến việc phân tích mẫu

nghiên cứu rộng hơn chẳng hạn như các quốc gia ở Châu Á, các quốc gia ở trên thế

giới để tăng tính đại diện của kết quả đạt được.

Thứ hai, các đề tài có hứng thú với chủ đề này cũng có thể xem xét đến việc

đưa thêm một số dòng vôn nước ngoài vào mô hình nghiên cứu để có thể phân tích

rõ tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, các nghiên cứu sau này cũng cân nhắc đến việc sử dụng biến giả đại

diện cho các cú sốc bên ngoài chẳng hạn như khủng hoảng tài chính toàn cầu để loại

trừ tác động tiềm tàng của khủng hoảng đến các quốc gia.

Cuối cùng, các nghiên cứu sau này có thể đưa thêm một số yếu tố như chất

lượng thể chế, vốn con người và độ mở thương mại vào mô hình nghiên cứu để

tương tác với dòng vốn nước ngoài nhằm làm rõ chất lượng thể chế như thế nào,

vốn con người đạt bao nhiêu và hội nhập thế giới như thế thì dòng vốn nước ngoài

mới mang lại hiệu ứng tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Adams, S. (2009). Can foreign direct investment (FDI) help to promote

growth in Africa?. African Journal of Business Management, 3(5), 178-183.

Adamu, P. A. (2013). The impact of foreign aid on economic growth in

ECOWAS countries: A simultaneous-equation model(No. 2013/143). WIDER

Working Paper.

Ahmed, A. D., & Suardi, S. (2009). Macroeconomic volatility, trade and

financial liberalization in Africa. World Development, 37(10), 1623-1636.

Alguacil, M., Cuadros, A., & Orts, V. (2011). Inward FDI and growth: The

role of macroeconomic and institutional environment. Journal of Policy

Modeling, 33(3), 481-496.

Alragas, R., Murphy, P., Parhi, M., Mishra, T. K., & Ouattara, B. (2015).

Empirical Evidence on the Relationship between Trade Openness and Economic

Growth.

Alshahrani, M. S. A., & Alsadiq, M. A. J. (2014). Economic growth and

government spending in Saudi Arabia: An empirical investigation. International

Monetary Fund.

Amassoma, D. (2014). The linkage between foreign aid and economic

growth in Nigeria. International Journal of Economic Practices and Theories, 4(6),

1007-1017.

Anoruo, E., & Ahmad, Y. (2001). Causal relationship between domestic

savings and economic growth: Evidence from seven African countries. African

Development Review, 13(2), 238-249.

Asteriou, D. (2009). Foreign aid and economic growth: New evidence from a

panel data approach for five South Asian countries. Journal of policy

modeling, 31(1), 155-161.

Attari, M. I. J., & Javed, A. Y. (2013). Inflation, economic growth and

government expenditure of Pakistan: 1980-2010. Procedia Economics and

Finance, 5, 58-67.

Bakari, S. (2017). The Long Run and Short Run Impacts of Exports on

Economic Growth: Evidence from Gabon.

Barro, R. J. (1991). Economic growth in a cross section of countries. The

quarterly journal of economics, 106(2), 407-443.

Batra, R., & Slottje, D. J. (1993). Trade Policy and Poverty In the United

States: Theory and Evidence, 1947‐1990. Review of International Economics, 1(3),

189-208.

Ben-David, D., & Loewy, M. B. (1998). Free trade, growth, and

convergence. Journal of economic growth, 3(2), 143-170.

Bengoa, M., & Sanchez-Robles, B. (2003). Foreign direct investment,

economic freedom and growth: new evidence from Latin America. European

journal of political economy, 19(3), 529-545.

Benhabib, J., & Spiegel, M. M. (2009). Moderate inflation and the deflation–

depression link. Journal of Money, Credit and Banking, 41(4), 787-798.

Bloom, D. E., Canning, D., & Sevilla, J. (2004). The effect of health on

economic growth: a production function approach. World development, 32(1), 1-13.

Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J. W. (1998). How does foreign

direct investment affect economic growth? 1. Journal of international

Economics, 45(1), 115-135.

Boyd, J. H., & Champ, B. (2006). Inflation, banking, and economic

growth. Federal Reserve Bank of Cleveland, 1-4.

Brander, J. A., & Dowrick, S. (1994). The role of fertility and population in

economic growth. Journal of Population Economics, 7(1), 1-25.

Brems, H. (1970). A growth model of international direct investment. The

American Economic Review, 60(3), 320-331.

Burnside, C., & Dollar, D. (2000). Aid, policies, and growth. American

economic review, 90(4), 847-868.

Busse, M., & Königer, J. (2012). Trade and economic growth: A re-

examination of the empirical evidence.

Butkiewicz, J. L., Yanikkaya, H., & Gebze, K. (2011). Institutions and the

impact of government spending on growth. Journal of Applied Economics, 14(2),

319.

Carroll, C. D., & Weil, D. N. (1994). Saving and growth: a reinterpretation.

In Carnegie-Rochester conference series on public policy (Vol. 40, pp. 133-192).

North-Holland.

Carroll, C. D., Overland, J., & Weil, D. N. (2000). Saving and growth with

habit formation. American Economic Review, 90(3), 341-355.

Chorn, S., & Siek, D. (2017). The Impact of Foreign Capital Inflow on

Economic Growth in Developing Countries. Journal of Finance and

Economics, 5(3), 128-135.

Chowdhury, A., & Mavrotas, G. (2005). FDI and growth: a causal

relationship (No. 2005/25). Research Paper, UNU-WIDER, United Nations

University (UNU).

De Mello, L. R. (1999). Foreign direct investment-led growth: evidence from

time series and panel data. Oxford economic papers, 51(1), 133-151.

Devarajan, S., Swaroop, V., & Zou, H. F. (1996). The composition of public

expenditure and economic growth. Journal of monetary economics, 37(2), 313-344.

Dollar, D., & Kraay, A. (2004). Trade, growth, and poverty. The Economic

Journal, 114(493), F22-F49.

Domar, E. D. (1946). Capital expansion, rate of growth, and

employment. Econometrica, Journal of the Econometric Society, 137-147.

Easterly, W. (2003). Can foreign aid buy growth?. Journal of economic

Perspectives, 17(3), 23-48.

Emmanuel, O. G., & Kehinde, A. J. O. S. E. Domestic Investment and

Economy Growth in Nigeria: An Empirical Investigation.

Erbaykal, E., & Okuyan, H. A. (2008). Does inflation depress economic

growth? Evidence from Turkey.

Fambon, S. (2013). Foreign capital inflow and economic growth in

Cameroon (No. 2013/124). WIDER Working Paper.

Fayissa, B., & El-Kaissy, M. I. (1999). Foreign aid and the economic growth

of developing countries (LDCs): Further evidence. Studies in Comparative

International Development, 34(3), 37-50.

Fetahi-Vehapi, M., Sadiku, L., & Petkovski, M. (2015). Empirical analysis

of the effects of trade openness on economic growth: An evidence for South East

European Countries. Procedia Economics and Finance, 19, 17-26.

Fischer, S. (1993). The role of macroeconomic factors in growth. Journal of

monetary economics, 32(3), 485-512.

Fölster, S., & Henrekson, M. (2001). Growth effects of government

expenditure and taxation in rich countries. European economic review, 45(8), 1501-

1520.

Ghosh, A., & Phillips, S. (1998). Warning: Inflation may be harmful to your

growth. Staff Papers, 45(4), 672-710.

Grier, K. B., & Tullock, G. (1989). An empirical analysis of cross-national

economic growth, 1951–1980. Journal of monetary economics, 24(2), 259-276.

Grossman, G. M., & Helpman, E. (1991). Quality ladders in the theory of

growth. The Review of economic studies, 58(1), 43-61.

Gui-Diby, S. L. (2014). Impact of foreign direct investments on economic

growth in Africa: Evidence from three decades of panel data analyses. Research in

Economics, 68(3), 248-256.

Hansen, H., & Tarp, F. (2001). Aid and growth regressions. Journal of

development Economics, 64(2), 547-570.

Harrod, R. F. (1939). An essay in dynamic theory. The economic

journal, 49(193), 14-33.

Hermes, N., & Lensink, R. (2003). Foreign direct investment, financial

development and economic growth. The Journal of Development Studies, 40(1),

142-163.

Herzer, D. (2010). Outward FDI and economic growth. Journal of Economic

Studies, 37(5), 476-494.

Herzer, D., & Klasen, S. (2008). In search of FDI-led growth in developing

countries: The way forward. Economic Modelling, 25(5), 793-810.

Iamsiraroj, S. (2016). The foreign direct investment–economic growth

nexus. International Review of Economics & Finance, 42, 116-133.

Jappelli, T., & Pagano, M. (1994). Saving, growth, and liquidity

constraints. The Quarterly Journal of Economics, 109(1), 83-109.

Karras, G. (2006). Foreign aid and long‐run economic growth: empirical

evidence for a panel of developing countries. Journal of International

Development: The Journal of the Development Studies Association, 18(1), 15-28.

Keho, Y. (2017). The impact of trade openness on economic growth: The

case of Cote d’Ivoire. Cogent Economics & Finance, 5(1), 1332820.

Kelley, A. C., & McGreevey, W. P. (1994). Population and development in

historical perspective.

Kneller, R., Bleaney, M. F., & Gemmell, N. (1999). Fiscal policy and

growth: evidence from OECD countries. Journal of Public Economics, 74(2), 171-

190.

Kormendi, R. C., & Meguire, P. G. (1985). Macroeconomic determinants of

growth: cross-country evidence. Journal of Monetary economics, 16(2), 141-163.

Kose, M. A., Prasad, E. S., & Terrones, M. E. (2009). Does openness to

international financial flows raise productivity growth?. Journal of International

Money and Finance, 28(4), 554-580.

Le, M. V., & Suruga, T. (2005). The effects of FDI and public expenditure

on economic growth: From theoretical model to empirical evidence. GSICS

WorNing Paper Series.

Leamer, E. E., & Levinsohn, J. (1995). International trade theory: the

evidence. Handbook of international economics, 3, 1339-1394.

Levine, R., & Renelt, D. (1991). Cross-country studies of growth and

policy. World Bank working paper, 608.

Li, X., & Liu, X. (2005). Foreign direct investment and economic growth: an

increasingly endogenous relationship. World development, 33(3), 393-407.

Lucas Jr, R. E. (1988). On the mechanics of economic development. Journal

of monetary economics, 22(1), 3-42.

Makki, S. S., & Somwaru, A. (2004). Impact of foreign direct investment

and trade on economic growth: Evidence from developing countries. American

Journal of Agricultural Economics, 86(3), 795-801.

Mallik, G., & Chowdhury, A. (2001). Inflation and economic growth:

evidence from four south Asian countries. Asia-Pacific Development Journal, 8(1),

123-135.

Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. N. (1992). A contribution to the

empirics of economic growth. The quarterly journal of economics, 107(2), 407-437.

McGillivray, M., & Feeny, S. (2008). Aid and growth in fragile states (No.

2008/03). Research Paper, UNU-WIDER, United Nations University (UNU).

Mierau, J. O., & Turnovsky, S. J. (2014). Demography, growth, and

inequality. Economic Theory, 55(1), 29-68.

Moreira, S. B. (2005). Evaluating the impact of foreign aid on economic

growth: A cross-country study. Journal of Economic Development, 30(2), 25-48.

Morrissey, O. (2001). Does aid increase growth?. Progress in development

studies, 1(1), 37-50.

Moyo, C., & Khobai, H. (2018). Trade openness and economic growth in

SADC countries.

Musila, J. W., & Yiheyis, Z. (2015). The impact of trade openness on

growth: The case of Kenya. Journal of Policy Modeling, 37(2), 342-354.

Nair‐Reichert, U., & Weinhold, D. (2001). Causality tests for cross‐country

panels: a New look at FDI and economic growth in developing countries. Oxford

bulletin of economics and statistics, 63(2), 153-171.

Njoupouognigni, M. (2010). Foreign aid, foreign direct investment and

economic growth in Sub-Saharan Africa: Evidence from pooled mean group

estimator (PMG). International journal of economics and finance, 2(3), 39.

Nurudeen, A., & Usman, A. (2010). Government expenditure and economic

growth in Nigeria, 1970-2008: A disaggregated analysis. Business and Economics

Journal, 2010(4), 1-11.

Odhiambo, N. M. (2009). Electricity consumption and economic growth in

South Africa: A trivariate causality test. Energy Economics, 31(5), 635-640.

Papanek, G. F. (1973). Aid, foreign private investment, savings, and growth

in less developed countries. Journal of political Economy, 81(1), 120-130.

Ram, R. (1986). Government size and economic growth: A new framework

and some evidence from cross-section and time-series data. The American

Economic Review, 76(1), 191-203.

Rapach, D. E. (2003). International evidence on the long-run impact of

inflation. Journal of Money, Credit and Banking, 23-48.

Rebelo, S. (1991). Long-run policy analysis and long-run growth. Journal of

political Economy, 99(3), 500-521.

Rodrik, D. (1992). The limits of trade policy reform in developing

countries. Journal of Economic Perspectives, 6(1), 87-105.

Rodrik, D. (2000). Institutions for high-quality growth: what they are and

how to acquire them. Studies in comparative international development, 35(3), 3-

31.

Romer, P. M. (1986). Increasing returns and long-run growth. Journal of

political economy, 94(5), 1002-1037.

Seetanah, B., & Khadaroo, A. J. (2007). foreign direct investment and

growth: New evidences from Sub-Saharan African countries. University of

Mauritius, 27.

Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. The

quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.

Stockman, A. C. (1981). Anticipated inflation and the capital stock in a cash

in-advance economy. journal of Monetary Economics, 8(3), 387-393.

Tang, K. B., & Bundhoo, D. (2017). Foreign Aid and Economic Growth in

Developing Countries: Evidence from Sub-Saharan Africa. Theoretical Economics

Letters, 7(05), 1473.

Tobin, J. (1965). Money and economic growth. Econometrica: Journal of the

Econometric Society, 671-684.

Trejos, S., & Barboza, G. (2015). Dynamic estimation of the relationship

between trade openness and output growth in Asia. Journal of Asian Economics, 36,

110-125.

Tumwebaze, H. K., & Ijjo, A. T. (2015). Regional economic integration and

economic growth in the COMESA region, 1980–2010. African Development

Review, 27(1), 67-77.

Vamvakidis, A. (2002). How robust is the growth-openness connection?

Historical evidence. Journal of Economic Growth, 7(1), 57-80.

Verma, R. (2007). Savings, investment and growth in India: an application of

the ARDL bounds testing approach. South Asia Economic Journal, 8(1), 87-98.

Villaverde, J., & Maza, A. (2011). Globalisation, growth and

convergence. The World Economy, 34(6), 952-971.

PHỤ LỤC 01. DANH SÁCH CÁC QUỐC GIA TRONG MẪU

NGHIÊN CỨU

STT Quốc gia Khu vực

1 Armenia Trung Á

2 Bangladesh Nam Á

3 Bhutan Nam Á

4 Brunei Darussalam Đông Á -Thái Bình Dương

5 Cambodia Đông Á -Thái Bình Dương

6 China Đông Á -Thái Bình Dương

7 Fiji Đông Á -Thái Bình Dương

8 Hong Kong SAR, China Đông Á -Thái Bình Dương

9 India Nam Á

10 Indonesia Đông Á -Thái Bình Dương

11 Kazakhstan Trung Á

12 Korea, Rep. Đông Á -Thái Bình Dương

13 Kyrgyz Republic Trung Á

14 Lao PDR Đông Á -Thái Bình Dương

15 Macao SAR, China Đông Á -Thái Bình Dương

16 Malaysia Đông Á -Thái Bình Dương

17 Marshall Islands Đông Á -Thái Bình Dương

18 Mongolia Đông Á -Thái Bình Dương

19 Nepal Nam Á

20 Pakistan Nam Á

21 Philippines Đông Á -Thái Bình Dương

22 Russian Federation Trung Á

23 Singapore Đông Á -Thái Bình Dương

24 Sri Lanka Nam Á

25 Tajikistan Trung Á

26 Thailand Đông Á -Thái Bình Dương

27 Tonga Đông Á -Thái Bình Dương

28 Turkey Trung Á

29 Turkmenistan Trung Á

30 Uzbekistan Trung Á

31 Vanuatu Đông Á -Thái Bình Dương

32 Vietnam Đông Á -Thái Bình Dương

PHỤ LỤC 02. KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH

Thống kê mô tả

Ma trận tương quan

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn FDI

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và

dòng vốn FDI

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn AID

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và

dòng vốn AID

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn FDI và AID

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và

dòng vốn FDI và AID

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn FDI

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR

và dòng vốn FDI

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn AID

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR

và dòng vốn AID

Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn FDI và AID

Kiểm tra phương sai thay đổi

Kiểm tra tự tương quan

Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR

và dòng vốn FDI và AID