BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _________________________
LÊ NGỌC THÙY NỮ TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN NƢỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _________________________
LÊ NGỌC THÙY NỮ TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN NƢỚC NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
thông tin sử dụng trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 9 năm 2018
Lê Ngọc Thùy Nữ
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
TÓM TẮT
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 3
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
1.5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN ..................................................................................... 6
2.1. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................... 6
2.1.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................... 6
2.1.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài ................................................................ 8
2.1.3. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế ............................................... 9
2.1.4. Lý thuyết giải thích sự tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ..................................................................................................... 12
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan .................................................. 14
2.2.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế .............. 14
2.2.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế .......................... 20
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................... 31
3.1. Quy trình chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu ................................... 31
3.2. Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 31
3.3. Mô tả biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu ....................................................... 33
3.3.1. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................. 34
3.3.2. Dòng vốn viện trợ nước ngoài .............................................................. 35
3.3.3. Lạm phát ............................................................................................... 36
3.3.4. Tiết kiệm nội địa ................................................................................... 37
3.3.5. Đầu tư nội địa........................................................................................ 38
3.3.6. Độ mở thương mại ................................................................................ 39
3.3.7. Chi tiêu chính phủ ................................................................................. 40
3.3.8. Tăng trưởng dân số ............................................................................... 42
3.4. Phương pháp hồi quy ................................................................................... 43
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 45
4.1. Thống kê mô tả và ma trận tương quan ....................................................... 45
4.2. Kiểm định phương pháp hồi phù hợp .......................................................... 50
4.3. Thảo luận kết quả ........................................................................................ 51
4.3.1. Biến phụ thuộc GDPGR ....................................................................... 51
4.3.2. Biến phụ thuộc GDPPCGR .................................................................. 59
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH ......................... 68
5.1. Kết luận ........................................................................................................ 68
5.2. Các hàm ý chính sách .................................................................................. 70
5.3. Hạn chế đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................ 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
ODA (Official Development Assistance): Hỗ trợ phát triển chính thức.
GMM (General Method of Moments): Phương pháp Moments tổng quát.
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội.
GNP (Gross National Product): Tổng sản lượng quốc gia.
OLS (Ordinary Least Square): Phương pháp bình phương nhỏ nhất.
2SLS (Two-Stage Least Squares): Phương pháp hồi quy 2 giai đoạn.
OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ................................ 26
Bảng 3.1. Mô tả biến ................................................................................................. 33
Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến ............................................................................ 45
Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc .................. 49
Bảng 4.3. Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi và tự tương quan .......................... 51
Bảng 4.4. Kết quả tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
GDPGR ..................................................................................................................... 53
Bảng 4.5. Kết quả ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
GDPPCGR ................................................................................................................ 61
TÓM TẮT
Tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
vẫn là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Bên cạnh các quan điểm cho
rằng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì vẫn tồn tại nhiều quan
điểm cho rằng các dòng vốn nước ngoài này không có tác động tích cực hoặc thậm
chí có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia tiếp nhận.
Luận văn nghiên cứuc tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát
triển ở Châu Á giai đoạn 1990 - 2016, sử dụng phương pháp hồi quy GMM, với dữ
liệu thu thập dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới (World
Bank).
Kết quả nghiên cứu phát hiện rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước
ngoài chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con
người tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện
chính sách một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng
thể chế đủ mạnh (Durham, 2004). Từ đó, kết quả nghiên cứu góp phần tạo cơ sở cho
các nhà hoạch định chính sách xây dựng các chính sách thu hút, quản lý và sử dụng
hiệu quả các dòng vốn nước ngoài, hạn chế gây ra sự lãng phí cũng như làm gia
tăng vấn đề tham nhũng, trục lợi, làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
đang phát triển.
Từ khóa: Dòng vốn nước ngoài, tăng trưởng kinh tế, các quốc gia đang phát
triển Châu Á, GMM.
1
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Một trong những yếu tố then chốt trong quá trình toàn cầu hóa hay hội nhập
toàn cầu của nền kinh tế thế giới là dòng vốn nước ngoài (Chorn và Siek, 2017).
Theo đó, trước tình hình thiếu hụt nguồn vốn trong nước để tài trợ cho sự phát triển
trong dài hạn, hầu hết các quốc gia đang phát triển phụ thuộc đáng kể vào nguồn tài
chính bên ngoài. Điều này dẫn đến việc gia tăng nhu cầu vốn nước ngoài để bổ sung
cho các nguồn lực trong nước và được xem như là yếu tố quan trọng đối với sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển (Chorn và Siek, 2017).
Trong đó, nguồn viện trợ nước ngoài và nguồn vốn đầu tư nước ngoài là các nguồn
vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế tại các quốc gia
đang phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong các nguồn vốn quan
trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế của quốc gia bởi nguồn vốn này có khả năng
tạo ra sự thuận lợi khi thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ kỹ thuật, kiến
thức, kỹ năng và sự đổi mới của các quốc gia đã phát triển đến các quốc gia đang
phát triển, do đó có thể giúp các quốc gia nhận nguồn vốn này thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng kinh tế cũng như mức độ phát triển kinh tế của quốc gia (Borensztein và các
cộng sự, 1998; Makki và Somwaru, 2004; Chowdhury và Mavrotas, 2005). Cũng
như Moreira (2005) đã lập luận rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không
chỉ lan truyền công nghệ, mà còn thúc đẩy sự hình thành vốn con người, góp phần
hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo ra môi trường kinh tế cạnh tranh và tăng cường sự
phát triển của các doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thật sự quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế
của các quốc gia đang phát triển (Chorn và Siek, 2017) và có lẽ có tác động mạnh
hơn so với tác động của đầu tư nội địa đến tăng trưởng kinh tế (Bengoa và Sanchaez
– Robles, 2003; Hermes và Lensink, 2003; Li và Xiu, 2005; Alguacil và các cộng
sự, 2011).
2
Bên cạnh đó, nguồn viện trợ nước ngoài cũng thường được dịch chuyển từ
các quốc gia đã phát triển đến các quốc gia đang phát triển bằng cách trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua các tổ chức nhằm mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
(Chorn và Siek, 2017). Do đó, viện trợ nước ngoài có thể đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng tiềm tàng của quốc gia nhận viện trợ. Hơn thế nữa, viện trợ nước ngoài có
thể cải thiện tốc độ tăng trưởng ổn định của quốc gia bằng cách mang lại sự chuyển
giao công nghệ kỹ thuật, kiến thức, khuyến khích cơ chế quản trị tốt hơn và nâng
cao tay nghề, kích thích đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người (Morrissey, 2001;
Adamu, 2013). Easterly (2003) tin rằng nhiều quốc gia đang phát triển có môi
trường kinh doanh tương đối nguy hiểm đối với các nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, và do đó nguồn viện trợ nước ngoài sẽ đóng vai trò quan trọng đối với
việc góp phần vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kinh tế ở các quốc
gia đang phát triển. Hansen và Tarp (2001) cho thấy rằng viện trợ nước ngoài không
chỉ có thể làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư của quốc gia mà còn có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia mà thậm chí quốc gia đó bị
cản trở bởi một môi trường chính sách bất lợi. Moreira (2005), Karras (2006),
Ndambendia (2010) cũng đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy tồn tại mối quan
hệ cùng chiều giữa nguồn viện trợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
đang phát triển, trong khi đó, Fambon (2013) lại cho thấy trong trường hợp ở
Cameroon, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tác động tích cực và đáng kể
tới tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, tuy nhiên, nguồn viện trợ nước
ngoài thì không có tác động đáng kể tới tăng trưởng kinh tế mặc dù ảnh hưởng này
vẫn là ảnh hưởng tích cực. Mặt khác, ngoài những ưu điểm mà nguồn viện trợ nước
ngoài mang đến cho các quốc gia đang phát triển, thì nguồn viện trợ nước ngoài lại
có sự tác động tiêu cực tới nền kinh tế của các quốc gia này bao gồm việc nhập
khẩu các công nghệ không phù hợp, bóp méo thu nhập quốc gia nhận đầu tư, và
khuyến khích chính phủ thực hiện các hành vi tham nhũng ở các quốc gia đang phát
triển (Chorn và Siek, 2017).
3
Từ đây có thể thấy rằng, dòng vốn nước ngoài bao gồm dòng viện trợ nước
ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tác động đáng kể tới tăng
trưởng kinh tế tại các quốc gia và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Cho nên,
học viên lựa chọn đề tài “Tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng
kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á” làm đề tài luận văn thạc sỹ với
mong muốn tìm hiểu rõ tác động của nguồn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu
Á.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xác định tác động của dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài và nguồn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia đang phát triển ở Châu Á. Qua đó, bài nghiên cứu giúp các nhà hoạch
định có cái nhìn tổng quan về tầm quan trọng của các dòng vốn quốc tế đến tăng
trưởng kinh tế,từ đó đưa ra những chính sách phù hợp để phát triển quốc gia một
cách bền vững.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn đề xuất các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
- Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh tế tại
các quốc gia đang phát triển ở Châu Á hay không?
- Nếu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh
tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á thì đó là tác động tích cực (+) hay tiêu
cực (-)?
- Dòng vốn viện trợ nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia đang phát triển ở Châu Á hay không?
4
- Nếu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tới tăng trưởng kinh
tế tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á thì đó là tác động tích cực (+) hay tiêu
cực (-)?
- Những chính sách gì được khuyếnh nghị để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, cũng như thu hút và sử dụng hiệu quả
các dòng vốn nước ngoài?
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong luận văn là tăng trưởng kinh tế,
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng viện trợ nước ngoài và các yếu tố kinh
tế vĩ mô khác quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, dòng viện trợ nước ngoài và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác
quyết định tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai
đoạn 1990 – 2016.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài (bao gồm dòng vốn viện
trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia, luận văn áp dụng mô hình nghiên cứu của Alguacil và các cộng sự
(2011), Chorn và Siek (2017). Đồng thời, để giải quyết mục tiêu nghiên cứu và câu
hỏi nghiên cứu mà luận văn đã đề cập, luận văn sử dụng phương pháp GMM với ưu
điểm có thể giải quyết vấn đề nội sinh (do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ
thuộc và mối tương quan hai chiều giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế), vấn đề tự tương quan và vấn đề phương sai thay đổi.
5
Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 05 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương 2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương 5. Kết luận
6
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là dòng vốn đầu tư của
một nhà đầu tư nước ngoài để có được quyền kiểm soát lâu dài đối với việc quản lý
doanh nghiệp, và phải chiếm ít nhất 10% cổ phần có quyền biểu quyết trong một
doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế không phải quốc gia của nhà đầu tư
đang kinh doanh. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là tổng vốn
cổ phần, và bao gồm các khoản tái đầu tư của lợi nhuận, vốn dài hạn khác, và vốn
ngắn hạn. Các thành phần này có thể theo dõi trong cán cân thanh toán của một
quốc gia (World Bank, 2013). Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đo
lường dưới dạng cổ phiếu hoặc dòng vốn. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
dưới dạng cổ phiếu là dòng vốn tích lũy của nhà đầu tư có ở một quốc gia trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
dưới dạng dòng vốn thì là những gì mà nhà đầu tư tạo ra trong một năm cụ thể, do
đó, ở dưới dạng dòng vốn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng chảy
ra hoặc chảy vào quốc gia trong một năm cụ thể.
Hơn thế nữa, theo Dunning và Lundan (2008), dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thường bắt đầu với các động cơ, mục đích khác nhau của các công ty đa
quốc gia. Chẳng hạn như tìm kiếm thị trường tiềm năng mới, tìm kiếm nguồn tài
nguyên thiên nhiên, tìm kiếm các kiến thức mới và tìm kiếm sự hiệu quả mới. Trong
đó, mục đích tìm kiếm thị trường mới có thể hiểu như là khi các công ty đa quốc gia
thực hiện đầu tư sang các thị trường mới để có được một thị trường kinh doanh lớn
hơn. Khi các công ty đa quốc gia thực hiện đầu tư ở các quốc gia với mục đích khai
thác tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia nhận đầu tư như dầu mỏ, vàng, quặng
sắt…thì đây được xem như là mục đích tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời,
7
nếu các công ty đa quốc gia thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài để có thể cải thiện
kỹ năng thông qua việc nghiên cứu và phát triển cũng như có thể cải tiến công nghệ
sản xuất kinh doanh thì đây được xem như là tìm kiếm kiến thức. Cuối cùng, tìm
kiếm hiệu quả được xem như là động cơ chính mà các công ty đa quốc gia thực hiện
di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh đến những quốc gia đang phát triển nơi mà họ
có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất do lực lượng lao
động giá rẻ ở các quốc gia đang phát triển.
* Vai trò của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các quốc gia tiếp
nhận
Đầu tiên, FDI là đóng vai trò quan trọng, được xem như nguồn vốn nhằm bù
đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực tăng trưởng và phát triển. Tiếp
nhận số lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài đối với các nước đang phát triển không
chỉ tác động đến tổng cầu, mà còn tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Đối với
tổng cầu của nền kinh tế, khi có những biến đổi bất thường trong đầu tư sẽ có ảnh
hưởng khá lớn về sản lượng cũng như thu nhập trong ngắn hạn. Đối với tổng cung,
vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, các năng lực mới đi vào hoạt động sẽ làm cho
tổng cung tăng lên, nhất là tổng cung trong dài hạn, dẫn đến tăng sản lượng tiềm
năng, từ đó, giảm giá sản phẩm. Khi tăng sản lượng và giảm giá góp phần thúc đẩy
tăng tiêu dùng, điều này kích thích phát triển sản xuất. Đây chính là động lực để
tăng tích lũy, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập và nâng cao chất
lượng cuộc sống xã hội.
Thứ hai, FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ tác động và thay đổi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói tại các nước đang
phát triển, vì đó là nguyên nhân làm cho quy mô đầu tư bị hạn chế và kỹ thuật chậm
cải tiến trong thời kỳ khoa học - kỹ thuật trên thế giới cũng như lực lượng sản xuất
đang phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, để tận dụng được tối đa lợi thế, tiềm năng,
quốc gia cần phải mở cửa giao thương với các nước nhằm tậm dụng những cơ hội
phát huy và củng cố tiềm năng của quốc gia mình.
8
Thứ ba, FDI có thể làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài giúp giải quyết sự chênh lệch giữa các vùng, khu vực, lãnh thổ, góp phần hỗ
trợ các khu vực phát triển kém xóa đói, giảm nghèo. Thu hút đầu tư góp phần phát
huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị,… của các
vùng. Từ đó, thay đổi cơ cấu các ngành, cơ cấu lao động…, góp phần đáp ứng các
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội tốt hơn.
Cuối cùng, FDI góp phần phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ của
quốc gia. Các công ty đã thực hiện chuyển giao các công nghệ từ quốc gia của mình
hay từ quốc gia khác cho quốc gia tiếp nhận đầu tư thông qua FDI. Thông qua thu
hút đầu tư nước ngoài, các quốc gia nhận được vốn đầu tư nước ngoài sẽ nhận được
những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, đồng thời, nâng cao kỹ năng quản lý, chất
lượng lao động.
2.1.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài
Dòng vốn viện trợ phát triển chính thức hay còn được gọi là dòng vốn viện
trợ nước ngoài là một trong các dòng vốn nước ngoài bên cạnh dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và dòng vốn kiều hối (Makori và các cộng sự, 2015). Dòng vốn
viện trợ phát triển chính thức chảy từ các quốc gia đã phát triển hoặc các tổ chức thế
giới đến các quốc gia đang phát triển dưới hình thức các khoản vay, các khoản ưu
đãi về tài chính và trợ cấp.
Dòng vốn viện trợ phát triển chính thức được chia làm hai loại chính: (1) các
khoản vay hoặc trợ cấp được cấp bởi một nhà tài trợ (viện trợ song phương) và (2)
các khoản vay hoặc trợ cấp được cấp bởi nhiều nhà tài trợ (viện trợ đa phương)
(Ekanayake và Chatrna, 2008). Trong đó, viện trợ song phương được các cơ quan
của các nước viện trợ thực hiện, chẳng hạn như Cơ quan hỗ trợ Phát triển chính
thức của New Zealand (NZODA), Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID)
hoặc Cơ quan Phát triển Quốc tế của Thụy Điển (SODA) và những quốc gia khác
(Makori và các cộng sự, 2015). Trong khi đó, viện trợ đa phương là nguồn tài trợ
hoặc nguồn vốn xuất phát từ các quốc gia phát triển nhưng được quản lý thông qua
9
các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng
Thế giới (WB) hoặc các tổ chức chuyên môn khác như Tổ chức Lương thực và
Nông nghiệp (FAO) hoặc Chương trình Lương thực Thế giới (WFP)… (Karras,
2006; OECD, 2012; Jayaraman và các cộng sự, 2016).
* Vai trò của dòng vốn viện trợ nước ngoài đối với các quốc gia nhận viện
trợ
Đầu tiên, ODA góp phần mang lại nguồn lực cho các quốc gia đang phát
triển. Do phần lớn các quốc gia này phần lớn thiếu vốn nên khi có dòng vốn viện trợ
vào quốc gia sẽ góp phần bổ sung thêm nguồn lực phục vụ yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội. Bên cạnh đó, nguồn viện trợ chảy vào các quốc gia đang phát triển giúp
tăng vốn đầu tư và ngoại tệ, tạo điều kiện cho các quốc gia này tiếp cận thêm vốn từ
các tổ chức quốc tế khác và đủ khả năng trả các khoản nợ đến hạn.
Thứ hai, ODA cũng được xem là một trong các yếu tố hỗ trợ các quốc gia
đang đối mặt với việc đồng nội tệ bị phá giá có khả năng khôi phục giá trị đồng tiền
của quốc gia mình thông qua các khoản viện trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế.
Thứ ba, ODA hỗ trợ vốn cho các công ty nhỏ trong nước, giúp hoạt động sản
xuất kinh doanh được phát triển thông qua hiệu quả đầu tư các nguồn vốn, thúc đẩy
mở rộng quy mô của doanh nghiệp.
Cuối cùng, ODA giúp các quốc gia tiếp nhận viện trợ được nhập khẩu các
thiết bị, máy móc cần thiết từ các nước phát triển phục vụ cho quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, quốc gia tiếp nhận viện trợ có khả năng gia
nhập các tổ chức tài chính thế giới thông qua quốc gia viện trợ ODA, cũng như tạo
điều kiện nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính khác trên thế giới.
2.1.3. Một số quan điểm về tăng trƣởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hay tổng sản lượng quốc gia (GNP) hay quy mô sản lượng quốc gia bình quân trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
10
Tăng trưởng kinh tế được xét phụ thuộc 2 quá trình gồm: sự tích lũy tài sản
như vốn, lao động, đất đai và việc đầu tư vào các tài sản này có năng suất hơn.
Trong đó, trọng tâm là đầu tư và tiết kiệm, tuy nhiên, chỉ khi đầu tư có hiệu quả thì
mới có thể thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, các yếu tố có vai trò nhất định tác động
đến tăng trưởng kinh tế phải kể đến là các chính sách của chính phủ, thể chế, chính
trị ổn định, kinh tế bền vững, đặc điểm địa lý, trình độ giáo dục và y tế.
Đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa
quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế
kỳ trước, và tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng phần trăm (%).
Cụ thể như sau:
y = dY/Y × 100(%)
Trong đó, Y là quy mô của nền kinh tế và y là tốc độ tăng trưởng. Tốc độ
tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa được tính khi quy mô kinh tế được xác
định bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa. Tương tự, tốc độ tăng trưởng GDP (hay
GNP) thực tế khi quy mô kinh tế được xác định bằng GDP (hay GNP) thực tế.
Các nhà kinh tế học đã dùng các mô hình kinh tế nhằm giải thích nguồn gốc
tăng trưởng kinh tế, cụ thể:
Mô hình tăng trưởng cổ điển do David Ricardo (1772-1823) kế thừa và phát
triển trên cơ sở quan điểm của Adam Smith (1723 - 1790). Mô hình được đưa luận
điểm là đất sản xuất là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Ông cho rằng đất sản
xuất bị giới hạn nên cần phải sản xuất trên vùng đất xấu hơn để tăng diện tích, do
đó, lợi nhuận ngày càng giảm kéo theo chí phí sản xuất tăng cao, giá nông sản tăng,
tăng tiền lương danh nghĩa và giảm lợi nhuận. Trong khi đó, nguồn tích lũy để phát
triển sản xuất chính là lợi nhuận, từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Điều này cho thấy
rằng, vì diện tích đất bị giới hạn nên kéo theo lợi nhuận của người nông dân cũng
như người công nhân bị giảm, làm cho tăng trưởng kinh tế bị ảnh trưởng. Tuy
nhiên, khi đạt mức tăng trưởng càng cao thì mô hình không còn giải thích được
nguồn gốc của tăng trưởng.
11
Mô hình hai khu vực giải thích rằng tăng trưởng kinh tế chính là kết quả của
sự tăng trưởng ở cả khu vực nông nghiệp lẫn khu vực công nghiệp, trong đó, lao
động được xem là yếu tố chính, đầu tư làm tăng năng suất và khoa học - kỹ thuật
trên khu vực nông nghiệp và công nghiệp cũng là yếu tốt góp phần tăng trưởng kinh
tế. Đại diện cho mô hình này gồm có mô hình Lewis, mô hình tăng trưởng Tân cổ
điển và mô hình hai khu vực của Harry T. Oshima.
Mô hình Harrod - Domar cho rằng khi tăng số lượng vốn đầu tư phát triển
sản xuất chính là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng của Robert Solow (1956) giải thích rằng khi vốn sản
xuất tăng lên, trong ngắn hạn sẽ làm ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, còn trong
dài hạn lại không làm ảnh hưởng. Khi đó, tăng trưởng kinh tế sẽ đạt được trạng thái
dừng. Khi tỷ lệ tiết kiệm cao hơn, nền kinh tế có thể đạt mức sản lượng cao hơn
nhưng trong dài hạn sẽ không làm ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng Kaldor cho rằng khoa học - kỹ thuật phát triển hay công
nghệ phát triển sẽ làm tăng trưởng kinh tế, đồng thời, ngoài yếu tố vốn sản xuất,
tăng trưởng kinh tế còn tùy thuộc vào trình độ phát triển công nghệ.
Mô hình Tân cổ điển giải thích rằng nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc
vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào là vốn(K) và lao động (L).
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes, với mô hình Harrod - Domar tiêu
biểu.Theo đó, 2 giả thiết căn bản của mô hình là giá không biến động và nền kinh tế
có thể ở tình trạng toàn dụng lao động hoặc không. Tăng lượng vốn (K) đưa vào sản
xuất chính là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế của mô hình. Các nhà kinh tế học giải
thích rằng nền kinh tế sẽ ngày càng mất cân bằng khi chuyển từ trạng thái tăng
trưởng cân bằng sang trạng thái tăng trưởng mất cân bằng.
Bên cạnh đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển được hình thành trên nền tăng
giả thiết gồm giá cả linh hoạt và nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng lao động. CÁc
nhà kinh tế học sử dụng mô hình để cho thấy rằng nền kinh tế chỉ mất cân bằng tạm
12
thời và sớm khôi phục trạng thái cân bằng khi đang từ trạng thái tăng trưởng cân
bằng chuyển sang trạng thái tăng trưởng mất cân bằng.
2.1.4. Lý thuyết giải thích sự tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến
tăng trƣởng kinh tế
Có hai lý thuyết chính để giải thích tại sao nguồn vốn nước ngoài có tác động
tích cực tới tăng trưởng kinh tế: lý thuyết tích lũy vốn và lý thuyết lan tỏa công
nghệ. Trong đó, lý thuyết tích lũy vốn cho rằng nguồn vốn nước ngoài được xem
như như là công cụ bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế nhận được nguồn vốn này.
Trong khi đó, lý thuyết lan toả công nghệ cho rằng nguồn vốn nước ngoài có thể tác
động đến tăng trưởng kinh tế qua kênh lan tỏa kiến thức/công nghệ kỹ thuật từ các
quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển.
Đầu tiên, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển được đề xuất bởi Solow (1956)
cho rằng sự gia tăng trong vốn khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng,
và kết quả là sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Khi nguồn vốn
nước ngoài là một nguồn vốn vật chất cho nước nhận đầu tư, thì việc gia tăng nguồn
vốn nước ngoài sẽ làm gia tăng lượng vốn khả dụng cho quá trình sản xuất. Cho
nên, theo khung lý thuyết tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế, một sự gia tăng trong
nguồn vốn nước ngoài sẽ góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của quốc gia và
khi đó nguồn vốn nước ngoài sẽ đóng vai trò như một nguồn vốn bổ sung cho lượng
vốn khả dụng của quốc gia. Tuy nhiên, giả sử rằng lợi nhuận của vốn đầu tư giảm
dần theo thời gian, tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế không ổn định trong dài hạn. Điều này hàm ý rằng, theo lý thuyết tăng
trưởng tân cổ điển thì nguồn vốn nước ngoài chỉ đóng vai trò làm động lực tăng
trưởng kinh tế trong ngắn hạn (Brems, 1970).
Bên cạnh đó, lý thuyết lan toả công nghệ cho rằng nguồn vốn nước ngoài có
thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua kênh lan tỏa kiến thức/công nghệ kỹ
thuật từ các quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Khi đó, vai trò
của nguồn vốn nước ngoài như là một công cụ khuếch tán công nghệ hoặc kiến
13
thức, điều này ngụ ý rằng, nguồn vốn nước ngoài sẽ tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế (Borensztein và các cộng sự, 1998), đặc biệt là trong khung lý thuyết
tăng trưởng kinh tế nội sinh được Romer (1986) đề xuất, lý thuyết này nhấn mạnh
sự tích lũy của kiến thức như là một động cơ đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của quốc
gia. Kinoshita (1999) đã cho rằng quá trình khuếch tán kiến thức/công nghệ từ các
quốc gia đã phát triển sang các quốc gia đang phát triển có thể thực hiện theo một
trong 04 dạng sau: hiệu ứng sao chép, hiệu ứng đào tạo, hiệu ứng liên kết và hiệu
ứng cạnh tranh. Khi công ty từ các quốc gia đã phát triển thành lập công ty con hoặc
nhà máy ở các quốc gia đang phát triển, các công ty có thể giới thiệu các công nghệ
kỹ thuật tiên tiến/hiệu quả đến thị trường nội địa. Thông qua việc tương tác trên thị
trường, các nhà sản xuất nội địa có thể sao chép các công nghệ kỹ thuật cao này và
tiến hành thực hiện sản xuất dựa trên các công nghệ này, điều này sẽ làm gia tăng
sản lượng thông qua việc sử dụng công nghệ kỹ thuật hiệu quả hơn từ các công ty
ngoài nước. Cơ chế này được gọi là hiệu ứng sao chép. Hiệu ứng đào tạo cho thấy
rằng các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tiến hành đào tạo lực lượng lao động ở quốc
gia nhận đầu tư để tận dụng tốt các công nghệ kỹ thuật tiên tiến mà họ đã giới thiệu
ở thị trường nội địa. Sự giáo dục mà người lao động nhận được sẽ tạo ra sự gia tăng
trong lượng kiến thức của quốc gia nhận đầu tư, điều này sẽ dẫn đến sản lượng cao
hơn và thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn.
Tiếp theo, hiệu ứng liên kết được thực hiện khi các công ty nội địa mua hàng
hóa trung gian từ các công ty nước ngoài. Nếu các nguyên liệu đầu vào này tiên tiến
hơn so với các nguyên liệu có sẵn cho các công ty nội địa ở trước đây, thì các doanh
nghiệp nước ngoài có thể gián tiếp nâng cấp công nghệ - kỹ thuật của các công ty
nội địa, điều này sẽ kéo sản lượng công ty gia tăng và kết quả là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Cuối cùng, khi các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động hiệu quả hơn, thì các
doanh nghiệp này có thể làm gia tăng tính cạnh tranh trong thị trường hoạt động,
đặc biệt là tại các thị trường mà các công ty nội địa đang hoạt động độc quyền trước
đây. Hiệu ứng cạnh tranh xảy ra khi sự gia tăng trong tính cạnh tranh của thị trường
14
bắt buộc các công ty nội địa phải hoạt động hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất
hoặc đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào việc nâng cấp công nghệ kỹ thuật của công ty.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
2.2.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và tăng trƣởng kinh tế
Borensztein và các cộng sự (1998) đã kiểm tra ảnh hưởng của dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển trong
giai đoạn 1970 - 1989. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ
liệu dạng bảng bảo gồm 69 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô hình nghiên
cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến
độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn con người, chi tiêu
chính phủ, lạm phát, chất lượng thể chế, độ sâu tài chính. Sau đó, nghiên cứu đã tiến
hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS và
tìm thấy rằng bản thân dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không có tác động
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Nhưng dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của quốc gia
thông qua việc chuyển giao công nghệ. Cụ thể, tác giả cũng chỉ ra rằng hiệu ứng
tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế chỉ được
tìm thấy ở những quốc gia nhận đầu tư có đủ vốn con người. Các tác giả cũng lập
luận rằng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của quốc gia nhận đầu tư khi quốc gia có đủ năng lực hấp thụ được các công
nghệ tiên tiến mà các nhà đầu tư đưa vào các quốc gia này.
De Mello (1999) đã giải thích ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn 1970 –
1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao
gồm 32 quốc gia thuộc OECD và không thuộc OECD trên thế giới. Đồng thời, mô
hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc
và các biến độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư nội địa.
Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi
15
quy OLS, và các tác giả phát hiện rằng tác động tích cực của dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia phụ thuộc vào mức độ thay
thế và bổ sung giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nội địa của các
quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Hơn thế nữa, nghiên cứu của tác giả cũng cho rằng
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
thông qua quá trình tích lũy vốn và chuyển giao công nghệ, mà còn có thể ảnh
hưởng đến tăng trưởng thông qua sự gia tăng kiến thức do đào tạo lao động và các
kỹ năng mềm. Mặt khác, nghiên cứu cũng xác định rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp
ngoài chỉ có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thuộc
OECD và không có tác động đáng kể tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia không
thuộc OECD.
Benoga và Sanchez - Robles (2003) giải thích tác động của dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài và tự do kinh tế tới tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Mỹ
Latinh trong giai đoạn 1970 – 1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu
nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 19 quốc gia ở Mỹ Latinh. Đồng thời, mô
hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc
và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, vốn con người, chỉ số tự do kinh
tế, chi tiêu chính phủ, lạm phxát. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình
nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS và tìm thấy rằng dòng vốn
đầu tư trực tiếp có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu với mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng, các quốc
gia thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng nhiều càng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tại các quốc gia sở tại. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy rằng vốn
con người, chỉ số tự do kinh tế có tương quan dương với tăng trưởng kinh tế tại các
quốc gia tại mức ý nghĩa 10%. Ngược lại, lạm phát và chi tiêu chính phủ lại cho
thấy mối tương quan âm với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa
10%. Hơn thế nữa, các tác giả cũng cho rằng chỉ số tự do kinh tế, nợ công và lạm
phát có tác động đáng kể đến chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
16
Makki và Somwaru (2004) đã kiểm tra ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và độ mở thương mại tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang
phát triển trong giai đoạn 1971 - 2001. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu
nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 66 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô
hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc
và các biến độc lập bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở thương
mại, vốn con người, đầu tư nội địa, lạm phát, chi tiêu chính phủ và thuế. Sau đó,
nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi quy
dường như không liên quan (SUR) và phương pháp hồi quy ba bước (3SLS) và tìm
thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực tới tăng trưởng
kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng chính sách thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể giúp quốc gia cải thiện tăng trưởng kinh tế. Hơn
thế nữa, nghiên cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy vai trò của vốn con
người đối với hiệu ứng tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế như Borensztein và các cộng sự (1998) đã tìm thấy trước đó. Nhưng
các tác giả lại phát hiện rằng, các quốc gia sở tại sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn từ
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu độ mở thương mại quốc gia tương đối lớn.
Chowdhury và Mavrotas (2005) phân tích mối quan hệ giữa dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong
giai đoạn 1969 – 2000. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ
liệu dạng bảng bao gồm 03 quốc gia: Chile, Malaysia và Thái Lan. Đồng thời, các
tác giả dựa trên phương pháp kiểm định nhân quả của Toda – Yamamoto áp dụng
cho hai biến tăng trưởng kinh tế và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó,
nghiên cứu tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không có tác động
nhân quả đến tăng trưởng kinh tế của Chile nhưng tăng trưởng kinh tế lại có ảnh
hưởng nhân quả đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này cho thấy rằng,
mặc dù việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở Chile nhưng khi nền kinh tế Chile càng tăng trưởng thì sẽ càng thu
hút được nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn thế nữa, ở Malaysia và
17
Thái Lan, nghiên cứu tìm thấy rằng cả dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế đều cho thấy mối quan hệ nhân quả với nhau ở mức ý nghĩa thống kê
5%. Cho thấy, khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhận nhiều thì sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của Malaysia và Thái Lan, khi tăng trưởng kinh tế ở 02
quốc gia này gia tăng thì sẽ thu hút được nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài hơn.
Li và Liu (2005) đã giải thích ảnh hưởng của FDI tới tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn 1970 – 1999. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện
thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 84 quốc gia đã phát triển và
đang phát triển trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng
trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư nội địa, tăng trưởng dân số, vốn con người,
cơ sở hạ tầng, lỗ hỏng công nghệ. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình
nghiên cứu bởi phương pháp hồi quy OLS với mô hình OLS gộp, mô hình ảnh
hưởng cố định và mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên, qua đó, các tác giả tìm thấy rằng
bản thân dòng vốn FDI không có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua vốn con người. Từ đó thấy được,
các quốc gia có vốn con người cao thì khi thực hiện chính sách thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, các tác giả
cũng tìm thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia sở tại có lỗ hỏng công nghệ nhiều với quốc
gia của các nhà đầu tư.
Seetanah và Khadaroo (2007) đã phân tích ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong
giai đoạn 1980 – 2000. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ
liệu dạng bảng với 39 quốc gia đang phát triển ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình
nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và
các biến độc lập bao gồm FDI, đầu tư nội địa, đầu tư công và lực lượng lao động.
18
Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp hồi
quy OLS và GMM, qua đó, các tác giả tìm thấy rằng FDI tác động tích cực tới tăng
trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Từ đó thấy được, chính sách thu hút FDI có thể
làm cho quốc gia thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, nghiên cứu cũng tìm
thấy bằng chứng cho thấy rằng các yếu tố khác như đầu tư nội địa, đầu tư công và
lực lượng lao động đều cho thấy ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức
ý nghĩa thống kê 10%. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy rằng hiệu ứng tích cực
của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dường như yếu hơn so với các loại hình
đầu tư khác.
Herzer (2010) đã giải thích ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1970 – 2005. Cụ thể, nghiên cứu thực
hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 44 quốc gia đang phát
triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem
như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm FDI, vốn con người, độ mở
thương mại, sự phát triển thị trường tài chính, sự can thiệp của chính phủ và mức độ
tự do kinh doanh. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi
phương pháp kỹ thuật đồng liên kết và tìm thấy rằng, trái ngược với các nghiên cứu
trước đây, FDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa thống kê
10%. Điều này cho thấy rằng, chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể làm cho quốc gia suy giảm tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, nghiên
cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy vai trò của vốn con người, độ mở
thương mại, sự phát triển thị trường tài chính đối với mối quan hệ giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế như các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy trước đó. Nhưng các tác
giả lại phát hiện rằng, FDI sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi quốc
gia sở tại có sự can thiệp chính phủ cao và độ tự do kinh doanh cao.
Hansen và Anis (2012) đã xem xét mối quan hệ giữa FDI đến tăng trưởng
kinh tế của Tunisia trong giai đoạn 1975 – 2009. Đồng thời, mô hình nghiên cứu
của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc
lập bao gồm FDI, vốn con người, độ mở thương mại, sự phát triển tài chính. Sau đó
19
nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi mô hình Vector hiệu chỉnh
sai số (VECM) cũng như thực hiện kiểm định đồng liên kết Johansen, và các tác giả
thấy rằng FDI có quan hệ tích cực trong dài hạn với tăng trưởng kinh tế của Tunisia.
Điều này cho thấy rằng, trong dài hạn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tunisia. Thêm nữa, nghiên cứu cũng tìm thấy bằng
chứng cho thấy rằng hiệu ứng tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế sẽ mạnh mẽ hơn khi vốn con người và sự phát triển tài chính
của Tunisia có sự gia tăng.
Gui-Diby (2014) đã giải thích tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Phi trong giai đoạn 1980 –
2009. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bảo
gồm 50 quốc gia ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng
trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chi tiêu chính phủ, dân số, vốn con người, đầu tư
nội địa. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương
pháp ước lượng GMM hệ thống và tìm thấy rằng nhìn chung FDI có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư ở mức ý nghĩa 10% trong
khoảng thời gian 1980 - 2009. Có nghĩa là, trong suốt thời gian nghiên cứu, các
quốc gia càng thực hiện tốt chính sách thu hút FDI càng có thể thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Nhưng tác giả cũng chỉ ra rằng trước năm 1995, FDI làm cản trở tăng
trưởng kinh tế của các nước ở Châu Phi, kể từ năm 1995, hiệu ứng tích cực của
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế mới xuất hiện.
Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả cũng cho rằng vốn con người không làm ảnh
hưởng đáng kể đến hiệu ứng của FDI đến tăng trưởng kinh tế.
Iamsiraroj (2016) đã xem xét quan hệ giữa FDI đến tăng trưởng kinh tế của
Tunisia trong giai đoạn 1971 – 2010. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện thu thập mẫu
nghiên cứu dữ liệu dạng bảng bao gồm 124 quốc gia đã phát triển và đang phát
triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem
như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm FDI, lực lượng lao động, vốn
20
con người, đầu tư nội địa, độ mở thương mại, chi tiêu chính phủ, lạm phát, cơ sở hạ
tầng, tỷ giá hối đoái, lãi suất thực, chất lượng thể chế và chỉ số độ tự do kinh tế.
Tiếp đó, nghiên cứu đã thực hiện hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước
lượng OLS và tìm thấy rằng FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia nhận đầu tư ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng, các quốc
gia càng thực hiện tốt chính sách thu hút FDI sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của các quốc gia. Hơn thế nữa, đầu tư nội địa, độ mở thương mại, chỉ số tự do kinh
tế có tương quan dương với tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Ngược lại, chi
tiêu chính phủ, lạm phát có mối tương quan âm với tăng trưởng kinh tế ở mức ý
nghĩa 10%. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cho thấy rằng lực lượng lao động, độ mở
thương mại và chỉ số tự do kinh tế là các yếu tố then chốt trong việc thu hút dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó cải thiện tăng trưởng kinh tế của quốc gia
nhận được đầu tư.
2.2.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài và tăng trƣởng kinh tế
Một số nhà nghiên cứu trước đây đã cho rằng dòng vốn viện trợ phát triển
chính thức ODA có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia nhận
viện trợ (Morrisey, 2001; Ekanayake Chatrna, 2008; Fatima, 2014). Tuy nhiên, các
kết quả thực nghiệm tìm thấy đối với mối quan hệ giữa dòng vốn viện trợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế chưa thật sự nhất quán.
Papanek (1973) thực hiện phân tích tác động của các nguồn vốn đến tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia trên thế giới trong những năm đầu 1950 và 1960. Cụ
thể, tác giả đã xem xét mẫu nghiên cứu gồm 34 quốc gia trong những năm đầu 1950
và 51 quốc gia trong những năm đầu 1960. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác
giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao
gồm viện trợ nước ngoài, dòng vốn đầu tư nước ngoài và các dòng vốn khác, và tiết
kiệm trong nước. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi
phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS cổ điển và tìm thấy rằng viên trợ nước
ngoài có tác động tích cực và mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có
21
trong mẫu nghiên cứu hơn so với các biến khác trong mô hình nghiên cứu. Điều này
cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài có thể giúp quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tốt hơn so với việc sử dụng các chính sách thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cũng như tăng cường tiết kiệm nội địa. Tác giả lập luận cho phát hiện này như
là viện trợ nước ngoài không giống như tiết kiệm nội địa, viện trợ nước ngoài có thể
lắp đầy lỗ hỏng tỷ giá cũng như lỗ hỏng tiết kiệm. Hơn thế nữa, không như dòng
vốn đầu tư nước ngoài và các dòng vốn ngoại khác, viện trợ nước ngoài có thể được
xem là một công cụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.
Fayissa và El – Kaissy (1999) tiến hành phân tích tác động của viện trợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1971
– 1990. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 77 quốc gia
đang phát triển và phân tách giai đoạn nghiên cứu thành các giai đoạn nghiên cứu
khác nhau bao gồm: (1) từ 1971 – 1980, (2), 1981 – 1990 và (3) từ 1971 – 1990.
Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là
biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tiết kiệm nội địa,
vốn con người và xuất khẩu. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình
nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng OLS cổ điển và tìm thấy rằng viên trợ nước
ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa thống kê 10%.
Điều này cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài có thể giúp quốc gia nhận viện trợ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các yếu tố khác được các tác giả thêm vào mô
hình nghiên cứu cũng cho thấy tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể,
tiết kiệm nội địa, vốn con người và xuất khẩu đều có thể cải thiện tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu của các tác giả.
Burnside và Dollar (2000) đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu
tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có thu nhập trung bình và
thấp trên thế giới trong hai giai đoạn 1970 – 1973 và 1990 – 1993. Cụ thể, nghiên
cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 56 quốc gia đang phát triển có thu
nhập trung bình và thấp trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với
tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm
22
viện trợ nước ngoài, chất lượng thể chế, cung tiền M2, chi tiêu chính phủ, thặng dư
ngân sách, lạm phát, độ mở thương mại. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy
mô hình nghiên cứu bởi phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS cổ điển và tìm
thấy rằng viện trợ nước ngoài chỉ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia có các chính sách phù hợp và ổn định ở mức ý nghĩa thống kê 10%.
Theo đó, viện trợ nước ngoài sẽ có lợi cho các quốc gia có các chính sách phù hợp
và ổn định bằng việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng tiết lộ rằng không tồn tại bằng chứng thực nghiệm đối với việc
viện trợ nước ngoài có thể khuyến khích các quốc gia áp dụng các chính sách phù
hợp và ổn định, do đó, cũng có thể thấy rằng nguồn viện trợ nước ngoài trở nên lãng
phí đối với các quốc gia không áp dụng các chính sách phù hợp và ổn định.
Hansen và Tarp (2001) tiến hành đánh giá tác động của nguồn vốn viện trợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới ở hai giai đoạn
1974 – 1977 và 1990 - 1993. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu
bao gồm 56 quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình và thấp trên thế giới.
Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là
biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, chất lượng thể chế,
thặng dư ngân sách, lạm phát, độ mở thương mại, độ sâu tài chính. Sau đó, nghiên
cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng GMM và
tìm thấy bằng chứng thực nghiệm trái ngược với phát hiện mà Burnside và Dollar
(2000) đã tìm thấy trước đó. Theo đó, các tác giả cho rằng viện trợ nước ngoài có
tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa thống kê
10% mà không phụ thuộc vào chất lượng chính sách của các quốc gia đang áp dụng.
Cụ thể, nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa dòng vốn viện trợ
nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, biến tương tác giữa viện trợ nước
ngoài và hiệu quả chính sách lại không có ý nghĩa thống kê.
Duc (2006) thực hiện nghiên cứu nhằm giải thích ảnh hưởng của dòng vốn
viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển từ năm
1975 đến năm 2000. Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 39 quốc gia
23
đang phát triển trên thế giới sau khi loại trừ các quốc gia không có sẵn số liệu trong
tổng số 119 quốc gia đang phát triển. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả
được hình thành dựa trên lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh được phát triển bởi
Barro (1991) với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến
độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tiết kiệm nội địa, FDI, độ mở thương mại, dân
số, và vốn con người. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu
bởi phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng viện trợ nước ngoài có tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý
nghĩa thống kê 10%. Cho thấy rằng, dòng vốn viện trợ nước ngoài gây cản trở tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Kết quả này được tác giả lập luận rằng, ở những
nước mà môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử
dụng để tài trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư
nhân để kích thích tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, viện trợ nước ngoài có thể liên
quan đến sự gia tăng tham nhũng của quốc gia nhận đầu tư (Svensson, 1998). Viện
trợ nước ngoài làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong
và Zou, 2001). Ngoài ra, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên
quan đến xuất khẩu hàng hóa, viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản
thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các
điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và
Obsfeld, 2003).
Karras (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa dòng vốn viện trợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi GDP trên đầu người với dữ liệu từ năm 1970
đến năm 1997. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 71 quốc gia đang
phát triển trên thế giới được thu thập từ Penn World Table. Đồng thời, mô hình
nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và
các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, tốc độ tăng dân số, mức độ đầu tư,
chi tiêu chính phủ. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi
phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng viện trợ nước ngoài được đại diện
bởi ODA/GDP và ODA/dân số đều có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở
24
mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thẩy rằng, các quốc gia càng nhận nhiều viện trợ
nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đồng thời, nghiên
cứu này cũng cho thấy rằng tác động tích cực này không phụ thuộc vào hiệu quả
chính sách của các quốc gia đang áp dụng.
Feeny và McGillivray (2008) phân tích mối quan hệ giữa viện trợ nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới từ năm 1977 đến năm 2001.
Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 113 quốc gia đã và đang phát
triển trên thế giới. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh
tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước
ngoài, chất lượng thể chế, cung tiền M2, thu nhập quốc gia. Sau đó, nghiên cứu đã
tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng GMM và tìm
thấy bằng chứng thực nghiệm tương tự với phát hiện mà Hansen và Tarp (2001) đã
tìm thấy trước đó. Theo đó, các tác giả cho rằng viện trợ nước ngoài có tác động
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa thống kê 10% mà
không liên quan đến hiệu quả chính sách của các quốc gia đang áp dụng. Cụ thể,
nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa dòng vốn viện trợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại cho rằng khả năng viện
trợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia phụ thuộc vào khả
năng hấp thụ của các quốc gia nhận viện trợ. Theo đó, các tác giả lập luận rằng khả
năng hấp thụ các nguồn vốn bên ngoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố chẳng hạn như
cơ sở hạ tầng hiện có của quốc gia nhận viện trợ, lực lượng lao động có tay nghề
cao và năng lực thể chế và hành chính của quốc gia và địa phương của quốc gia
nhận viện trợ. Đồng thời, nguồn vốn viện trợ nước ngoài quá nhiều thì sẽ làm gia
tăng các vấn đề có liên quan đến việc hấp thụ nguồn vốn và do đó gây phản tác
dụng.
Asteriou (2009) phân tích mối quan hệ dài hạn giữa dòng vốn viện trợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở khu vực Nam Á trong giai đoạn
1975 – 2002. Cụ thể, nghiên cứu này đã phân tích mẫu nghiên cứu bao gồm 05 quốc
gia đang phát triển ở Nam Á bao gồm Bangladesh, Nepal, Ấn Độ, Sri Lanka,
25
Pakistan. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng trưởng kinh tế được
xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, đầu tư
nội địa, tỷ lệ khấu hao của vốn. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình
nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng PMG và MG, qua đó tác giả tìm thấy rằng
viện trợ nước ngoài có mối quan hệ dài hạn với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả rút ra, trong dài hạn, các quốc
gia càng nhận được nhiều viện trợ nước ngoài càng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia.
Amassoma (2014) tiến hành phân tích ảnh hưởng của ODA đến tăng trưởng
kinh tế của Nigeira trong giai đoạn 1981 – 2012. Nghiên cứu này thu thập số liệu
chuỗi thời gian từ Penn World Data, Ngân hàng Thế giới. Trong đó, mô hình nghiên
cứu của các tác giả sử dụng biến tăng trưởng kinh tế làm biến phụ thuộc và các biến
độc lập bao gồm viện trợ nước ngoài, đầu tư nội địa, xuất khẩu và nhập khẩu. Sau
khi thực hiện kiểm định tính dừng bởi ADF và Philips – Perron, và tiến hành hồi
quy mô hình Vector hiệu chỉnh sai số VECM, thì nghiên cứu tìm thấy dòng vốn
viện trợ và tăng trưởng kinh tế tồn tại mối quan hệ ngược chiều trong dài hạn. Điều
này cho thấy rằng, viện trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia nhận đầu tư. Hơn thế nữa, các tác giả lập luận mối quan hệ ngược chiều
này như là kết quả của vấn đề tham nhũng của quốc gia tiếp nhận đầu tư gia tăng
(khi viện trợ nước ngoài không được sử dụng như mong muốn ban đầu của quốc gia
viện trợ).
Tang và Bundhoo (2017) nghiên cứu thực nghiệm nhằm hiểu rõ tác động của
dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở Châu Phi
thời kỳ 1990 – 2012. Theo đó, nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu của 10 quốc gia
đang phát triển ở Châu Phi. Đồng thời, mô hình nghiên cứu của tác giả với tăng
trưởng kinh tế được xem như là biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm viện
trợ nước ngoài, đầu tư nội địa, lực lượng lao động, cung tiền M2, lạm phát, chi tiêu
chính phủ, độ mở thương mại. Sau đó, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy mô hình
nghiên cứu bởi phương pháp ước lượng OLS và tìm thấy rằng bản thân viện trợ
26
nước ngoài không có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 10%.
Nhưng khi kết hợp với biến chính sách hoặc chất lượng thể chế thì biến tương tác
giữa viện trợ và hiệu quả chính sách lại có tác động cùng chiều đến tăng trưởng
kinh tế ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy, các nước nhận viện trợ khi thực thi
các chính sách phù hợp và ổn định hoặc có chất lượng thể chế tốt thì dòng vốn viện
trợ nước ngoài càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
này. Từ đây, đã phần nào hiểu được tại sao dòng vốn viện trợ không thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia ở Châu Phi bởi vì các quốc gia này có cơ chế quản trị
yếu kém.
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Bài nghiên cứu Mẫu nghiên cứu Phƣơng pháp Kết quả nghiên cứu
hồi quy
Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Borensztein và các 69 quốc gia đang OLS Hiệu ứng tích cực của dòng vốn
cộng sự (1998) phát triển trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
giai đoạn 1970 – tăng trưởng kinh tế chỉ được tìm
1989 thấy ở những quốc gia nhận đầu
tư có đủ vốn con người.
De Mello (1999) 32 quốc gia thuộc OLS FDI chỉ có tác động đáng kể
đến tăng trưởng kinh tế của các OECD và không
quốc gia thuộc OECD. thuộc OECD trong
giai đoạn 1970 –
1999
Benoga và 19 quốc gia ở Mỹ OLS Các quốc gia thu hút dòng vốn
Sanchez - Robles Latinh trong giai đầu tư trực tiếp nước ngoài càng
(2003) đoạn 1970 – 1999 nhiều càng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia sở tại.
Makki và 66 quốc gia đang Phương pháp Chính sách thu hút dòng vốn
27
Somwaru (2004) phát triển trong hồi quy đầu tư trực tiếp nước ngoài có
giai đoạn 1971 - dường như thể giúp quốc gia cải thiện tăng
2001 không liên trưởng kinh tế.
quan (SUR) Các quốc gia sở tại sẽ nhận
và phương được nhiều lợi ích hơn từ dòng
pháp hồi quy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ba bước nếu độ mở thương mại quốc gia
(3SLS) tương đối lớn.
Chowdhury và Chile, Malaysia, Phương pháp Ở Malaysia và Thái Lan, nghiên
Mavrotas (2005) và Thái Lan trong kiểm định cứu tìm thấy rằng cả FDI và
giai đoạn 1969 – nhân quả của tăng trưởng kinh tế đều cho thấy
2000 Toda – mối quan hệ nhân quả với nhau.
Yamamoto
Li và Liu (2005) 84 quốc gia đã và OLS FDI sẽ có tác động tích cực đến
đang phát triển tăng trưởng kinh tế thông qua
trên thế giới từ vốn con người.
năm 1970 đến FDI sẽ có tác động tiêu cực đến
năm 1999 tăng trưởng kinh tế ở những
quốc gia sở tại tồn tại lỗ hỏng
công nghệ nhiều với quốc gia
của các nhà đầu tư.
Seetanah và 39 quốc gia đang OLS và Chính sách thu hút FDI có thể
Khadaroo (2007) phát triển ở Châu GMM giúp quốc gia thúc đẩy tăng
Phi từ năm 1980 trưởng kinh tế.
đến năm 2000 Hiệu ứng tích cực của dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài
dường như yếu hơn so với các
loại hình đầu tư khác.
Herzer (2010) 44 quốc gia đang Phương pháp Chính sách thu hút FDI có thể
28
phát triển từ năm kỹ thuật đồng gây ra suy giảm tăng trưởng
1970 đến năm liên kết kinh tế cho các quốc gia.
2005 FDI sẽ có tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế khi quốc gia
sở tại có sự can thiệp chính phủ
cao và độ tự do kinh doanh cao.
Hansen và Anis Tunisia trong giai VECM Trong dài hạn, dòng vốn đầu tư
(2012) đoạn 1975 – 2009 trực tiếp nước ngoài có thể thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của
Tunisia.
Hiệu ứng tích cực của dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế sẽ mạnh mẽ
hơn khi vốn con người và sự
phát triển tài chính của Tunisia
có sự gia tăng.
Gui-Diby (2014) 50 quốc gia ở GMM Các quốc gia càng thực thi tốt
chính sách thu hút FDI càng có Châu Phi trong
thể thúc đẩy tăng trưởng kinh giai đoạn 1980 –
tế. 2009
Vốn con người không làm ảnh
hưởng đáng kể đến hiệu ứng
của dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế.
Iamsiraroj (2016) Tunisia trong giai OLS Các quốc gia càng thực thi tốt
đoạn 1971 – 2010 chính sách thu hút FDI sẽ càng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia.
29
Dòng viện trợ nƣớc ngoài
Papanek (1973) 34 quốc gia trong OLS Viện trợ nước ngoài có thể giúp
những năm đầu quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy
1950 và 51 quốc tăng trưởng kinh tế tốt hơn việc
gia trong những sử dụng các chính sách thu hút
năm đầu 1960 vốn đầu tư nước ngoài cũng như
tăng cường tiết kiệm nội địa.
Fayissa và El – 77 quốc gia đang OLS Viện trợ nước ngoài có thể giúp
Kaissy (1999) phát triển trong quốc gia nhận viện trợ thúc đẩy
giai đoạn 1971 – tăng trưởng kinh tế.
1990
Burnside và 56 quốc gia đang OLS Viện trợ nước ngoài sẽ có lợi
Dollar (2000) phát triển có thu cho các quốc gia có các chính
sách phù hợp và ổn định bằng nhập trung bình và
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh thấp trong hai giai
tế của các quốc gia này. đoạn 1970 – 1973
và 1990 – 1993
Hansen và Tarp 56 quốc gia đang GMM ODA có tác động đáng kể đến
(2001) phát triển có thu tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia mà không liên quan nhập trung bình và
đến hiệu quả chính sách của các thấp ở hai giai
quốc gia đang áp dụng. đoạn 1974 – 1977
và 1990 – 1993
Duc (2006) 39 quốc gia đang OLS ODA gây cản trở tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia này. phát triển từ năm
1975 đến năm
2000
Karras (2006) 71 quốc gia đang OLS Các quốc gia càng nhận nhiều
phát triển từ 1970 viện trợ nước ngoài có thể thúc
30
– 1997 đẩy tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia.
Feeny và 113 quốc gia đang GMM Viện trợ nước ngoài có tác động
McGillivray phát triển và đã đáng kể đến tăng trưởng kinh tế
(2008) phát triển trong của các quốc gia mà không liên
giai đoạn 1977 – quan đến hiệu quả chính sách
2001 của các quốc gia đang áp dụng.
Khả năng viện trợ nước ngoài
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia phụ thuộc khả
năng hấp thụ của các quốc gia
nhận viện trợ.
Asteriou (2009) 05 quốc gia đang PMG và MG Trong dài hạn, các quốc gia
phát triển ở Nam càng nhận được nhiều viện trợ
Á từ năm 1975 nước ngoài càng có thể thúc đẩy
đến năm 2002 tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia.
Amassoma (2014) Nigeira trong giai VECM Viện trợ nước ngoài sẽ làm cản
đoạn 1981 – 2012 trở tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Tang và Bundhoo 10 quốc gia đang OLS Các quốc gia nhận viện trợ nếu
(2017) phát triển ở Châu thực hiện các chính sách phù
Phi thời kỳ 1990 – hợp và ổn định hoặc có chất
2012 lượng thể chế tốt thì dòng vốn
viện trợ nước ngoài càng tăng
thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia này.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
31
CHƢƠNG 3.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này trình bày cách thức trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đã nêu ở
phần trên. Phương pháp chung để thực hiện nghiên cứu là phương pháp định lượng
và quy trình nghiên cứu tổng quát cụ thể như sau: (1) Quy trình chọn mẫu và thu
thập dữ liệu, (2) Mô hình nghiên cứu, (3) Kỳ vọng dấu và (4) Phương pháp hồi quy.
3.1. Quy trình chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu
Dựa trên các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu luận văn đã đề cập
trong chương 01, luận văn thực hiện thu thập số liệu của các quốc gia đang phát
triển Châu Á trong giai đoạn 1990 – 2016 dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới của
Ngân hàng Thế giới (World Bank). Nhưng do trong giai đoạn 1990 – 2016, xảy ra
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 – 1998, nên luận văn quyết định nghiên
cứu mẫu số liệu từ năm 2000 đến năm 2016 để loại trừ các ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á đối với các quốc gia đang phát triển ở Châu Á.
Hơn thế nữa, trong quá trình thu thập số liệu, luận văn thấy rằng có một số
quốc gia không có sẵn dữ liệu liên tục từ năm 2000 – 2016, do đó, luận văn loại trừ
các quốc gia này ra khỏi mẫu nghiên cứu để có thể thu được mẫu nghiên cứu dữ liệu
dạng bảng cân đối (Balanced Panel data). Mẫu nghiên cứu cuối cùng luận văn thu
được gồm 32 quốc gia đang phát triển Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016. Chi tiết
danh sách các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu được luận văn trình bày trong phụ
lục 01 của luận văn.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu mà luận văn đã đề
cập, luận văn tiến hành hồi quy mô hình nghiên cứu sau dựa trên phương pháp tiếp
cận của các nghiên cứu có liên quan trước đây khi phân tích tác động của dòng vốn
nước ngoài, bao gồm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ
32
nước ngoài, đến tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia như Alguacil và các cộng sự
(2011), Chorn và Siek (2017). Cụ thể mô hình hồi quy được thể hiện như sau:
GROWTHit = α0 + α1*GROWTHit-1 + α2*FDIit + α3*AIDit + α4*INFit +
α5*SAVit + α6*INVit + α7*TRADEit + α8*GOVEXPit + α9*POPGRit + ɛit (1)
GROWTHit là tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi: (1) phần trăm thay đổi
trong GDP ở năm t so với năm t – 1 (GDPGR) và (2) phần trăm thay đổi trong GDP
trên đầu người ở năm t và năm t – 1 (GDPPCGR).
GROWTHit-1 là tăng trưởng kinh tế ở năm trước.
FDIit là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tính bởi tỷ lệ dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP.
AIDit là nguồn viện trợ nước ngoài được tính bởi tỷ lệ dòng vốn viện trợ
nước ngoài chính thức trên GDP.
INFit là lạm phát của quốc gia được tính bởi phần trăm thay đổi trong chỉ số
giá tiêu dùng của quốc gia.
SAVit là mức độ tiết kiệm của quốc gia được tính bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa
trên GDP.
INVit là đầu tư nội địa của quốc gia được đo lường bởi tỷ lệ đầu tư nội địa
trên GDP.
TRADEit là độ mở cửa thương mại của quốc gia được tính bởi tỷ lệ tổng xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP.
GOVEXPit là chi tiêu chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên
GDP.
POPGRit là tốc độ tăng dân số được tính bởi phần trăm thay đổi trong dân số
ở năm t so với năm t – 1 .
ɛit là sai số mô hình.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
33
3.3. Mô tả biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu
Bảng 3.1. Mô tả biến
Biến Ký hiệu Mô tả Nguồn
Biến phụ thuộc
Tốc độ tăng trưởng Phần trăm thay đổi trong GDPGR World Bank GDP ở năm t và năm t – 1 GDP
Phần trăm thay đổi trong Tốc độ tăng trưởng GDPPCGR GDP trên đầu người ở năm World Bank GDP trên đầu người t và năm t – 1
Biến độc lập
Dòng vốn đầu tư trực Tỷ lệ dòng vốn đầu tư trực FDI World Bank tiếp nước ngoài tiếp nước ngoài trên GDP
Dòng vốn viện trợ Tỷ lệ dòng vốn viện trợ AID World Bank nước ngoài nước ngoài trên GDP
Phần trăm thay đổi trong
Lạm phát INF chỉ số giá tiêu dùng ở năm World Bank
t và năm t – 1
Tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên Tiết kiệm nội địa SAV World Bank GDP
Tỷ lệ đầu tư nội địa trên Đầu tư nội địa INV World Bank GDP
Tổng xuất khẩu và nhập Độ mở cửa thương TRADE khẩu của quốc gia trên WorldBank mại GDP
Tỷ lệ chi tiêu chính phủ Chi tiêu chính phủ GOVEXP World Bank trên GDP
34
Phần trăm thay đổi trong
Tăng trưởng dân số POPGR tổng dân số ở năm t và World Bank
năm t – 1
3.3.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Luận văn sử dụng dữ liệu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng (net
FDI inflows) của World Bank. Theo IMF, dòng vốn FDI vào ròng được xem như là
dòng vốn đầu tư dài hạn của một cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài, trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành hoạt động (phải chiếm ít nhất 10% cổ phần có quyền biểu
quyết) của một doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế không phải quốc gia
của nhà đầu tư đang kinh doanh. Theo đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thường bao gồm tổng của vốn đầu tư ban đầu cộng với lợi nhuận tái đầu tư và các
khoản nợ nội bộ trên cán cân thanh toán.
FDI là một trong các dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia. Theo đó, có rất nhiều cách mà dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở cả góc
độ lý thuyết lẫn thực nghiệm. Cụ thể, ở góc độ lý thuyết, mô hình tăng trưởng kinh
tế tân cổ điển, hay còn được gọi là mô hình tăng trưởng kinh tế ngoại sinh, được đề
xuất bởi Solow (1956) đã cho rằng FDI có thể góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế bằng cách gia tăng vốn khả dụng của quốc gia. Bởi vì một sự gia tăng trong vốn
khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng, và kết quả là sẽ làm gia tăng
tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Tương tự vậy, mô hình tăng trưởng kinh tế
nội sinh được đề xuất bởi Romer (1986) cũng cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài sẽ giúp quốc gia nhận đầu tư cải thiện tăng trưởng kinh tế nhờ vào hiệu
ứng lan tỏa công nghệ. Khi quốc gia nhận dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì
sẽ gián tiếp tiếp thu các kiến thức, công nghệ cao từ các quốc gia đã phát triển. Do
đó, sẽ có thể gia tăng năng suất sản xuất, sản lượng cao hơn và thúc đẩy tăng trưởng
trong dài hạn. Hiệu ứng tích cực này nhận được nhiều sự ủng hộ của các nghiên cứu
trước đây khi cung cấp các phát hiện cho thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
35
ngoài sẽ giúp các quốc gia nhận đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nghiên
cứu như Borensztein và các cộng sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez -
Robles (2003), Makki và Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen
và Anis (2012), Gui-Diby (2014) và Iamsiraroj (2016).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng
rằng hệ số hồi quy của biến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mang dấu
dương ở các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư.
3.3.2. Dòng vốn viện trợ nƣớc ngoài
Dòng vốn viện trợ nước ngoài bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại,
viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính
phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hiệp quốc, các tổ
chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang phát triển.
Tương tự như dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng vốn viện trợ nước
ngoài cũng là một trong các dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia. Theo đó, có rất nhiều cách mà dòng vốn viện trợ
nước ngoài có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở cả góc độ
lý thuyết lẫn thực nghiệm. Cụ thể, ở góc độ lý thuyết, mô hình tăng trưởng tân cổ
điển, hay còn được gọi là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, được đề xuất bởi Solow
(1956) đã cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bằng cách gia tăng vốn khả dụng của quốc gia. Bởi vì một sự gia
tăng trong vốn khả dụng có thể giúp nền kinh tế gia tăng sản lượng, và kết quả là sẽ
làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Hiệu ứng tích cực này nhận
được nhiều sự ủng hộ của các nghiên cứu trước đây khi cung cấp các phát hiện cho
thấy rằng dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể giúp các quốc gia tiếp nhận đầu tư
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu bao gồm Papanek (1973), Fayissa và
El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008), Asteriou (2009).
36
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng
rằng hệ số hồi quy của biến dòng vốn viện trợ nước ngoài sẽ mang dấu dương ở các
mô hình hồi quy, ngụ ý rằng dòng vốn viện trợ trực tiếp nước ngoài sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia nhận đầu tư.
3.3.3. Lạm phát
Biến lạm phát được tính bằng phần trăm là tỷ số giữa chỉ số giá tiêu dùng ở
năm t so với chỉ số giá tiêu dùng năm t - 1 chia cho chỉ số giá tiêu dùng năm t - 1.
Lạm phát là một trong các yếu tố quan trọng quyết định tăng trưởng kinh tế
của một quốc gia, trong đó, lạm phát được đo lường bởi phần trăm thay đổi trong
chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia. Điều này được ủng hộ ở cả khía cạnh lý thuyết
lẫn nghiên cứu thực nghiệm, mặc dù chiều hướng tác động của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế thì vẫn chưa nhất quán giữa các lý thuyết và giữa các nghiên cứu
thực nghiệm. Cụ thể, ở khía cạnh lý thuyết, tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau.
Trong khi trường phái cơ cấu (structuralists) cho rằng lạm phát thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của quốc gia, thì trường phái trọng tiền (monetarists) lại phát biểu rằng lạm
phát cản trở tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Trong đó, trường phái cơ cấu lập luận
rằng sự gia tăng trong chỉ số giá (lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu
vực tư nhân có sự gia tăng đáng kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi
tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, quan điểm này của trường phái cơ cấu đã bị
bác bỏ bởi trường phái trọng tiền, trường phái này cho rằng nguyên nhân gây ra lạm
phát xuất phát từ việc cung tiền gia tăng, điều này sẽ làm gia tăng chi phí trong nền
kinh tế. Khi đó, người dân trong nền kinh tế sẽ hạn chế chi tiêu vì họ cảm giác đồng
tiền đang mất giá, đồng thời, các nhà đầu tư cũng sẽ hạn chế đầu tư vì họ cảm giác
các khoản sinh lời của họ sẽ bị “xói mòn” bởi lạm phát. Hơn thế nữa, chi phí đầu
vào gia tăng sẽ làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi
37
ro phá sản nếu tình trạng này kéo dài. Dẫn đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia sẽ
sụt giảm đáng kể.
Tương tự vậy, ở khía cạnh bằng chứng thực nghiệm, cũng tồn tại hai quan
điểm trái ngược nhau khi phát biểu về ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh
tế của quốc gia. Cụ thể, một số nghiên cứu thực nghiệm của Tobin (1965), Paul và
các cộng sự (1997), Ghosh và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và
Chowdhury (2001), Rapach (2003), Benhabib và Spiegel (2009) đã tìm thấy mối
quan hệ đồng biến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Ngược
lại, một số kết quả nghiên cứu của Stockman (1981), Fisher (1993), Barro (1996),
Bruno và Easterly (1998), Faia và Carneiro (2001), Valdovinos (2003), Boyd và
Champ (2006), Erbaykal và Okuyan (2008), Gillman và Harris (2010), Tung và
Thanh (2015), Chorn và Siek (2017).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng
hệ số hồi quy của biến lạm phát sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở các mô
hình hồi quy, ngụ ý rằng lạm phát có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
3.3.4. Tiết kiệm nội địa
Mối quan hệ giữa tiết kiệm nội địa và tăng trưởng kinh tế được các nhà
nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách quan tâm nhiều trong thời gian vừa
qua, trong đó tiết kiệm nội địa thường được xác định bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên
GDP. Theo Solow (1956), tiết kiệm có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
của quốc gia bởi tiết kiệm càng nhiều có thể làm gia tăng tích lũy vốn trong nền
kinh tế và điều này sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Điều
này cho thấy rằng tiết kiệm nội địa đóng góp trực tiếp vào sự tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù các lý thuyết cho rằng tiết kiệm là một trong các yếu tố trọng yếu có
tác động tới tăng trưởng kinh tế, nhưng một số bằng chứng thực nghiệm lại xác định
quan hệ của tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự rõ ràng. Theo Carroll
– Weil (1994), tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động đến mức độ tiết kiệm nội địa,
nhưng tiết kiệm nội địa không tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, một
38
vài nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành bởi Jappelli và Pagano (1994), Sinha và
Sinha (1998), Rodrik (2000), Agrawal (2000), Carroll và các cộng sự (2000),
Anoruo và Ahmad (2001), Verma (2007), và Abu (2010) đã ủng hộ phát hiện của
Carrol và Weill (1994). Nhưng một số nghiên cứu khác lại cho rằng tiết kiệm nội
địa có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế khi mức độ tiết kiệm càng cao
thì sẽ làm gia tăng vốn tích lũy và kết quả là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia. Các nghiên cứu này bao gồm Harrod (1939), Domar (1946), Lewis
(1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo (1991), Levine và
Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995), Alguacil và các cộng
sự (2004), Odhiambo (2009).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng
hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa sẽ mang dấu dương ở các mô hình hồi quy,
ngụ ý rằng tiết kiệm nội địa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
3.3.5. Đầu tƣ nội địa
Đầu tư nội địa là một trong các yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế của quốc gia và đây là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế của
nền kinh tế (Bakari, 2017), trong đó, đầu tư nội địa thường được đo lường bởi tỷ lệ
đầu tư nội địa trên GDP. Có thể thấy rằng, đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi
tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng
chẳng hạn như đường, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và nhà
ở, mở rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực
giáo dục, y tế và truyền thông cũng như các dự án liên quan đến các hoạt động thộc
lĩnh vực kinh tế (Bakari, 2017). Từ đó, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Hơn thế nữa, cả mô hình tăng trưởng tân cổ điển và mô hình tăng trưởng nội sinh
đều đề cập vai trò quan trọng của đầu tư nội địa trong quá trình tăng trưởng kinh tế
của quốc gia. Các nghiên cứu ủng hộ cho tầm quan trọng của đầu tư nội địa bao
gồm Kormendi và Meguire (1985), Romer (1986), Lucas (1988), Grier và Tullock
(1989), Barro (1991), Levine và Renelt (1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng
39
sự (1992), Fischer (1993), Barro và Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang
và các cộng sự (2008), Adams (2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner
(2014), Emmanuel và Kehinde (2018) khi tìm thấy bằng chứng cho thấy đầu tư nội
địa sẽ giúp quốc gia thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn kỳ vọng
rằng hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa sẽ mang dấu dương ở các mô hình hồi
quy, ngụ ý rằng đầu tư nội địa sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhận
đầu tư.
3.3.6. Độ mở thƣơng mại
Độ mở thương mại thường được xác định bởi tổng giá trị xuất khẩu và nhập
khẩu trên GDP của các quốc gia. Độ mở thương mại thường được sử dụng trong các
nghiên cứu phân tích tăng trưởng kinh tế với vai trò như một yếu tố đại diện cho
việc giao thương quốc tế của các quốc gia. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng do độ mở
thương mại được tính bởi giá trị xuất khẩu và nhập khẩu, mà trong công thức tính
GDP của quốc gia thì khi xuất khẩu tăng nhiều hơn so với nhập khẩu thì GDP của
quốc gia sẽ gia tăng, hàm ý sự tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Cho nên tác động
của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự nhất quán. Cụ thể,
sự gia tăng trong độ mở thương mại có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận
hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng
hóa sản phẩm hơn (Ahmed và Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn.
Hơn thế nữa, xuất khẩu quốc gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của
nền kinh tế, trong khi càng nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí
sản xuất. Do đó, độ mở cửa thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Mặt khác, theo lý thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp
quốc gia sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng
hóa và dịch vụ không quá tốn kém để có thể sản xuất trong nước. Một số nghiên
cứu thực nghiệm cũng đã tìm thấy các bằng chứng cho thấy rằng các quốc gia có độ
mở cửa thương mại càng lớn sẽ có tăng trưởng kinh tế càng cao chẳng hạn như
40
Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro (1995), Ben – David và
Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004), Lee (2004), Ahmed và
Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger (2012), Dava (2012),
Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng sự (2015), Keho
(2017).
Tuy nhiên, một số quan điểm khác lại cho rằng độ mở thương mại sẽ làm cản
trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Cụ thể, các quốc gia càng có độ mở thương
mại càng cao thì sẽ càng phụ thuộc nhiều vào nhu cầu quốc tế và khi các quốc gia
đối tác có sự biến động đáng kể trong nền kinh tế sẽ gây ra các bất lợi cho quốc gia
này, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển (Alessandro, 2004). Hơn thế nữa, độ
mở thương mại có thể làm gia tăng lạm phát, gây bất lợi cho đồng nội tệ, và làm
cho quốc gia mất cân đối trong cán cân thanh toán (Rodrik, 1992). Bên cạnh đó, để
có thể gia tăng xuất khẩu và nhập khẩu, các quốc gia thường áp dụng các chính sách
ưu đãi cho đối tác. Trong đó, việc áp dụng các mức thuế thấp và hàng nhập khẩu sẽ
trở nên hấp dẫn hơn so với hàng hóa trong nước (Batra và Slottje, 1993; Leamer,
1995). Kết quả là làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Một số nghiên cứu
thực nghiệm cũng đã tìm thấy các phát hiện thấy độ mở cửa thương mại không thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bao gồm Vamvakidis (2002), Olfemi (2004), Kim (2011),
Hye và Lau (2012), Trejos và Barboza (2015), Musila và Yiheyis (2015), Moyo và
Khobai (2018).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng
hệ số hồi quy của biến độ mở thương mại sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở
các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng độ mở thương mại có tác động đáng kể đến tăng
trưởng kinh tế.
3.3.7. Chi tiêu chính phủ
Chi tiêu chính phủ đóng vai trò quan trọng trong các lý thuyết xác định tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia (Ahmad và Othman, 2014). Tuy nhiên tác động của
chi tiêu chính phủ tới tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thì chưa thật sự rõ ràng.
41
Tồn tại hai quan điểm liên quan đến vai trò của chi tiêu chính phủ đối với nền kinh
tế. Quan điểm đầu tiên cho rằng chi tiêu chính phủ đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quan điểm này lập luận rằng sự góp mặt của
chính phủ trong nền kinh tế sẽ giúp nền kinh tế hiệu chỉnh các biến động chu kỳ của
tổng chi tiêu của nền kinh tế trong ngắn hạn cũng như cung cấp cơ sở hạ tầng để
cho khu vực tư nhân đầu tư nhiều hơn (Ahmad và Othman, 2014). Nói cách khác,
sự góp mặt của chính phủ sẽ tạo ra ảnh hưởng tích cực đến năng suất và tăng trưởng
kinh tế. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho
quan điểm này. Các nghiên cứu này bao gồm Ram (1986), Barro (1990), Lee
(1992), Ghura (1995), Devarajan và các cộng sự (1996), Kneller và các cộng sự
(1999), Yasin (2000), Olorunfemi (2008), Alexiou (2009), Wahab (2011), Attari và
Javed (2013), Alshahrani và Alsadiq (2014).
Tuy nhiên, quan điểm ngược lại cho rằng chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở
tăng trương kinh tế của các quốc gia. Quan điểm này lập luận rằng, khi chính phủ
thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn
như chi phí khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral
subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của
quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan
điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng
kinh tế của quốc gia. Các nghiên cứu này bao gồm Conte và Darr (1988), Grier và
Tullock (1989), Alexander (1990), Carlstrom và Gokhale (1991), Engen và Skinner
(1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson (2001), Mitchell (2005),
Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011), Butkiewicz và Yanikkaya
(2011).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng
hệ số hồi quy của biến chi tiêu chính phủ sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở
các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng chi tiêu chính phủ có tác động đáng kể đến tăng
trưởng kinh tế.
42
3.3.8. Tăng trƣởng dân số
Tốc độ tăng trưởng dân số được xem như là một thành phần tương đối quan
trọng khi xác định tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong thời gian gần đây,
trong đó, tốc độ tăng trưởng dân số được đo lường bởi phần trăm thay đổi trong
tổng dân số của quốc gia. Baker và các cộng sự (2005) đã cho rằng tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở các quốc gia có mức thu nhập cao trong thời gian gần đây đang
chậm lại do tốc độ tăng trưởng dân số ở các quốc gia này được dự báo có xu hướng
suy giảm. Cho nên, có thể thấy rằng, tốc độ tăng trưởng dân số có ảnh hưởng đáng
kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, tác động như thế nào thì
vẫn đang được các nhà nghiên cứu tranh luận trong thời gian qua. Cụ thể, ở góc độ
lý thuyết, mô hình tăng trưởng tân cổ điển được đề xuất bởi Solow (1956) đã kỳ
vọng rằng tốc độ tăng trưởng dân số và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
ngược chiều với nhau. Mô hình tăng trưởng tân cổ điển còn hay được biết đến như
là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, khi đó hai yếu tố chính của mô hình này là tiết
kiệm (dẫn đến sự gia tăng vốn của nền kinh tế) và dân số (đại diện cho lực lượng
lao động của quốc gia) được xem như là ngoại sinh với nhau. Có thể thấy rằng, tốc
độ tăng trưởng dân số càng nhanh thì sẽ làm giảm lượng vốn trên mỗi công nhân và
từ đó làm cản trở tăng trưởng kinh tế (Bucci, 2015). Các nghiên cứu thực nghiệm
ủng hộ quan điểm của mô hình tăng trưởng tân cổ điên bao gồm Brander và
Dowrick (1994), Reed và Gill (1997), Kellye và Schmidt (2001), Barro và Sala – I –
Martin (2004), Onwuka (2006), Bucci (2008), Afzal (2009), Banerjee (2012), Dao
(2012), Huang và Xie (2013), Yao và các cộng sự (2013), Mierau và Turnovsky
(2014).
Trái ngược với kỳ vọng của mô hình tăng trưởng ngoại sinh, mô hình tăng
trưởng nội sinh cho rằng tốc độ tăng trưởng dân số sẽ có ảnh hưởng tích cực đến
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng tốc độ
tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc gia có được nhiều nguồn tri thức càng
nhiều, nói cách khác vốn con người của quốc gia gia tăng. Mà vốn con người và
dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn chặn sự suy giảm vốn tích lũy như điều
43
mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập. Kết quả là quốc gia vẫn tăng trưởng kinh
tế. Quan điểm này đã được ủng hộ từ các nghiên cứu trước đây bao gồm Kuznets
(1967), Kelley (1988), Kelley và McGreevy (1994), Bloom và Canning (2004),
Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner và các cộng sự (2014), Sethy và Sahoo
(2015), Tumwebaze và Ijjo (2015).
Từ các bằng chứng thực nghiệm và các lý thuyết đã nêu, luận văn cho rằng
hệ số hồi quy của biến tăng trưởng dân số sẽ có thể mang dấu dương hoặc dấu âm ở
các mô hình hồi quy, ngụ ý rằng tăng trưởng dân số có tác động đáng kể đến tăng
trưởng kinh tế.
3.4. Phƣơng pháp hồi quy
Dựa trên phương pháp ước lượng mà Chorn và Siek (2017) đã áp dụng khi
nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, phương
pháp hồi quy OLS được khuyến nghị để sử dụng trong luận văn. Tuy nhiên, phương
pháp hồi quy OLS yêu cầu phải thỏa một số giả định khi hồi quy. Cụ thể các giả
định này là:
Mối tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc là tuyến tính.
Không có đa cộng tuyến.
Không có phương sai thay đổi.
Không có tự tương quan.
Không có nội sinh.
Khi mà một trong các giả định này bị vi phạm thì phương pháp hồi quy OLS
sẽ không được sử dụng vì kết quả có được từ phương pháp này có thể bị giả mạo.
Cụ thể, do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu,
cho nên sẽ có thể tồn tại vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu của luận văn như
đề nghị của các nghiên cứu trước đây (Alguacil và các cộng sự, 2011). Hơn thế nữa,
ngoài việc dòng vốn nước ngoài có tác động đến tăng trưởng kinh tế thì tăng trưởng
kinh tế cũng có khả năng tác động đến dòng vốn nước ngoài. Chẳng hạn như dòng
44
vốn nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dòng vốn nước ngoài có thể
được thu hút bởi một sự tăng trưởng kinh tế cao (Nair – Rechert và Weinhold, 2001;
Herzer và Klasen, 2008; Kose và các cộng sự, 2008). Trong trường hợp này, vấn đề
nội sinh giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh tế đã tồn tại.
Để giải quyết vấn đề nội sinh này, các tài liệu trước đây đã đề cử hai phương
pháp có thể sử dụng. Theo đó, phương pháp hồi quy hai bước (2SLS) và phương
pháp hồi quy GMM thường được thực hiện trong các nghiên cứu trước đây khi xử
lý vấn đề nội sinh. Mặc dù, có ưu điểm giải quyết vấn đề nội sinh nhưng phương
pháp hồi quy hai bước vẫn yêu cầu thỏa hai giả định sau, trong khi phương pháp hồi
quy GMM thì không yêu cầu:
Không có phương sai thay đổi.
Không có tự tương quan.
Từ đây có thể thấy rằng, nếu mô hình nghiên cứu có tồn tại tự tương quan
hoặc/và phương sai sai số thay đổi thì phương pháp hồi quy hai bước sẽ không được
sử dụng và luận văn sẽ tiến hành ước lượng mô hình nghiên cứu tác động của dòng
vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế bởi phương pháp hồi quy GMM.
45
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê mô tả và ma trận tƣơng quan
Trong phần này, luận văn thực hiện mô tả các biến bằng cách sử dụng các
giá trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất để có
thể khái quát bộ dữ liệu của luận văn sử dụng nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của dòng
vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á
trong giai đoạn 2000 – 2016. Kết quả thống kê mô tả được luận văn thể hiện ở bảng
4.1. Từ kết quả của bảng 4.1, có thể thấy các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 5.3390 (với biến đại diện GDPGR) và 4.0902
(với biến đại diện GDPPCGR). Điều này cho thấy rằng GDP và GDP trên đầu
người ở năm hiện tại gia tăng khoảng 5.3390% và 4.0902% so với năm trước. Đồng
thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của hai đại diện cho tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia lần lượt là 4.1068 và 4.0504 thì có thể thấy các quốc gia trong mẫu nghiên
cứu có sự thay đổi đáng kể trong tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như giữa các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu có các mức tăng trưởng khác nhau. Theo đó, giá trị lớn
nhất và giá trị nhỏ nhất của GDPGR (GDPPCGR) lần lượt là 26.7550 (23.7153) và
-21.5945 (-23.1812).
Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến
BIẾN Trung vị Số quan sát
Giá trị trung bình 5.3990 Độ lệch chuẩn 4.1068 Giá trị nhỏ nhất -21.5945 5.4872 Giá trị lớn nhất 26.7550 544 GDPGR
4.0504 -23.1812 4.2433 23.7153 544 GDPPCGR 4.0902
5.7611 13.6213 -56.4645 2.9047 217.9205 544 FDI
4.4235 8.1137 -0.6183 0.9720 64.2715 544 AID
23.1873 21.1806 -50.9784 24.9489 83.7213 544 SAV
24.5792 10.1394 0.0000 23.7306 68.0227 544 INV
103.443 79.426 0.0000 87.238 442.620 544 TRADE
13.0430 7.7908 0.0000 11.9454 58.1181 544 GOVEXP
46
7.2367 8.4905 -22.0914 5.2711 59.7404 544 INF
1.2464 0.7797 -1.4745 1.2673 5.3215 544 POPGR
Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.
Thêm nữa, theo giá trị trung bình của biến FDI thì có thể thấy các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu có FDI bình quân đạt 5.7611. Điều này cho thấy rằng, dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm
khoảng 5.7611% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, với giá trị độ lệch
chuẩn của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 13.61213 thì có thể thấy các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể chính sách thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có
các chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và
giá trị nhỏ nhất của FDI lần lượt là 217.9205 và -56.4645.
Đồng thời, dựa vào giá trị trung bình của biến AID thì có thể thấy rằng các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có dòng vốn viện trợ nước ngoài bình quân đạt
4.4235. Điều này cho thấy rằng, dòng vốn viện trợ nước ngoài của các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 4.4235% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng
thời, với giá trị độ lệch chuẩn của dòng vốn viện trợ nước ngoài là 8.1137 thì có thể
thấy được các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể chính sách thu
hút dòng vốn viện trợ nước ngoài cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu
có các chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất
và giá trị nhỏ nhất của AID lần lượt là 64.2715 và -0.6183.
Giá trị trung bình của biến SAV cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có mức độ tiết kiệm nội địa bình quân đạt 23.1873. Điều này cho thấy
rằng, tiết kiệm nội địa của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng
23.1873% so với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời dựa vào giá trị độ lệch chuẩn
của tiết kiệm nội địa là 21.1806 thì có thể thấy rằng người dân của các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể trong quyết định tiết kiệm cũng như
giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ tiết kiệm nội địa khác nhau.
47
Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của SAV lần lượt là 83.7213 và
-50.9784.
Giá trị trung bình của biến INV cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên
cứu có mức độ đầu tư nội địa bình quân đạt 24.5792. Điều này cho thấy rằng đầu tư
nội địa của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 24.5792% so với tổng
GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của đầu tư nội địa là
10.1394 thì có thể thấy rằng người dân của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có
sự thay đổi đáng kể trong quyết định đầu tư cũng như giữa các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có mức đầu tư nội địa khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ
nhất của INV lần lượt là 68.0227 và 0.
Giá trị trung bình của biến TRADE cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có độ mở thương mại bình quân đạt 103.443. Điều này cho thấy, độ mở
cửa thương mại của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 103.443% so
với tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của độ mở
thương mại là 79.426 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự
thay đổi đáng kể trong quyết định hội nhập thương mại toàn cầu cũng như giữa các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ mở cửa thương mại khác nhau. Theo đó,
giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của TRADE lần lượt là 442.620 và 0.
Giá trị trung bình của biến GOVEXP cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có chi tiêu chính phủ bình quân đạt 13.0430. Điều này cho thấy, chi tiêu
chính phủ của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 13.0430% so với
tổng GDP của quốc gia. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của chi tiêu chính
phủ là 7.7908 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi
đáng kể trong quyết định chi tiêu chính phủ cũng như giữa các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có mức độ chi tiêu chính phủ khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá
trị nhỏ nhất của GOVEXP lần lượt là 58.1181 và 0.
Giá trị trung bình của biến INF cho thấy các quốc gia trong mẫu nghiên cứu
có lạm phát bình quân đạt 7.2367. Đồng thời, dựa vào giá trị độ lệch chuẩn của lạm
48
phát là 8.4905, có thể thấy được các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có sự thay đổi
đáng kể trong lạm phát cũng như giữa các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức
độ lạm phát khác nhau. Theo đó, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của INF lần lượt
là 59.7404 và -22.0914.
Giá trị trung bình của biến POPGR cho thấy rằng các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có tăng trưởng dân số bình quân đạt 1.2464. Đồng thời, dựa vào giá trị độ
lệch chuẩn của tăng trưởng dân số là 0.7797 thì có thể thấy rằng các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu có sự thay đổi đáng kể trong tăng trưởng dân số cũng như giữa các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có mức độ tăng trưởng dân số khác nhau. Theo đó,
giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của POPGR lần lượt là 5.3215 và -1.4745.
Qua phần thống kê mô tả chung cho các biến trong mô hình theo Bảng 4.1, có
thể thấy đươc các biến quan sát thu thập có dao động ổn định, đa phần các giá trị độ
lệch chuẩn của mẫu nghiên cứu đều thấp hơn so với giá trị trung bình của các biến.
Cỡ mẫu của luận văn gồm 544 quan sát là cỡ mẫu được chấp nhận để thực hiện hồi
quy trong thống kê, phù hợp để thực hiện các kiểm định thống kê và hồi quy.
Bên cạnh đó, luận văn tiến hành xem xét mối tương quan tuyến tính đơn biến
giữa các đại diện cho biến phụ thuộc và các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu
bằng cách lập ma trận tương quan. Bảng 4.2 trình bày ma trận tương quan giữa các
biến và có thể thấy rằng dòng vốn viện trợ nước ngoài, chi tiêu chính phủ có tương
quan âm với các đại diện của tăng trưởng kinh tế (GDPGR và GDPPCGR) ở mức ý
nghĩa thống kê 10%. Cho thấy, dòng vốn viện trợ nước ngoài và chi tiêu chính phủ
có sự dịch chuyển ngược hướng với sự di chuyển trong tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia.
Ngược lại, có thể thấy rằng tiết kiệm nội địa, đầu tư nội địa, lạm phát đều có
tương quan dương với các đại diện của tăng trưởng kinh tế (GDPGR và
GDPPCGR) ở mức ý nghĩa thống kê 10%. Điều này cho thấy rằng, tiết kiệm nội
địa, đầu tư nội địa và lạm phát có sự dịch chuyển cùng hướng với sự di chuyển
trong tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
49
Bảng 4.2. Ma trận tƣơng quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc
GDPGR GDPPCGR FDI AID SAV INV TRADE GOVEXP INF POPGR
1 GDPGR
1 GDPPCGR 0.9799***
0.056 0.0695 1 FDI
-0.1335*** -0.1067** 0.2882*** 1 AID
0.2006*** 0.1625*** 0.0272 -0.6078*** 1 SAV
0.1983*** 0.1936*** -0.0924** -0.1886*** 0.3788*** 1 INV
-0.0215 -0.0387 0.2977*** -0.0964** 0.2303*** 0.0357 1 TRADE
-0.2329*** -0.1945*** -0.139*** 0.4173*** -0.3096*** 0.1382*** 0.0183 1 GOVEXP
0.1582*** 0.1532*** -0.1021** -0.0883** 0.0064 -0.0203 -0.1855*** -0.0496 1 INF
0.1093** -0.0902** -0.0681 -0.1382*** 0.1954*** 0.0285 0.0868** -0.2008*** 0.027 1 POPGR
Trong đó, *, ** , *** lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.
50
Bên cạnh đó, các giá trị tuyệt đối của các hệ số tương quan tuyến tính giữa
các biến độc lập đều tương đối không cao. Cho nên, có thể không tồn tại hiện tượng
đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu của luận văn.
4.2. Kiểm định phƣơng pháp hồi phù hợp
Từ các phân tích trong phần 3.4 của luận văn, để lựa chọn được phương pháp
hồi quy phù hợp dùng để ước lượng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong
giai đoạn 2000 - 2016 , luận văn thực hiện kiểm tra hai hiện tượng liên quan đến các
giả định của phương pháp hồi quy OLS bao gồm hiện tượng tự tương quan và hiện
tượng phương sai sai số thay đổi. Luận văn thực hiện kiểm tra hiện tượng tự tương
quan bằng kiểm định Wooldridge với câu lệnh trong phần mềm Stata là xtserial và
kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi bằng kiểm định Modified Wald với câu
lệnh trong phần mềm Stata là xttest3. Kết quả của hai kiểm định đối với các phương
trình hồi quy trong luận văn được thể hiện trong bảng 4.3. Qua bảng 4.3, luận văn
thấy rằng các giá trị p-value của kiểm định tự tương quan Wooldridge ở cả 03
phương trình hồi quy đều bằng 0.000, nhỏ hơn mức ý nghĩa thống kê 10%. Kết quả
này cho thấy rằng, luận văn có thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm định, điều này có
thể hiểu như là tồn tại hiện tượng tự tương quan trong mô hình nghiên cứu ảnh
hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát
triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi sử dụng phương pháp hồi quy OLS.
Tương tự như vậy, luận văn thấy rằng các giá trị p-value của kiểm định
phương sai thay đổi Modified Wald ở cả 03 phương trình hồi quy đều bằng 0.000,
nhỏ hơn mức ý nghĩa thống kê 10%. Kết quả cho thấy luận văn có thể bác bỏ giả
thuyết H0 của kiểm định, điều này có thể hiểu như là tồn tại hiện tượng phương sai
thay đổi trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển Châu Á từ năm 2000 đến năm 2016
khi sử dụng phương pháp hồi quy OLS.
51
Bảng 4.3. Kết quả kiểm tra phƣơng sai thay đổi và tự tƣơng quan
Kiểm định Phƣơng trình P-value Kết luận
0.0000 Phương sai thay đổi FDI Phƣơng sai thay đổi 0.0000 Phương sai thay đổi AID Modified Wald 0.0000 Phương sai thay đổi FDI và AID
0.0000 Tự tương quan FDI Tự tƣơng quan 0.0000 Tự tương quan AID Wooldridge 0.0000 Tự tương quan FDI và AID
Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.
Qua đó, có thể nhận thấy rằng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á từ
năm 2000 đến năm 2016 tồn tại hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi
khi được hồi quy bởi phương pháp OLS. Trong trường hợp này, phương pháp hồi
quy hai bước 2SLS cũng sẽ không được áp dụng do bị vi phạm hai giả định (1)
không có tự tương quan và (2) không có phương sai thay đổi. Vì thế, luận văn sử
dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của
dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở
Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 nhằm mục đích khắc phục hiện tượng nội sinh
(do sự hiện diện biến trễ của biến phụ thuộc), tự tương quan và phương sai thay đổi.
4.3. Thảo luận kết quả
4.3.1. Biến phụ thuộc GDPGR
Trong phần này, luận văn trình bày kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ảnh
hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi
GDPGR) của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016
được ước lượng bởi phương pháp hồi quy GMM. Kết quả hồi quy được trình bày
trong bảng 4.4. Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân tích các kết quả đạt được, luận
văn thực hiện việc xem rằng liệu kết quả thu được từ cách hồi quy mô hình nghiên
cứu bởi phương pháp GMM có đáng tin cậy hay không bằng cách sử dụng hai kiểm
52
định AR(2) và Hansen. Trong đó, kiểm định AR(2) xem xét hiện tượng tự tương
quan bậc 02 và kiểm định Hansen xem xét tính phù hợp của các biến công cụ được
sử dụng trong phương pháp GMM. Dựa vào các kết quả kiểm định trong bảng 4.4,
luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định AR(2) lần lượt ở cột (1), (2) và (3)
là 0.158, 0.133, và 0.273. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê
10%. Điều này cho thấy rằng luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm
định: không tồn tại tự tương quan. Nói cách khác, hiện tượng tự tương quan bậc hai
không tồn tại trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc gia đang phát triển ở
Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi ước lượng bởi phương pháp GMM. Tương
tự vậy luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định Hansen lần lượt ở cột (1),
(2) và (3) là 0.514, 0.645, và 0.423. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý
nghĩa thống kê 10%. Theo đó, luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm
định: các biến công cụ không có tương quan với phần dư của mô hình nghiên cứu.
Hoặc nói rằng, các biến công cụ được sử dụng trong phương pháp GMM có thể giải
quyết vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc gia đang
phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Từ đây có thể thấy rằng kết quả
có được do sử dụng phương pháp GMM hồi quy mô hình nghiên cứu là phù hợp và
đáng tin cậy nhằm mục đích dùng để phân tích.
53
Bảng 4.4. Kết quả tác động của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng
kinh tế GDPGR
GDPGR Hệ số (1) Hệ số (2) Hệ số (3)
GDPGR(-1) 0.5354*** (18.14)
FDI 0.4585*** (6.86) -0.1203*** (-3.28)
AID
SAV
INV
TRADE
GOVEXP
INF
POPGR
HỆ SỐ CHẶN
-0.2958*** (-4.52) 0.2863*** (7.37) 0.0088 (1.18) -0.3821*** (-8.14) 0.1919*** (3.34) 3.9835** (2.10) 0.4439 (0.46) 0.018 0.158 0.514 -0.0388*** (-3.35) -0.0173** (-2.47) 0.0623*** (5.08) 0.0365*** (4.50) -0.0251** (-2.08) 0.0385** (2.10) 1.6271** (2.49) -4.1495*** (-2.99) 0.003 0.133 0.645 0.3300*** (15.74) -0.0658*** (-6.31) -0.1005*** (-13.88) -0.0433*** (-7.62) 0.0567*** (12.27) 0.0088*** (5.65) -0.0370*** (-5.56) 0.2737*** (21.93) 0.0328 (0.32) 1.7651*** (7.25) 0.002 0.273 0.423 AR(1) AR(2) HANSEN
Trong đó, các kết quả trong bảng kết quả thu được từ việc ước lượng bởi
phương pháp hồi quy GMM hệ thống hai bước. Giá trị trong dấu ( ) thể hiện giá trị
thống kê t. Đồng thời, cột (1) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, cột (2) trình bày mô hình
nghiên cứu tác động của dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế và
cột (3) trình bày mô hình nghiên cứu tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, AR(1) và AR(2) lần lượt kiểm định tự tương quan bậc
01 và bậc 02. Hansen kiểm định sự phù hợp của các biến công cụ được sử dụng
trong phương pháp hồi quy GMM. Ngoài ra, *, ** , *** lần lượt là mức ý nghĩa
thống kê 10%, 5% và 1%.
54
Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.
Tiếp theo, luận văn thảo luận kết quả nghiên cứu mô hình tác động của dòng
vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các quốc
gia đang phát triển Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016. Đầu tiên, giá trị hệ số hồi
quy của biến trễ biến phụ thuộc lần lượt ở cột (1), (2) và (3) bằng 0.4585, 0.5354,
và 0.3300 và tất cả đều ý nghĩa ở mức thống kê 1%. Kết quả cho thấy, tăng trưởng
kinh tế ở kỳ trước có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của kỳ hiện tại. Nói
cách khác, khi tăng trưởng kinh ở năm trước tăng 1% thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở năm nay tăng từ 0.33% đến 0.5354%.
Dòng vốn nước ngoài được đại diện bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) có tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở
mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (1) và (3) lần lượt là -0.1203 và -0.0658.
Kết quả này cho thấy rằng, khi FDI của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng
1%, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này có thể giảm khoảng 0.0658% đến
0.1203%. Điều này cũng ngụ ý là, các quốc gia thuộc mẫu nghiên cứu thực hiện
chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện này ngược lại với sự kỳ vọng dấu ban đầu
của luận văn được đề cập trong phần 3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm
được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước đây chẳng hạn như Borensztein và các cộng
sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez - Robles (2003), Makki và
Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen và Anis (2012), Gui-Diby
(2014) và Iamsiraroj (2016). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước
đây của Eller và các cộng sự (2005), Herzer (2010), Antwi và Zhao (2013). Có thể
giải thích như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia đang phát
triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu tương đối
thấp, vốn con người không quá cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn
tương đối yếu do chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, như
được ghi nhận bởi các nghiên cứu trước đây, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con người
55
tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện hiệu quả
các chính sách (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng thể chế đủ
mạnh (Durham, 2004). Cho nên, việc dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy
vào các quốc gia này sẽ không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng
phí cũng như làm gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả là cản trở tăng trưởng kinh tế.
Tương tự như kết quả được tìm được đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, dòng vốn viện trợ nước ngoài (AID) cũng thể hiện tác động ngược chiều đến
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (2)
và (3) lần lượt là -0.038 và -0.1005. Kết quả này cho thấy rằng khi dòng vốn viện
trợ nước ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng 1%, tăng trưởng kinh tế
của quốc gia này sẽ bị giảm khoảng 0.038% đến 0.1005%. Điều này cũng ngụ ý
rằng, các quốc gia thuộc mẫu nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn
viện trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát
hiện này ngược lại với dấu kỳ vọng ban đầu của luận văn được đề cập trong phần
3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Papanek (1973),
Fayissa và El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008),
Asteriou (2009). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước đây của
Duc (2006), Doucouliagos và Paldam (2009), Lacerda (2010), Amassoma (2014).
Kết quả giải thích rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia
đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu
kém, vốn con người không cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn yếu do
chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, ở các quốc gia mà
môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử dụng để tài
trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư nhân để kích
thích tăng trưởng kinh tế (Duc, 2006). Hơn thế nữa, dòng vốn viện trợ nước ngoài
có thể làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong và Zou,
2001). Bên cạnh đó, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên quan
đến xuất khẩu hàng hóa, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản
thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các
56
điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và
Obsfeld, 2003). Ngoài ra, dòng vốn viện trợ nước ngoài chảy vào quốc gia thường
xuyên có thể làm cho bộ máy chính trị bị tha hóa và gây hưởng xấu đến chất lượng
thể thế cần thiết cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Deaton, 2013).
Hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là
-0.2958, -0.0173 và -0.0433; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng, khi tiết kiệm nội địa của quốc gia tăng
1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm 0.0173% đến 0.2958%.
Điều này ngụ ý rằng, tiết kiệm nội địa sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này trái ngược với sự kỳ vọng dấu mà
luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Harrod (1939),
Domar (1946), Lewis (1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo
(1991), Levine và Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995),
Alguacil và các cộng sự (2004), Odhiambo (2009). Tuy nhiên lại phù hợp với bằng
chức thực nghiệm mà Chorn và Siek (2017) đã tìm thấy trong thời gian gần đây khi
cho rằng, tiết kiệm nội địa sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Có thể
giải thích kết quả này như là các quốc gia càng có mức độ tiết kiệm nội địa càng cao
càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn
đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.
Hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là 0.2863,
0.0623 và 0.0567; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa
5%. Kết quả này cho thấy rằng, khi đầu tư nội địa của quốc gia tăng 1% thì tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0567% đến 0.2863%.
Điều này ngụ ý rằng, đầu tư nội địa sẽ làm thúc đẩy kinh tế của các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở
phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Kormendi và Meguire (1985), Romer
(1986), Lucas (1988), Grier và Tullock (1989), Barro (1991), Levine và Renelt
(1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng sự (1992), Fischer (1993), Barro và
Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang và các cộng sự (2008), Adams
57
(2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner (2014), Emmanuel và Kehinde
(2018). Có thể giải thích kết quả này như là đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi
tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng
chẳng hạn như đường xá, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và
nhà ở, mở rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực
giáo dục, y tế và truyền thông cũng như các dự án có liên quan đến các hoạt động
kinh tế (Bakari, 2017). Do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Độ mở thương mại thể hiện tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%, ngoại trừ kết quả trong
cột (1) không có ý nghĩa thống kê. Hơn thế nữa hệ số của độ mở thương mại mang
giá trị ở cột (2) và (3) lần lượt là 0.0365 và 0.0088. Kết quả này cho thấy rằng, khi
độ mở thương mại của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
này sẽ gia tăng khoảng 0.0088% đến 0.0365%. Điều này ngụ ý rằng, độ mở thương
mại sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các
nghiên cứu trước đây như Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro
(1995), Ben – David và Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004),
Lee (2004), Ahmed và Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger
(2012), Dava (2012), Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng
sự (2015) Keho (2017). Có thể giải thích kết quả này như là sự gia tăng trong độ mở
thương mại có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan
truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn
(Ahmed và Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn. Hơn thế nữa, xuất
khẩu quốc gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của nền kinh tế, trong
khi càng nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí sản xuất. Do đó, độ
mở cửa thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác,
theo lý thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp quốc gia sử dụng các
nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng hóa và dịch vụ không
quá tốn kém để có thể sản xuất trong nước.
58
Chi tiêu chính phủ thể hiện tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%.Hơn thế nữa hệ số
của Chi tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là -0.3821, -0.0251,
-0.037. Kết quả này cho thấy rằng, khi chi tiêu chính phủ của quốc gia tăng 1% thì
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm khoảng 0.0251% đến 0.3821%.
Điều này ngụ ý rằng, chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận
văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Conte và Darr (1988),
Grier và Tullock (1989), Alexander(1990), Carlstrom và Gokhale (1991), Engen và
Skinner (1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson (2001), Mitchell
(2005), Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011), Butkiewicz và
Yanikkaya (2011). Có thể giải thích kết quả này như là khi chính phủ thực hiện chi
tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn như chi phí
khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral subsidy cost)…
Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Các bằng
chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan điểm này khi tìm thấy
kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Lạm phát thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%.Hơn thế nữa hệ số của Chi
tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là 0.1919, 0.0385, 0.2737.
Kết quả này cho thấy rằng, khi lạm phát của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0385% đến 0.2737%. Điều này ngụ ý
rằng, lạm phát sẽ làm gia tăng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở
phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây Tobin (1965), Paul và các cộng sự (1997),
Ghosh và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và Chowdhury (2001),
Rapach (2003), Benhabib và Spiegel (2009). Có thể giải thích kết quả này như là
rằng, sự gia tăng trong chỉ số giá (lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu
vực tư nhân có sự gia tăng đáng kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi
59
tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tương tự vậy, tăng trưởng dân số thể hiện tác động cùng chiều đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 5%,
ngoại trừ kết quả hồi quy trong cột (3). Hơn thế nữa hệ số của tăng trưởng dân số
mang giá trị ở cột (1), và (2) lần lượt là 3.9835, 1.6271. Kết quả này cho thấy rằng,
khi tăng trưởng dân số của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia này sẽ gia tăng khoảng 1.6271% đến 3.9835%. Điều này ngụ ý rằng, tăng
trưởng dân số sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở
phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây Kuznets (1967), Kelley (1988), Kelley và
McGreevy (1994), Bloom và Canning (2004), Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner
và các cộng sự (2014), Sethy và Sahoo (2015), Tumwebaze và Ijjo (2015). Có thể
giải thích kết quả này như là tốc độ tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc
gia có được nhiều nguồn tri thức càng nhiều, nói cách khác vốn con người của
quốc gia gia tăng. Mà vốn con người và dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn
chặn sự suy giảm vốn tích lũy như điều mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập.
Kết quả là quốc gia vẫn tăng trưởng kinh tế.
4.3.2. Biến phụ thuộc GDPPCGR
Trong phần này, luận văn trình bày kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ảnh
hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi
GDPPCGR) của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016
được ước lượng bởi phương pháp hồi quy GMM. Kết quả hồi quy được trình bày
trong bảng 4.5. Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân tích các kết quả đạt được, luận
văn thực hiện việc xem rằng liệu kết quả thu được từ cách hồi quy mô hình nghiên
cứu bởi phương pháp GMM có đáng tin cậy hay không bằng cách sử dụng hai kiểm
định AR(2) và Hansen. Trong đó, Kiểm định AR(2) xem xét hiện tượng tự tương
quan bậc 02 và kiểm định Hansen xem xét tính phù hợp của các biến công cụ được
60
sử dụng trong phương pháp GMM. Dựa vào các kết quả kiểm định trong bảng 4.5,
luận văn thấy rằng giá trị p-value của kiểm định AR(2) lần lượt ở cột (1), (2) và (3)
là 0.150, 0.117, và 0.216. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê
10%. Điều này cho thấy rằng, luận văn không thể bác bỏ giả thuyết H0 của kiểm
định: không tồn tại tự tương quan. Nói cách khác, hiện tượng tự tương quan bậc hai
không tồn tại trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPPCGR) của các quốc gia đang phát triển
ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 khi ước lượng bởi phương pháp GMM.
Tương tự vậy luận văn thấy rằng, giá trị p-value của kiểm định Hansen lần lượt ở
cột (1), (2) và (3) là 0.518, 0.597, và 0.456. Các giá trị p-value này đều lớn hơn mức
ý nghĩa thống kê 10%. Điều này cho thấy rằng, luận văn không thể bác bỏ giả
thuyết H0 của kiểm định: các biến công cụ không tương quan với phần dư của mô
hình nghiên cứu. Nói cách khác, các biến công cụ được sử dụng trong phương pháp
GMM có thể giải quyết vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của
dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPPCGR) của
các quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Từ đây có thể
thấy rằng, kết quả có được do sử dụng phương pháp GMM hồi quy mô hình nghiên
cứu là phù hợp và đáng tin cậy nhằm mục đích dùng để phân tích.
Tiếp theo, luận văn thảo luận kết quả nghiên cứu mô hình ảnh hưởng của
dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (được đại diện bởi GDPGR) của các
quốc gia đang phát triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 - 2016 . Đầu tiên, giá trị hệ
số hồi quy của biến trễ biến phụ thuộc lần lượt ở cột (1), (2) và (3) bằng 0.4559,
0.5367, và 0.2795 và tất cả đều ý nghĩa ở mức thống kê 1%. Kết quả này cho thấy
rằng, tăng trưởng kinh tế ở kỳ trước sẽ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của kỳ
hiện tại. Nói cách khác, khi tăng trưởng kinh ở năm trước tăng 1% thì sẽ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ở năm này tăng từ 0.2795% đến 0.5367%.
61
Bảng 4.5. Kết quả ảnh hƣởng của dòng vốn nƣớc ngoài đến tăng trƣởng
kinh tế GDPPCGR
GDPPCGR Hệ số (1) Hệ số (2) Hệ số (3)
GDPPCGR(-1) 0.5367*** (19.92)
FDI 0.4559*** (6.41) -0.1142*** (-3.30)
AID
SAV
INV
TRADE
GOVEXP
INF
POPGR
HỆ SỐ CHẶN
-0.2939*** (-4.40) 0.2819*** (6.79) 0.0074 (1.04) -0.3751*** (-7.78) 0.2069*** (3.41) 3.3918* (1.74) 0.4078 (0.42) 0.021 0.15 0.518 -0.0422*** (-4.70) -0.0152** (-2.23) 0.0485*** (7.72) 0.0207*** (3.77) -0.0131* (-1.80) 0.0813*** (8.58) 1.0468*** (3.96) -2.5434*** (-3.50) 0.002 0.117 0.597 0.2795*** (26.80) -0.0504*** (-5.38) -0.0978*** (-15.73) -0.0245*** (-5.16) 0.0368*** (8.95) 0.0087*** (4.73) 0.0111 (1.39) 0.3134*** (32.19) -0.1919 (-1.64) 0.4882 (1.56) 0.001 0.216 0.456 AR(1) AR(2) HANSEN
Trong đó, các kết quả trong bảng kết quả thu được từ việc ước lượng bởi
phương pháp hồi quy GMM hệ thống hai bước. Giá trị trong dấu ( ) thể hiện giá trị
thống kê t. Đồng thời, cột (1) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế, cột (2) trình bày mô hình
nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn viện trợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế và
cột (3) trình bày mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, AR(1) và AR(2) lần lượt kiểm định tự tương quan bậc
01 và bậc 02. Hansen kiểm định sự phù hợp của các biến công cụ được sử dụng
trong phương pháp hồi quy GMM. Ngoài ra, *, ** , *** lần lượt thể hiện mức ý
nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.
62
Nguồn: Kết quả chạy mô hình của tác giả.
Dòng vốn nước ngoài được đại diện bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý
nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (1) và (3) lần lượt là -0.1142 và -0.0504. Kết quả
này cho thấy rằng khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu tăng 1% thì sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này
khoảng 0.0504% đến 0.1142%. Điều này cũng ngụ ý rằng các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ
làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện này có phần trái
ngược với sự kỳ vọng dấu ban đầu của luận văn được đề cập trong phần 3.3, cũng
như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi các nghiên cứu trước đây chẳng
hạn như Borensztein và các cộng sự (1998), De Mello (1999), Benoga và Sanchez -
Robles (2003), Makki và Somwaru (2004), Seetanah và Khadaroo (2007), Hansen
và Anis (2012), Gui-Diby (2014) và Iamsiraroj (2016). Nhưng kết quả này lại phù
hợp với các phát hiện trước đây của Eller và các cộng sự (2005), Herzer (2010),
Antwi và Zhao (2013). Kết quả có thể hiểu như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu
chủ yếu là các quốc gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là
chất lượng thể chế yếu tương đối thấp, vốn con người không quá cao, mức độ hấp
thụ dòng vốn nước ngoài còn tương đối yếu do chính sách thực thi của quốc gia vẫn
chưa được tốt. Mặt khác, như được ghi nhận bởi các nghiên cứu trước đây, dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia
nhận đầu tư có vốn con người tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và
Liu, 2005), thực thi chính sách một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj,
2016) và có chất lượng thể chế đủ mạnh (Durham, 2004). Cho nên việc dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia này sẽ không mang lại hiệu quả
cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng phí cũng như làm gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả
là cản trở tăng trưởng kinh tế.
Tương tự như kết quả được thể hiện ở dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
dòng vốn viện trợ nước ngoài (AID) cũng thể hiện tác động ngược chiều đến tăng
63
trưởng kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy ở cột (2) và (3)
lần lượt là -0.0422 và -0.0978. Kết quả này được hiểu là khi dòng vốn viện trợ nước
ngoài của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu tăng 1% thì sẽ làm giảm tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia này khoảng 0.0422% đến 0.0978%. Điều này cũng ngụ ý
rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu thực hiện chính sách thu hút dòng vốn viện
trợ nước ngoài sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Phát hiện
này có phần trái ngược với sự kỳ vọng dấu ban đầu của luận văn được đề cập trong
phần 3.3, cũng như các bằng chứng thực nghiệm được tìm thấy bởi Papanek (1973),
Fayissa và El – Kaissy (1999), Karras (2006), Feeny và McGillivray (2008),
Asteriou (2009). Nhưng kết quả này lại phù hợp với các phát hiện trước đây của
Duc (2006), Doucouliagos và Paldam (2009), Lacerda (2010), Amassoma (2014).
Có thể hiểu kết quả này như các quốc gia trong mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc
gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia đang phát triển là chất lượng thể chế yếu
kém, vốn con người không cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn yếu do
chính sách thực thi của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, ở các quốc gia mà
môi trường thể chế bị bóp méo, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể sử dụng nhằm
tài trợ cho tiêu dùng của chính phủ thay vì được đầu tư vào khu vực tư nhân để kích
thích tăng trưởng kinh tế (Duc, 2006). Hơn thế nữa, dòng vốn viện trợ nước ngoài
có thể làm giảm tích lũy vốn và nguồn cung lao động trong dài hạn (Gong và Zou,
2001). Bên cạnh đó, tùy thuộc vào điều kiện viện trợ cũng như các vấn đề liên quan
đến xuất khẩu hàng hóa, dòng vốn viện trợ nước ngoài có thể cải thiện điều khoản
thương mại của các đối tác có viện trợ cho quốc gia nhận viện trợ, trong khi các
điều khoản này sẽ làm cho người nhận viện trợ gặp nhiều tổn thất (Krugman và
Obsfeld, 2003). Ngoài ra, dòng vốn viện trợ nước ngoài chảy vào quốc gia thường
xuyên có thể làm cho bộ máy chính trị bị tha hóa và gây hưởng xấu đến chất lượng
thể thế cần thiết cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Deaton, 2013).
Hệ số hồi quy của biến tiết kiệm nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là
-0.2939, -0.0152 và -0.0245; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng khi tiết kiệm nội địa của quốc gia tăng
64
5% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm 0.0152% đến 0.2939%.
Điều này ngụ ý rằng tiết kiệm nội địa sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này trái ngược với sự kỳ vọng dấu mà
luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Harrod (1939),
Domar (1946), Lewis (1955), Solow (1956), Romer (1986), Lucas (1988), Rebelo
(1991), Levine và Renelt (1992), Mankiw và các cộng sự (1992), Deaton (1995),
Alguacil và các cộng sự (2004), Odhiambo (2009). Tuy nhiên lại phù hợp với bằng
chức thực nghiệm mà Chorn và Siek (2017) đã tìm thấy trong thời gian gần đây khi
cho rằng tiết kiệm nội địa sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Có thể
giải thích kết quả này như là các quốc gia càng có độ tiết kiệm nội địa càng cao
càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn
đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.
Hệ số hồi quy của biến đầu tư nội địa lần lượt ở cột (1), (2) và (3) là 0.2819,
0.0485 và 0.0368; và các hệ số hồi quy này đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa
1%. Kết quả này cho thấy rằng khi đầu tư nội địa của quốc gia tăng 1% thì tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0368% đến 0.2819%. Điều
này ngụ ý rằng đầu tư nội địa sẽ làm thúc đẩy kinh tế của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với sự kỳ vọng dấu mà luận văn đã đề cập ở
phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Kormendi và Meguire (1985), Romer
(1986), Lucas (1988), Grier và Tullock (1989), Barro (1991), Levine và Renelt
(1991), Rebelo (1991), Mankiw và các cộng sự (1992), Fischer (1993), Barro và
Sala-iMartin (1999), Le và Suruga (2005), Tang và các cộng sự (2008), Adams
(2009), Rafique và các cộng sự (2013), Warner (2014), Emmanuel và Kehinde
(2018). Có thể hiểu kết quả này như là đầu tư nội địa có liên quan đến việc chi tiêu
vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở hạ tầng chẳng
hạn như đường, mở rộng đường dẫn cấp thoát nước, xây dựng đô thị và nhà ở, mở
rộng đường dây truyền tải điện, cũng như phát triển xã hội ở các lĩnh vực giáo dục -
đào tạo, y tế và truyền thông cũng như các dự án liên quan đến các hoạt động thuộc
lĩnh vực kinh tế (Bakari, 2017). Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
65
Độ mở thương mại thể hiện tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%, ngoại trừ kết quả trong
cột (1) không có ý nghĩa thống kê. Hơn thế nữa hệ số của độ mở thương mại mang
giá trị ở cột (2) và (3) lần lượt là 0.0207 và 0.0087. Kết quả này có thể hiểu rằng khi
độ mở thương mại của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
này sẽ gia tăng khoảng 0.0087% đến 0.0207%. Điều này ngụ ý rằng độ mở thương
mại sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Phát hiện này phù hợp theo dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các
nghiên cứu trước đây như Grossman và Elhanan (1991), Edwards (1992), Barro
(1995), Ben – David và Loewy (1998), Wacziarg (2001), Dollar và Kraay (2004),
Lee (2004), Ahmed và Suardi (2009), Villaver và Maza (2011), Busse và Koniger
(2012), Dava (2012), Alragas và các cộng sự (2015), Fetaki – Vehapi và các cộng
sự (2015) Keho (2017). Kết quả giải thích rằng, sự gia tăng trong độ mở thương mại
có thể giúp quốc gia thu được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức
lớn, tạo ra mức độ cạnh tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn (Ahmed và
Suardi, 2009) và chuyển giao công nghệ nhiều hơn. Hơn thế nữa, xuất khẩu quốc
gia càng lớn thì có thể làm gia tăng sản lượng thực của nền kinh tế, trong khi càng
nhập khẩu thì quốc gia càng có thể giảm thiểu chi phí sản xuất. Do đó, độ mở cửa
thương mại càng tăng thì sẽ càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, theo lý
thuyết lợi thế so sánh, thương mại quốc tế có thể giúp quốc gia sử dụng các nguồn
lực hiệu quả hơn thông qua việc nhập khẩu các hàng hóa và dịch vụ không quá tốn
kém để có thể sản xuất trong nước.
Chi tiêu chính phủ thể hiện tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 10% ngoại trừ cột (3).
Hơn thế nữa hệ số của Chi tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1) và (2) lần lượt là
-0.3751, và -0.0131. Kết quả này cho thấy rằng, chi tiêu chính phủ của quốc gia
tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này sẽ giảm khoảng 0.0131% đến
0. 3751%. Điều này ngụ ý rằng, chi tiêu chính phủ sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng
66
mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các nghiên cứu trước đây như Conte và Darr
(1988), Grier và Tullock (1989), Alexander(1990), Carlstrom và Gokhale (1991),
Engen và Skinner (1992), Ghura (1995), Guseh (1997), Folster và Henrekson
(2001), Mitchell (2005), Nurudeen và Usman (2010), Afonso và Tovar (2011),
Butkiewicz và Yanikkaya (2011). Có thể giải thích kết quả này như là khi chính phủ
thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn
như chi phí khai thác (cost of extraction), chi phí hành vi trợ cấp (behavioral
subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của
quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời gian qua cũng đã ủng hộ quan
điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính phủ làm giảm tăng trưởng
kinh tế của quốc gia.
Lạm phát thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 1%.Hơn thế nữa hệ số của Chi
tiêu chính phủ mang giá trị ở cột (1), (2) và (3) lần lượt là 0.2069, 0.0813, 0.3134.
Kết quả này cho thấy rằng khi lạm phát của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia này sẽ gia tăng khoảng 0.0813% đến 0.3134%. Điều này ngụ ý
rằng lạm phát sẽ làm gia tăng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu. Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần
3.3 và các nghiên cứu trước đây Tobin (1965), Paul và các cộng sự (1997), Ghosh
và Phillips (1998), Girjia và Anis (2001), Mallik và Chowdhury (2001), Rapach
(2003), Benhabib và Spiegel (2009). Kết quả cho thấy sự gia tăng trong chỉ số giá
(lạm phát) có thể xuất phát từ việc chi tiêu của khu vực tư nhân có sự gia tăng đáng
kể (bao gồm cả chi tiêu dùng và chi đầu tư), khi chi tiêu gia tăng sẽ thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng. Do đó, lạm phát gia tăng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tương tự, tăng trưởng dân số thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa thống kê 10%, ngoại
trừ kết quả hồi quy trong cột (3). Hơn thế nữa, hệ số của tăng trưởng dân số mang
giá trị ở cột (1), và (2) lần lượt là 3.3918, 1.0468. Kết quả này cho thấy rằng, khi
tăng trưởng dân số của quốc gia tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
67
này sẽ gia tăng khoảng 1.0468% đến 3.3918%. Điều này ngụ ý rằng, tăng trưởng
dân số sẽ làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Phát hiện này phù hợp với dấu kỳ vọng mà luận văn đã đề cập ở phần 3.3 và các
nghiên cứu trước đây Kuznets (1967), Kelley (1988), Kelley và McGreevy (1994),
Bloom và Canning (2004), Tilak (2007), Savas (2008), Bruckner và các cộng sự
(2014), Sethy và Sahoo (2015), Tumwebaze và Ijjo (2015). Có thể giải thích kết quả
này như là tốc độ tăng trưởng dân số càng cao sẽ giúp cho quốc gia có được nhiều
nguồn tri thức càng nhiều, nói cách khác vốn con người của quốc gia gia tăng. Mà
vốn con người và dòng tri thức có thể giúp các quốc gia ngăn chặn sự suy giảm vốn
tích lũy như điều mà mô hình tăng trưởng ngoại sinh đề cập. Kết quả là quốc gia
vẫn tăng trưởng kinh tế.
68
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH
SÁCH
5.1. Kết luận
Dựa trên các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu luận văn đã đề cập
trong chương 01. Luận văn thực hiện thu thập số liệu của các quốc gia đang phát
triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016 dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế giới
của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Đồng thời, trong quá trình thu thập số liệu,
luận văn thấy rằng có một số quốc gia không có sẵn dữ liệu liên tục từ năm 2000 –
2016, do đó, luận văn loại trừ các quốc gia này ra khỏi mẫu nghiên cứu để có thể
thu được mẫu nghiên cứu dữ liệu dạng bảng cân đối (Balanced Panel data). Mẫu
nghiên cứu cuối cùng luận văn thu được từ 32 quốc gia đang phát triển ở Châu Á
trong giai đoạn 2000 – 2016.
Bên cạnh đó, để nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài (bao gồm
dòng vốn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia, luận văn áp dụng mô hình nghiên cứu của Alguacil
và các cộng sự (2011), Chorn và Siek (2017). Đồng thời, để hồi quy mô hình nghiên
cứu này, luận văn sử dụng phương pháp GMM với ưu điểm có thể giải quyết vấn đề
nội sinh (do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ thuộc và mối tương quan hai
chiều giữa dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng kinh tế), vấn đề tự tương quan và
vấn đề phương sai thay đổi.
Kết quả luận văn tìm thấy rằng, dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể
đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, chiều hướng tác động của các
dòng vốn nước ngoài này đến tăng trưởng kinh tế lại có sự khác biệt với các phát
hiện trước đây. Cụ thể, luận văn tìm thấy rằng, cả dòng vốn viện trợ nước ngoài và
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều thể hiện tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này có thể hiểu như là khi
69
quốc gia càng đẩy mạnh thu hút dòng vốn nước ngoài thì sẽ làm cản trở tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia. Luận văn giải thích phát hiện này như các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu chủ yếu là các quốc gia đang phát triển, đặc điểm các quốc gia
đang phát triển là chất lượng thể chế yếu tương đối thấp, vốn con người không quá
cao, mức độ hấp thụ dòng vốn nước ngoài còn tương đối yếu do chính sách thực thi
của quốc gia vẫn chưa được tốt. Mặt khác, như được ghi nhận bởi các nghiên cứu
trước đây, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn viện trợ nước ngoài
chỉ thật sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi quốc gia nhận đầu tư có vốn con người
tương đối cao (Bengoa và các cộng sự, 2003; Li và Liu, 2005), thực hiện chính sách
một cách hiệu quả (Gui-Diby, 2014; Iamsiraroj, 2016) và có chất lượng thể chế đủ
mạnh (Durham, 2004). Cho nên việc dòng vốn nước ngoài chảy vào các quốc gia
này sẽ không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế mà gây ra sự lãng phí cũng như làm
gia tăng vấn đề trục lợi, kết quả là cản trở tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, luận văn cũng phát hiện thấy rằng, các yếu tố đưa vào mô hình
nghiên cứu như tiết kiệm nội địa, đầu tư nội địa, độ mở cửa thương mại, chi tiêu
chính phủ, lạm phát và tăng trưởng dân số đều là các yếu tố quan trọng quyết định
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, chiều hướng tác động của các yếu
tố này lại có sự khác biệt.
Cụ thể, đầu tư nội địa, độ mở cửa thương mại, lạm phát và tăng trưởng dân
số đều thể hiện tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có
trong mẫu nghiên cứu của luận văn. Hàm ý rằng, các quốc gia có đầu tư nội địa
càng cao, càng mở cửa thương mại hội nhập thế giới, lạm phát cao và dân số tăng
trưởng nhanh thì có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong mẫu
nghiên cứu của luận văn. Ngược lại, các yếu tố như tiết kiệm nội địa, chi tiêu chính
phủ lại cho thấy tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trong
mẫu nghiên cứu của luận văn. Điều này có nghĩa là các quốc gia càng có mức tiết
kiệm nội địa càng cao, càng chi tiêu chính phủ cao thì sẽ càng cản trở tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu của luận văn.
70
5.2. Các hàm ý chính sách
Kết quả luận văn tìm thấy rằng, dòng vốn nước ngoài có tác động đáng kể
đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Cụ thể, luận văn tìm thấy rằng, cả dòng
vốn viện trợ nước ngoài và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều thể hiện tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Vì
vậy, các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á cần
có những chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài phù hợp với tình hình phát triển
của quốc gia sở tại nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dòng vốn nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế quốc gia, đồng thời, phát huy hiệu quả dòng vốn nước ngoài
chảy vào quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối với việc thu hút dòng vốn nước ngoài, các quốc gia đang phát triển
thường áp dụng các chính sách như ưu đãi về thuế, trợ cấp hoặc các ưu đãi khác như
các chương trình đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ địa điểm đầu tư… Tuy các chính
sách ưu đãi này được áp dụng tương đối phổ biến ở các quốc gia, nhưng khả năng
thu hút dòng vốn nước ngoài của từng quốc gia là khác nhau, cũng như hiệu quả sử
dụng dòng vốn này của mỗi quốc gia là khác nhau do sự khác biệt về mô trường
kinh tế, quy mô kinh tế, chính trị, pháp luật của từng quốc gia. Từ kết quả nghiên
cứu tìm thấy ở Chương 4, việc sử dụng dụng hiệu quả dòng vốn nước ngoài ở các
quốc gia đang phát triển là hết sức cần thiết nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, do đó, các quốc gia đang phát triển cần lưu ý thực hiện một số chính sách
cụ thể như sau:
Thứ nhất, các quốc gia cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế
chính sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi. Theo đó, các quốc gia đang phát triển cần hoàn thiện thể chế pháp lý,
nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm tạo điều kiện lựa chọn, thu hút các dòng vốn
nước ngoài chất lượng cao, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, cũng như những tiến bộ của khoa học công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa và xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư quốc tế. Trong
71
đó, hệ thống luật pháp đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, nhất là các chính sách mở cửa kinh tế. Hệ thống pháp luật chưa phát
triển và gặp bất cập hoặc có vấn đề trong việc áp dụng luật pháp là những tồn tại,
hạn chế việc nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư.
Bên cạnh đó, đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật góp
phần khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội, nhất là trong các lĩnh
vực dễ phát sinh tham nhũng. Môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, thông
thoáng và thuận lợi cũng là một trong những yếu tố quan trọng khi các quốc gia
thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, tận dụng cơ chế hợp tác song phương, đa
phương để có những cơ chế đặc thù đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế.
Do đó, hệ thống thể chế pháp lý hoàn chỉnh tạo cơ hội thu hút dòng vốn nước
ngoài, đồng thời, nâng cao hiệu quả sử dụng dòng vốn nước ngoài, từ đó, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Thứ hai, các quốc gia đang phát triển cần quan tâm nâng cao chất lượng
nguồn vốn con người. Theo đó, dòng vốn nước ngoài luôn có tác động quan trọng
đến việc tăng trưởng năng suất lao động của nước nhận đầu tư. Nó có thể giúp dịch
chuyển cơ cấu lao động trong nước từ nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang
nhóm ngành có năng suất lao động cao hơn. Bên cạnh đó, các nước nhận đầu tư kỳ
vọng rằng, các doanh nghiệp đa quốc gia khi tham gia vào thị trường trong nước với
lợi thế về công nghệ, về thị trường, quản lý sẽ có năng suất lao động cao hơn so với
khu vực ở trong nước.
Xu hướng của các nước đang phát triển đang chuyển đổi theo hướng từ thu
hút dòng vốn nước ngoài theo số lượng dần sang thu hút dòng vốn nước ngoài theo
chất lượng, chuyển dần thu hút với lợi thế giá nhân công rẻ sang cạnh tranh bằng
nguồn lực chất lượng cao. Để hấp thụ, sử dụng dòng vốn nước ngoài hiệu quả, tạo
giái trị gia tăng cao hơn cho dòng vốn nước ngoài được nhận, mỗi quốc gia tiếp
nhận cần có nguồn vốn con người đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, được đào tạo
72
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Từ đó, góp phần tăng lợi thế cạnh tranh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của quốc gia.
Thứ ba, các quốc gia đang phát triển cần tăng cường kiểm soát các khoản chi
ngân sách nhà nước nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả dòng vốn, hạn chế việc
xảy ra các vấn đề tiêu cực như tham nhũng, lãng phí… Theo đó, các nhà hoạch định
chính sách cũng có thể chủ động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia thông
qua việc thay đổi các yếu tố như đầu tư nội địa, tiết kiệm nội địa, lạm phát, chi tiêu
chính phủ, độ mở thương mại, tăng trưởng dân số. Bởi vì đầu tư nội địa có liên quan
đến việc chi tiêu vốn cho các dự án mới trong các ngành tiện ích công cộng và cơ sở
hạ tầng. Cũng như việc gia tăng trong độ mở thương mại có thể giúp quốc gia thu
được nhiều lợi nhuận hơn dựa vào sự lan truyền kiến thức lớn, tạo ra mức độ cạnh
tranh cao hơn, đa dạng hóa sản phẩm hơn và sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế của
quốc gia. Ngược lại, khi các nhà hoạch định chính sách cần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia thì cũng có thể cân nhắc đến việc hạn chế tiết kiệm nội địa,
và chi tiêu chính phủ. Do khi chính phủ thực hiện chi tiêu chính phủ sẽ có làm phát
sinh các chi phí có liên quan chẳng hạn như chi phí khai thác (cost of extraction),
chi phí hành vi trợ cấp (behavioral subsidy cost)… Các chi phí làm trực tiếp làm
cản trở sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Các bằng chứng thực nghiệm trong thời
gian qua cũng đã ủng hộ quan điểm này khi tìm thấy kết quả cho thấy chi tiêu chính
phủ làm giảm tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Đồng thời, các quốc gia càng có
mức độ tiết kiệm nội địa càng cao càng cho thấy mức tiêu dùng của người dân trong
nền kinh tế sẽ càng suy giảm, dẫn đến sự sụt giảm trong GPD và kết quả là tăng
trưởng kinh tế của quốc gia suy giảm.
Có thể thấy, các dự án sử dụng vốn nước ngoài đã tạo môi trường đầu tư,
môi trường sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy các dịch vụ công cộng ở địa phương
cũng như quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, việc sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội
hóa từ các dòng vốn nước ngoài tạo những lợi ích thiết thực, giảm gánh nặng cho
ngân sách, hạn chế chi ngân sách nhà nước tràn lan, không tập trung nguồn lực,
đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển mạnh cho nền kinh tế.
73
Tóm lại, các quốc gia nếu tồn tại một trong các yếu tố như nguồn vốn con
người chưa đáp ứng yêu cầu, thể chế pháp lý chưa hoàn thiện hay việc kiểm soát
chi ngân sách nhà nước chưa chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến việc sử dụng dòng vốn nước
ngoài kém hiệu quả, không tạo được sự kích thích đối với tăng trưởng kinh tế quốc
gia, có thể làm giảm năng lực cạnh tranh, thu hút vốn nước ngoài so với các quốc
gia còn lại.
5.3. Hạn chế đề tài và hƣớng nghiên cứu tiếp theo
Luận văn đã phần nào giải quyết các mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên
cứu mà luận văn đề ra, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn nhận thấy đề
tài vẫn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể các hạn chế như sau:
Đầu tiên, đề tài mới thu thập được số liệu của khoảng 32 quốc gia đang phát
triển ở Châu Á trong giai đoạn 2000 – 2016 nhưng vẫn chưa có thể đại diện cho các
quốc gia đang phát triển nói riêng và ở châu Á nói chung. Do đó, các phát hiện mà
luận văn tìm được chỉ đúng với 32 quốc gia này. Đây là hạn chế đầu tiên mà luận
văn mắc phải.
Thứ hai, luận văn chỉ sử dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng
vốn viện trợ nước ngoài để đại diện cho dòng vốn nước ngoài, ngoài hai đại diện
này thì một số dòng vốn khác cũng được xem là dòng vốn nước ngoài như kiều hối,
dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài lại không được luận văn sử dụng. Đây là hạn
chế thứ hai mà luận văn mắc phải.
Thứ ba, mặc dù đã loại trừ ảnh hưởng tiềm tàng của cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á năm 1997 – 1998 nhưng trong giai đoạn từ 2000 – 2016 thì vẫn tồn
tại một cuộc khủng hoảng khác đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cho nên có
thể các quốc gia trong giai đoạn này sẽ bị tác động bởi cuộc khủng hoảng này dẫn
đến các kết quả hồi quy vẫn chưa thật sự nhất quán. Đây là hạn chế thứ ba mà luận
văn mắc phải.
Cuối cùng, các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế của các quốc gia mà
luận văn xác định và đưa vào mô hình nghiên cứu thì hầu như được tiến hành theo ý
74
kiến chủ quan của học viên nhưng có dựa trên các mô hình nghiên cứu của các tác
giả trước đây. Tuy nhiên vẫn còn nhiều yếu tố khác có thể tác động đáng kể đến
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nhưng luận văn vẫn chưa đưa vào mô hình
nghiên cứu. Đây là hạn chế cuối cùng mà luận văn mắc phải.
Thông qua các hạn chế này, luận văn có một số đề xuất để các nghiên cứu
sau này có thể đạt được kết quả tốt hơn. Các đề xuất này bao gồm:
Đầu tiên, các nghiên cứu sau này có thể cân nhắc đến việc phân tích mẫu
nghiên cứu rộng hơn chẳng hạn như các quốc gia ở Châu Á, các quốc gia ở trên thế
giới để tăng tính đại diện của kết quả đạt được.
Thứ hai, các đề tài có hứng thú với chủ đề này cũng có thể xem xét đến việc
đưa thêm một số dòng vôn nước ngoài vào mô hình nghiên cứu để có thể phân tích
rõ tác động của dòng vốn nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, các nghiên cứu sau này cũng cân nhắc đến việc sử dụng biến giả đại
diện cho các cú sốc bên ngoài chẳng hạn như khủng hoảng tài chính toàn cầu để loại
trừ tác động tiềm tàng của khủng hoảng đến các quốc gia.
Cuối cùng, các nghiên cứu sau này có thể đưa thêm một số yếu tố như chất
lượng thể chế, vốn con người và độ mở thương mại vào mô hình nghiên cứu để
tương tác với dòng vốn nước ngoài nhằm làm rõ chất lượng thể chế như thế nào,
vốn con người đạt bao nhiêu và hội nhập thế giới như thế thì dòng vốn nước ngoài
mới mang lại hiệu ứng tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adams, S. (2009). Can foreign direct investment (FDI) help to promote
growth in Africa?. African Journal of Business Management, 3(5), 178-183.
Adamu, P. A. (2013). The impact of foreign aid on economic growth in
ECOWAS countries: A simultaneous-equation model(No. 2013/143). WIDER
Working Paper.
Ahmed, A. D., & Suardi, S. (2009). Macroeconomic volatility, trade and
financial liberalization in Africa. World Development, 37(10), 1623-1636.
Alguacil, M., Cuadros, A., & Orts, V. (2011). Inward FDI and growth: The
role of macroeconomic and institutional environment. Journal of Policy
Modeling, 33(3), 481-496.
Alragas, R., Murphy, P., Parhi, M., Mishra, T. K., & Ouattara, B. (2015).
Empirical Evidence on the Relationship between Trade Openness and Economic
Growth.
Alshahrani, M. S. A., & Alsadiq, M. A. J. (2014). Economic growth and
government spending in Saudi Arabia: An empirical investigation. International
Monetary Fund.
Amassoma, D. (2014). The linkage between foreign aid and economic
growth in Nigeria. International Journal of Economic Practices and Theories, 4(6),
1007-1017.
Anoruo, E., & Ahmad, Y. (2001). Causal relationship between domestic
savings and economic growth: Evidence from seven African countries. African
Development Review, 13(2), 238-249.
Asteriou, D. (2009). Foreign aid and economic growth: New evidence from a
panel data approach for five South Asian countries. Journal of policy
modeling, 31(1), 155-161.
Attari, M. I. J., & Javed, A. Y. (2013). Inflation, economic growth and
government expenditure of Pakistan: 1980-2010. Procedia Economics and
Finance, 5, 58-67.
Bakari, S. (2017). The Long Run and Short Run Impacts of Exports on
Economic Growth: Evidence from Gabon.
Barro, R. J. (1991). Economic growth in a cross section of countries. The
quarterly journal of economics, 106(2), 407-443.
Batra, R., & Slottje, D. J. (1993). Trade Policy and Poverty In the United
States: Theory and Evidence, 1947‐1990. Review of International Economics, 1(3),
189-208.
Ben-David, D., & Loewy, M. B. (1998). Free trade, growth, and
convergence. Journal of economic growth, 3(2), 143-170.
Bengoa, M., & Sanchez-Robles, B. (2003). Foreign direct investment,
economic freedom and growth: new evidence from Latin America. European
journal of political economy, 19(3), 529-545.
Benhabib, J., & Spiegel, M. M. (2009). Moderate inflation and the deflation–
depression link. Journal of Money, Credit and Banking, 41(4), 787-798.
Bloom, D. E., Canning, D., & Sevilla, J. (2004). The effect of health on
economic growth: a production function approach. World development, 32(1), 1-13.
Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J. W. (1998). How does foreign
direct investment affect economic growth? 1. Journal of international
Economics, 45(1), 115-135.
Boyd, J. H., & Champ, B. (2006). Inflation, banking, and economic
growth. Federal Reserve Bank of Cleveland, 1-4.
Brander, J. A., & Dowrick, S. (1994). The role of fertility and population in
economic growth. Journal of Population Economics, 7(1), 1-25.
Brems, H. (1970). A growth model of international direct investment. The
American Economic Review, 60(3), 320-331.
Burnside, C., & Dollar, D. (2000). Aid, policies, and growth. American
economic review, 90(4), 847-868.
Busse, M., & Königer, J. (2012). Trade and economic growth: A re-
examination of the empirical evidence.
Butkiewicz, J. L., Yanikkaya, H., & Gebze, K. (2011). Institutions and the
impact of government spending on growth. Journal of Applied Economics, 14(2),
319.
Carroll, C. D., & Weil, D. N. (1994). Saving and growth: a reinterpretation.
In Carnegie-Rochester conference series on public policy (Vol. 40, pp. 133-192).
North-Holland.
Carroll, C. D., Overland, J., & Weil, D. N. (2000). Saving and growth with
habit formation. American Economic Review, 90(3), 341-355.
Chorn, S., & Siek, D. (2017). The Impact of Foreign Capital Inflow on
Economic Growth in Developing Countries. Journal of Finance and
Economics, 5(3), 128-135.
Chowdhury, A., & Mavrotas, G. (2005). FDI and growth: a causal
relationship (No. 2005/25). Research Paper, UNU-WIDER, United Nations
University (UNU).
De Mello, L. R. (1999). Foreign direct investment-led growth: evidence from
time series and panel data. Oxford economic papers, 51(1), 133-151.
Devarajan, S., Swaroop, V., & Zou, H. F. (1996). The composition of public
expenditure and economic growth. Journal of monetary economics, 37(2), 313-344.
Dollar, D., & Kraay, A. (2004). Trade, growth, and poverty. The Economic
Journal, 114(493), F22-F49.
Domar, E. D. (1946). Capital expansion, rate of growth, and
employment. Econometrica, Journal of the Econometric Society, 137-147.
Easterly, W. (2003). Can foreign aid buy growth?. Journal of economic
Perspectives, 17(3), 23-48.
Emmanuel, O. G., & Kehinde, A. J. O. S. E. Domestic Investment and
Economy Growth in Nigeria: An Empirical Investigation.
Erbaykal, E., & Okuyan, H. A. (2008). Does inflation depress economic
growth? Evidence from Turkey.
Fambon, S. (2013). Foreign capital inflow and economic growth in
Cameroon (No. 2013/124). WIDER Working Paper.
Fayissa, B., & El-Kaissy, M. I. (1999). Foreign aid and the economic growth
of developing countries (LDCs): Further evidence. Studies in Comparative
International Development, 34(3), 37-50.
Fetahi-Vehapi, M., Sadiku, L., & Petkovski, M. (2015). Empirical analysis
of the effects of trade openness on economic growth: An evidence for South East
European Countries. Procedia Economics and Finance, 19, 17-26.
Fischer, S. (1993). The role of macroeconomic factors in growth. Journal of
monetary economics, 32(3), 485-512.
Fölster, S., & Henrekson, M. (2001). Growth effects of government
expenditure and taxation in rich countries. European economic review, 45(8), 1501-
1520.
Ghosh, A., & Phillips, S. (1998). Warning: Inflation may be harmful to your
growth. Staff Papers, 45(4), 672-710.
Grier, K. B., & Tullock, G. (1989). An empirical analysis of cross-national
economic growth, 1951–1980. Journal of monetary economics, 24(2), 259-276.
Grossman, G. M., & Helpman, E. (1991). Quality ladders in the theory of
growth. The Review of economic studies, 58(1), 43-61.
Gui-Diby, S. L. (2014). Impact of foreign direct investments on economic
growth in Africa: Evidence from three decades of panel data analyses. Research in
Economics, 68(3), 248-256.
Hansen, H., & Tarp, F. (2001). Aid and growth regressions. Journal of
development Economics, 64(2), 547-570.
Harrod, R. F. (1939). An essay in dynamic theory. The economic
journal, 49(193), 14-33.
Hermes, N., & Lensink, R. (2003). Foreign direct investment, financial
development and economic growth. The Journal of Development Studies, 40(1),
142-163.
Herzer, D. (2010). Outward FDI and economic growth. Journal of Economic
Studies, 37(5), 476-494.
Herzer, D., & Klasen, S. (2008). In search of FDI-led growth in developing
countries: The way forward. Economic Modelling, 25(5), 793-810.
Iamsiraroj, S. (2016). The foreign direct investment–economic growth
nexus. International Review of Economics & Finance, 42, 116-133.
Jappelli, T., & Pagano, M. (1994). Saving, growth, and liquidity
constraints. The Quarterly Journal of Economics, 109(1), 83-109.
Karras, G. (2006). Foreign aid and long‐run economic growth: empirical
evidence for a panel of developing countries. Journal of International
Development: The Journal of the Development Studies Association, 18(1), 15-28.
Keho, Y. (2017). The impact of trade openness on economic growth: The
case of Cote d’Ivoire. Cogent Economics & Finance, 5(1), 1332820.
Kelley, A. C., & McGreevey, W. P. (1994). Population and development in
historical perspective.
Kneller, R., Bleaney, M. F., & Gemmell, N. (1999). Fiscal policy and
growth: evidence from OECD countries. Journal of Public Economics, 74(2), 171-
190.
Kormendi, R. C., & Meguire, P. G. (1985). Macroeconomic determinants of
growth: cross-country evidence. Journal of Monetary economics, 16(2), 141-163.
Kose, M. A., Prasad, E. S., & Terrones, M. E. (2009). Does openness to
international financial flows raise productivity growth?. Journal of International
Money and Finance, 28(4), 554-580.
Le, M. V., & Suruga, T. (2005). The effects of FDI and public expenditure
on economic growth: From theoretical model to empirical evidence. GSICS
WorNing Paper Series.
Leamer, E. E., & Levinsohn, J. (1995). International trade theory: the
evidence. Handbook of international economics, 3, 1339-1394.
Levine, R., & Renelt, D. (1991). Cross-country studies of growth and
policy. World Bank working paper, 608.
Li, X., & Liu, X. (2005). Foreign direct investment and economic growth: an
increasingly endogenous relationship. World development, 33(3), 393-407.
Lucas Jr, R. E. (1988). On the mechanics of economic development. Journal
of monetary economics, 22(1), 3-42.
Makki, S. S., & Somwaru, A. (2004). Impact of foreign direct investment
and trade on economic growth: Evidence from developing countries. American
Journal of Agricultural Economics, 86(3), 795-801.
Mallik, G., & Chowdhury, A. (2001). Inflation and economic growth:
evidence from four south Asian countries. Asia-Pacific Development Journal, 8(1),
123-135.
Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. N. (1992). A contribution to the
empirics of economic growth. The quarterly journal of economics, 107(2), 407-437.
McGillivray, M., & Feeny, S. (2008). Aid and growth in fragile states (No.
2008/03). Research Paper, UNU-WIDER, United Nations University (UNU).
Mierau, J. O., & Turnovsky, S. J. (2014). Demography, growth, and
inequality. Economic Theory, 55(1), 29-68.
Moreira, S. B. (2005). Evaluating the impact of foreign aid on economic
growth: A cross-country study. Journal of Economic Development, 30(2), 25-48.
Morrissey, O. (2001). Does aid increase growth?. Progress in development
studies, 1(1), 37-50.
Moyo, C., & Khobai, H. (2018). Trade openness and economic growth in
SADC countries.
Musila, J. W., & Yiheyis, Z. (2015). The impact of trade openness on
growth: The case of Kenya. Journal of Policy Modeling, 37(2), 342-354.
Nair‐Reichert, U., & Weinhold, D. (2001). Causality tests for cross‐country
panels: a New look at FDI and economic growth in developing countries. Oxford
bulletin of economics and statistics, 63(2), 153-171.
Njoupouognigni, M. (2010). Foreign aid, foreign direct investment and
economic growth in Sub-Saharan Africa: Evidence from pooled mean group
estimator (PMG). International journal of economics and finance, 2(3), 39.
Nurudeen, A., & Usman, A. (2010). Government expenditure and economic
growth in Nigeria, 1970-2008: A disaggregated analysis. Business and Economics
Journal, 2010(4), 1-11.
Odhiambo, N. M. (2009). Electricity consumption and economic growth in
South Africa: A trivariate causality test. Energy Economics, 31(5), 635-640.
Papanek, G. F. (1973). Aid, foreign private investment, savings, and growth
in less developed countries. Journal of political Economy, 81(1), 120-130.
Ram, R. (1986). Government size and economic growth: A new framework
and some evidence from cross-section and time-series data. The American
Economic Review, 76(1), 191-203.
Rapach, D. E. (2003). International evidence on the long-run impact of
inflation. Journal of Money, Credit and Banking, 23-48.
Rebelo, S. (1991). Long-run policy analysis and long-run growth. Journal of
political Economy, 99(3), 500-521.
Rodrik, D. (1992). The limits of trade policy reform in developing
countries. Journal of Economic Perspectives, 6(1), 87-105.
Rodrik, D. (2000). Institutions for high-quality growth: what they are and
how to acquire them. Studies in comparative international development, 35(3), 3-
31.
Romer, P. M. (1986). Increasing returns and long-run growth. Journal of
political economy, 94(5), 1002-1037.
Seetanah, B., & Khadaroo, A. J. (2007). foreign direct investment and
growth: New evidences from Sub-Saharan African countries. University of
Mauritius, 27.
Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. The
quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.
Stockman, A. C. (1981). Anticipated inflation and the capital stock in a cash
in-advance economy. journal of Monetary Economics, 8(3), 387-393.
Tang, K. B., & Bundhoo, D. (2017). Foreign Aid and Economic Growth in
Developing Countries: Evidence from Sub-Saharan Africa. Theoretical Economics
Letters, 7(05), 1473.
Tobin, J. (1965). Money and economic growth. Econometrica: Journal of the
Econometric Society, 671-684.
Trejos, S., & Barboza, G. (2015). Dynamic estimation of the relationship
between trade openness and output growth in Asia. Journal of Asian Economics, 36,
110-125.
Tumwebaze, H. K., & Ijjo, A. T. (2015). Regional economic integration and
economic growth in the COMESA region, 1980–2010. African Development
Review, 27(1), 67-77.
Vamvakidis, A. (2002). How robust is the growth-openness connection?
Historical evidence. Journal of Economic Growth, 7(1), 57-80.
Verma, R. (2007). Savings, investment and growth in India: an application of
the ARDL bounds testing approach. South Asia Economic Journal, 8(1), 87-98.
Villaverde, J., & Maza, A. (2011). Globalisation, growth and
convergence. The World Economy, 34(6), 952-971.
PHỤ LỤC 01. DANH SÁCH CÁC QUỐC GIA TRONG MẪU
NGHIÊN CỨU
STT Quốc gia Khu vực
1 Armenia Trung Á
2 Bangladesh Nam Á
3 Bhutan Nam Á
4 Brunei Darussalam Đông Á -Thái Bình Dương
5 Cambodia Đông Á -Thái Bình Dương
6 China Đông Á -Thái Bình Dương
7 Fiji Đông Á -Thái Bình Dương
8 Hong Kong SAR, China Đông Á -Thái Bình Dương
9 India Nam Á
10 Indonesia Đông Á -Thái Bình Dương
11 Kazakhstan Trung Á
12 Korea, Rep. Đông Á -Thái Bình Dương
13 Kyrgyz Republic Trung Á
14 Lao PDR Đông Á -Thái Bình Dương
15 Macao SAR, China Đông Á -Thái Bình Dương
16 Malaysia Đông Á -Thái Bình Dương
17 Marshall Islands Đông Á -Thái Bình Dương
18 Mongolia Đông Á -Thái Bình Dương
19 Nepal Nam Á
20 Pakistan Nam Á
21 Philippines Đông Á -Thái Bình Dương
22 Russian Federation Trung Á
23 Singapore Đông Á -Thái Bình Dương
24 Sri Lanka Nam Á
25 Tajikistan Trung Á
26 Thailand Đông Á -Thái Bình Dương
27 Tonga Đông Á -Thái Bình Dương
28 Turkey Trung Á
29 Turkmenistan Trung Á
30 Uzbekistan Trung Á
31 Vanuatu Đông Á -Thái Bình Dương
32 Vietnam Đông Á -Thái Bình Dương
PHỤ LỤC 02. KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH
Thống kê mô tả
Ma trận tương quan
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn FDI
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và
dòng vốn FDI
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn AID
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và
dòng vốn AID
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPGR và dòng vốn FDI và AID
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPGR và
dòng vốn FDI và AID
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn FDI
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR
và dòng vốn FDI
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn AID
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR
và dòng vốn AID
Phƣơng trình biến phụ thuộc GDPPCGR và dòng vốn FDI và AID
Kiểm tra phương sai thay đổi
Kiểm tra tự tương quan
Kết quả ước lượng phương pháp hồi quy GMM: biến phụ thuộc GDPPCGR
và dòng vốn FDI và AID