intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu: Thơ Đường

Chia sẻ: Nguyen Phuong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

64
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ðời Tống, Nghiêm Vũ, tác giả sách Thương Lan thi thoại, chia thơ Ðường làm năm thể là: Ðường sơ thể, Ðại lịch thể , Nguyên hòa thể và Vãn Ðường thể . Ðời Minh , Cao Bỉnh, tác giả sách Ðường thi phẩm vận ,sửa đổi đôi chút cách phân định của họ Nghiêm, chia thơ Ðường làm bốn giai đoạnlà : Sơ Ðường, Thịnh Ðường , Trung Ðường và Vãn Ðường ( Lục Khản Như và Phùng Nguyên Quân chia toàn bộ Ðường Thi làm hai thời đại lớn : từ Sơ Dường đến thời Thiên Bảo gọi là...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu: Thơ Đường

  1. Thơ Đường I.Quá trình phát triển của thơ Ðường Ðời Tống, Nghiêm Vũ, tác giả sách Thương Lan thi thoại, chia thơ Ðường làm năm thể là: Ðường sơ thể, Ðại lịch thể , Nguyên hòa thể và Vãn Ðường thể . Ðời Minh , Cao Bỉnh, tác giả sách Ðường thi phẩm vận ,sửa đổi đôi chút cách phân định của họ Nghiêm, chia thơ Ðường làm bốn giai đoạnlà : Sơ Ðường, Thịnh Ðường , Trung Ðường và Vãn Ðường ( Lục Khản Như và Phùng Nguyên Quân chia toàn bộ Ðường Thi làm hai thời đại lớn : từ Sơ Dường đến thời Thiên Bảo gọi là thời đại Lý Bạch , từ sau thời Thiên Bảo đến thời Vãn Ðường gọi là thời đại Ðỗ Phủ . ( Trung Quốc thi sử, quyển Trung, Cổ văn thư lục, Hongkong, tái bản 1964 ). Tô Thuyết Lâm tái dụng ý kiến của Hồ Thích, tác giả sách Bạch thoại văn học sử , chia thơ Ðường làm năm thời kì :
  2. 1) Thời kì kế thừa tác phong cổ điển của các đời Tề ,Lương ; 2) Thời kì long thịnh của văn học lãng mạn . 3) Thời kì đản sinh của văn học tả thực; 4) Thời kì phát đạt của văn học duy mỹ; 5) Thời kì suy đồi của thơ Ðường . ) Các luận giả đời sau phần nhiều đều theo cách phân chia của họ Cao, chỉ có ý kiến khác về niên đại cho từng thời kì . ( Cao Bính xếp Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị , Lý Hạ, Lư Ðồng , Mạnh Giao, Giả Ðảo vào thời Vãn Ðường . Hậu nhân thì xếp các nhà thơ này vào thời Trung Ðường ) Sơ Ðường bao quát thời gian từ năm đầu niên hiệu Vũ Ðức, đời Ðường Cao Tổ (618) đến năm đầu niên hiệu Khai Nguyên , đời Ðường Huyền Tông (713) , gần một trăm năm . Thơ Ðường bắt đầu phát triển ; hình thức và nội dung dần dần dần hình thành và sung thực . Cái di phong thời Lục triều tuy còn vương sót , nhưng rồi lần lần phai lạt, nhường chổ cho một phong khí mới, sẽ tạo nên sự hưng thịnh của thời Thịnh Ðường . Thịnh Ðường bao quát thời gian từ năm đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) đến năm đầu niên hiệu Ðại Lịch, đời Ðường Ðại Tông ( 766) chừng năm chục năm . Tình
  3. tự cuồng liệt , ý cảnh bao la, thể chế thuần thục , nghệ thuật kì diệu . Thơ Ðường đạt đến cực điểm xán lạn huy hoàng. Trung Ðường bao quát thời gian từ năm đầu niên hiệu Ðại Lịch (766) đến năm thứ 9 niên hiệu Thái Hòa, đời Ðường Văn Tông (835), chừng 70 năm . Ðó là thời kì chuyển biến của thơ Ðường . Với thể chế hoàn toàn thành tựu , nội dung và kỹ xảo được chú trọng nhiều hơn cho được thêm thâm khắc, tinh tiến . Vãn Ðường bao quát thời gian từ năm đầu Khai Thành, đời Ðường Văn Tông ( 836 ) đến năm thứ 2 niên hiệu Thiên Hựu , đời Ðường Chiêu Tuyên Ðế ( 905) chừng 70 năm . Thơ Ðường kết thúc ở đây . Một thể tài văn học khác được sáng chế trong thời trước, nay được lưu ý, tôn trọng hơn, để rồi sẽ phát đạt , hưng thịnh trong thời đại sau : đó tà từ . 1.Thời Sơ Ðường ( 618 – 713 ) Trong gần một trăm năm của thời kỳ này . Trung Quốc sống trong cảnh thái bình , an lạc . Có một vài cuộc rối loạn do sự chấp chính của nữ nhân ( Vũ hậu , Vi hậu , Thái Bình công chúa ), Nhưng những vụ biến động này chỉ giới hạn trong chốn cung đình hay ở một vài địa phương và cũng chóng bình định . Vì vậy thơ làm trong thời kì này phần nhiều là những bài ca tụng cảnh đất nước thanh bình , tán dương thịnh đức của triều đại , có văn từ hoa mỹ diễm lệ, thừa tập di phong của thời Lục Triều . Phong khí này lan tràn cả trong những tác phẩm ngoài loại ứng chế . Mãi đến Trần Tử Ngang , mới mở đầu một phong trào chống đối , gọi là Phản động phái .
  4. Ðầu thời Sơ Ðường , phát khởi hai khuynh hướng thi ca , mà rồi đây ta sẽ thấy bành trướng mạnh trong thời Thịnh Ðường : Biên tái và Ðiền viên . Biên tái là loại thơ tả cănh sắc biên thùy và tâm tình của người lính thú . Những bài đầu tiên thuộc loại này như Tòng Quân Hành của Ngu Thế Nam . Thuật Hoài của Ngụy Trung , đều khơi nguồn cảm hứng từ những cuộc chinh chiến vào khoảngcuối đời Tùy . Ðiền viên là loại thơ tả cuọc sống nông thôn đạm bạc , chất phác cùng những lạc thú thiên nhiên của nhàn nhân dật sĩ . Thủy tổ của loại thơ này là Ðào Uyên Minh đời Tấn , Thời Sơ Ðường , Vương Tích nối gót họ Ðào , làm ra nhiều bài như Quá Tửu gia , Dã vọng … có lời chân phác tự nhiên , không điêu trác hoa mỹ . Nổi trội nhất trong số những nhà thơ diễm thể của thời kỳ này là Sơ Ðường tứ kiệt : Vương Bột , Dương Quýnh , Lư Chiếu Lân và Lạc tân Vương .Thơ của các nhà này tuy đã sát với sinh hoạt thực tế , nhưng vẫn còn có vẽ phù diễm , Ðỗ Phủ nhận định : Vương Dương Lư Lạc đương thời thể , Khinh bạc văn chương thẩn vị hưu . Nhĩ tào thân dữ danh câu diệt , Bất phế giang hà vạn cổ lưu ( Hý vi lục tuyệ t cú) (Vương , Dương , Dư , Lạc thể đương thời ,
  5. Văn chương khinh bạc cười không ngơi . Các người thân với danh đều mất ; Còn mãi , giang hà muôn thửa trôi .) Sau Tứ Kiệt , hai nhà thơ có uy quyền trên thi đàn là Thẩm Thuyên Kỳ và Tống Chi Vấn “ Từ thời Kiến Anh đời Ngụy cho đến thời Giang Tả (Ðông Tấn ) , luật thơ biến thiên nhiều lần , Thẩm Ước , Dữu Tín dùng âm vận phụ thêm , làmcho đối ngẫu tinh mật . Ðến Thẫm Thuyên Kỳ , Tống Chi Vân , thơ càng mỹ lệ , tránh các thanh bệnh , đặt câu , làm bài như cẩm tú thành văn . Học giả suy tôn , gọi là Thẩm Tống .” (Ðường thư văn nghệ truyện ). Hai nhà này được coi là có công đầu trong việc hoàn thành thể luật thi . “ Thơ ngũ ngôn đến Thẩm Tống , mới có thể gọi là luật .” ( Vương Thế Trinh ). Cùng nổi tiếng đương thời là văn chương tứ hữu ( bốn bạn văn chương ): Tô Vị Ðạo , Lý Kiều , Thôi Dung và Ðỗ Thẩm Ngôn . Lý Kiều được Ðường Huyền Tông khen là “ Chân tài tử “, nổi danh với Tô Vị Ðạo ; người đời xưng là Tô Lý , liên tưởng đến cặp Tô Vũ , Lý Lăng đời Hán . Ðỗ Thẩm Ngôn là tổ phụ của Ðỗ Phủ ; tính tình và tác phẩm đều có ảnh hưởng đến vị thi thánh sau này . Rồi đến Ngô trung tứ sĩ ( bốn người học trò đất Ngô ) là : Hạ Tri Chương , Bao Dung , Trương Húc và Trương Nhược Hư . Bài :”Xuân Giang hoa nguyệt dạ “ của Trương Nhược Hư và bài “ Bạch đầu ông vịnh “ của Lưu Hy Di là hai bài trường thiên đặc sắc của thời Sơ Ðường . Tất cả những bài thơ kể trên không ít thì nhiều đều kế tục di phong phù mỹ của thời Lục triều , nên được xếp vào phái thơ gọi là Ỷ mỹ phái .
  6. Những nhà thơ chống lại quan niệm của phái Ỷ mỹ được xếp vào phái thơ gọi là Phản Ðộng phái . Chủ trương của phái này là cải biến tác phong các đời Tê Lương , khôi phục phong cách đời Hán Ngụy . Lãnh tụ là Trần Tử Ngang . Trong bài tựa thiên Tu trúc của Ðông Phương Cầu , ông viết :” Cái tệ của văn chương kéo dài đã trăm năm rồi . Các đời Tấn Tống tuy không truyền dược phong cốt đời Hán Ngụy , nhưng văn hiến còn có chổ chứng minh được . Lúc nhàn rỗi tôi thường xem thơ làm trong các đời Tề Lương , thấy rằng vẽ mỹ lệ thì nhiều mà hứng ký thác thì ít , cho nên thường thở than . Trộm nghĩ đến cố nhân , tôi thường sợ phong khí chậm chạp , suy đồi , phong nhã không dấy lên được , vì thế trong lòng lo lắng không yên “ . Trần Tử Ngang rồi Trương Cửu Linh làm những bài thơ có nhan đề là “ Cảm Ngộ “ , chú trọng đến ý cảnh hơn là văn từ . Thời Sơ Ðường , ngoài hai phái thơ nghiêm chỉnh trên , còn có những nhà chuyên làm thơ bạch thoại có tính cách khôi hài , thông tục , gọi là “ thơ đả du “ . Nổi tiếng nhất là Vương Phạm Chí và các vị tăng Hàn San, Phong Can , Thập Ðắc . Tuy phổ biến dể dàng , các bài thơ bạch thoại không được người đời coi trọng . 2.Thời Thịnh Ðường (713- 766 ) Có thể gọi thời Thịnh Ðường là thời Ðường Minh Hoàng , vì có liên hệ mất thiết với vị vua này . Cuộc khởi loạn của An Lộc Sơn ( năm 755 ) là cái mốc phân chia thời này ra làm hai giai đoạn: thái bình và tán loạn . Trước loạn An Lộc Sơn , là thời những bài thơ chứa đầy tình , nhạc và rượu . Cũng có những bài thơ tả tình quan ái và niềm khuê oán .
  7. Nhưng đó là tình cảm hào hùng của người chinh phu tuy biết “ từ xưa chinh chiến mấy ai về “ nhưng vẫn quyết “ Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao “ ; đó là nổi nhớ nhung , sầu muộn của người cô phụ “ lúc ngoảnh lại trông màu dương liễu “ , tuy có tê tái nhưng không bi thảm . Từ cuộc loạnấy về sau , thi ca phản ánh một xã hội điêu tàn , thống khổ . Chiến địa không còn là cảnh hùng tráng đầy thi vị , mà là nơi ma than , quỉ khóc , xương trắng tả tơi . Những người lính thú bạc đầu nơi quan ải , những thiếu nữ thành ra cô phụ sau tối tân hôn , những ngườichồng phải gửi vợ nơi quê người , đất khách , và những người cha tủi hổ vì bất lực trước cảnh con thơ chết đói . Các bài như Tam Lại , Tam Biệt của Ðỗ Phủ cực tả cảnh chiến tranh tàn khốc , xã hội tối tăm , nhân dân đồ thán trong thời kì này . Thơ thời Thịnh Ðường có thể xếp thành ba phái chính : Phái Biên Tái , phái Ðiền Viên và phái Xã Hội . Phái Biên tái có nguồn gốc xa xôi là Hoành súy khúc từ thời Lương . Ðến thời này , loại thơ Biên tái tăng tiến về cả hai mặt lượng và phẩm . Có những người chỉ cảm động về tình chinh phu , cô phụ , tưởng tượng ra cảnh quan ải biên thùy , rồi làm thơ. Ðó là trường hợp những bài như : Lương Châu Từ của Vương Hàn . Xuất Tái của Vương Chi Hoán , Vương Xương Linh , Tái Hạ Khúc , Tái Thượng Khúc của Lý Bạch …Nhưng cũng có những nhà thơ thực sống trong chốn nhung mạc , từng trãi miền sông núi biên cương , như Cao Thích , Sầm Than …Chinh Phụ Ngâm Khúc của Ðặng Trần Côn mượn rất nhiều ý và lời trong thơ biên tái thời Thịnh Ðường . Phái Ðiền Viên bắt nguồn từ thơ Ðào Uyên Minh thời Tấn . Vườn thông , giậu cúc và vò rượu của quan tể huyện Bành Trạch được nhiều văn nhân thi sĩ đời Ðường
  8. coi là ý nghĩ cao cả trong cuộc đời , là cảm hứng bất tận của thi ca . Trong thời kì này , phái Diền viên có những tác giả hữu danh như nhà ẩn sĩ phong lưu : Mạnh Hạo Nhiên , vị thi Phật Vương Duy với những bài thơ đầy điệu nhạc , ý họa , và vị Thi Tiên Lý bạch phóng khoáng hồn nhiên . Lý Bạch là nhà thơ vĩ đại nhất thời Thịnh Ðường , trước loạn Thiên Bảo . Ý cảnh trong thơ ông cực kỳ bao la , rộng rãi . Tác phong gồm đủ mọi tính cách : hùng tráng , phiêu dật , trầm uất , cuồng phóng , diễm lệ , thanh u … Lời thơ buông thả tự nhiên , không có gò bó bởi cách luật , không điêu trác về kỹ xảo . Người ta yêu thơ Lý Bạch không những vì tác phẩm mà còn vì cuộc đời : tính khinh thế ngạo vật , tình nồng nhiệt đậm đà , và cái chết ôm trăng tuy khó tin nhưng chứa chan thi vị . Lý Bạch có hoài bão của một vị hiệp khách băn khoăn cứu khốn phò nguy , lại vừa có khát vọng của một đạo gia muốn siêu trần thoát tục . Tính chất nữa tiên nữa tục ấy chính là đặc điểm của thơ họ Lý . Thời Vãn Ðường , Bì Nhật Hưu nói rằng :” Từ khi nhà Ðường lập nghiệp tới giờ , ngữ ngôn ra ngoài trời đất , tư tưởng vượt xa quỉ thần , đọc xong thì thần ruổi tám cực , nghĩ rồi thì lòng ôm bốn bể ; lỗi lạc dị thường , không phải là lời của thế gian , thì có thơ của Lý Bạch .” Phái Xã Hội phát sinh do sự thúc bách của hoàncảnh hồi hậu bán thời Thịnh Ðường. Cuộc loạn Thiên-Bảo làm cho những người có cao vọng thần tiên cũng phải băn khoăn về trần tục, và những ẩn sĩ Chung Nam thắc mắc về những chuyện đời. Ðại biểu của phái Xã hội là thi thánh Ðỗ Phủ, tề danh vời thi tiên Lý Bạch. Thơ Hàn Dũ có câu : “ Lý Ðỗ văn chương tại, Quang diễm vạn trượng trường” (Văn chương Lý Ðỗ còn, Ánh sáng dài muôn trượng). Lý Ðõ là hai bạn thân , nhưng tác phong hoàn toàn
  9. khác nhau. Lý Bạch măc cho cảm hứng phát xuất tự nhiên, còn Ðỗ Phủ thì dụng công điêu luyện. Thơ của họ Lý có tình cảm lãng mạn của một tài tử an mệnh, lạc thiên; thơ họ Ðỗ mang đậm tính chất hiện thực, phô bày sinh hoạt thực tế của nhân loại, diễn tả tâm tư thâm mật của con người. Thơ Lý Bạch khiến ngưới ta nhẹ nhàng “phơi phới như mọc cánh, lên tiên”; thơ Ðỗ Phủ đầy vẽ đầy đủ thảm trạng xã hội, khiến người ta không khỏi bùi ngùi, ngao ngán. Lý Bạch nói lên niềm khát vọng siêu thoát, Ðỗ Phủ bày ra mối hệ lụy nhân sinh. Lý Bạch xa ta : muốn theo, không được; Ðỗ Phủ gần ta : muốn dứt, không xong. Với tính cách nhân bản ấy, thơ Ðỗ Phủ càng đọc càng thấm thía, khi tuổi tác càng cao, kinh lịch càng nhiều. Trái lại, thơ Lý Bạch chỉ như một hớp rượu cay, say người nhưng chóng tỉnh, và khi tỉnh rồi, thì chỉ còn thoang thoảng hương vị thoáng qua. Nghệ thuật tác thi của Ðỗ Phủ rất tinh vi, xảo quyệt. Ông dùng hết mọi thể thơ, mà không thể nào không giỏi. Nhất là về lối thất ngôn luật thi, thì thi tài họ Ðỗ thật là không tiền, khoáng hậu. Học vấn rộng, kinh lịch nhiều, kỹ thuật tinh xảo, tình cảm cường liệt, tất cả những yếu tố ấy đặt ông lên địa vị “thi thánh” như lời suy tôn của Vương Thế Trinh đời Minh, và khiến ông xứng danh “tình thánh” như Lương Khải Siêu đã dâng tặng. Nguyên Chẩn thời Trung Ðường nói rằng : “ Hết được mọi thể chế hôm nay, gồm được những cái độc chuyên của mọi người… Từ khi có thi nhân đến giờ, không ai bằng Tử Mỹ”. Trong những thi phẩm Trung Quốc được ngoại nhân phiên dịch, thơ Ðỗ Phủ chiếm đa số; thậm chí có cả kẻ ngụy tạo Ðỗ thi. Bài Hoàng Hạc lâu, được coi là thiên cổ tuyệt xướng, là tác phẩm của Thôi Hiệu, người đồng thời với Lý Bạch. 3.Thời Trung Ðường(766 -835)
  10. Sau khi loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh đã bình, tình hình vẫn còn phân loạn. Phiên trân cát cứ, Hồi-ngột, Thổ-phồn quấy nhiễu, triều đìhn thối nát, loạn quan lộng quyền, đó là những nguyên nhân khiến xã hội bất an, nhân dân cực khổ. Tình trạng thi ca kém hẳn thời trước. Các nhà thơ chỉ quanh quẩn trong phạm vi cũ, không có gì mới mẻ đáng làm vinh diệu cho thi đàn, Nổi bật hơn cả là Bạch Cư Dị. Trong thời Ðại-Lịch (766-779), đời Ðường Ðại-tông, có mười thi sĩ gọi là Ðại- Lịch thập tài tử : Lư Luân, Cát Trung Phu, Hán Hoằng, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Ðồng, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm và Lý Ðoan. Nổi tiếng hơn cả là Lư Luân, Tư Không Thự và Lý Ðoan với những bài thơ tống biệt làm theo thể ngũ ngôn luật thi. Ngoài ra Lý Ích, Cố Huống cũng là những nhà thơ nổi danh đương thời. Ðến thời Nguyên Hòa (806 820) đời Ðường Hiển Tông, và thời Trường Khánh (812 824) đời Ðường Mục Tông, xuất hiện thi hào Bạch Cư Dị thuộc phái thơ Xã hội của Ðỗ Phủ, chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh. Trong tờ Dữ Nguyên Cửu thư, Bạch Cư Dị có nhận định sau : “ Trong khoảng hai trăm năm nhà đường hưng khởi, thi nhân nhiều không kể xiết. Những tác phẩm đáng nêu ra là 20 bài thơ Cảm ngộ của Trần Tử Ngang và 15 bài thơ Cảm hứng của Bào Phòng. Người đời xưng Lý, Ðỗ là thi hào. Tác phẩm của họ Lý thực là tài, thực là khéo, người ta không theo kịp; nhưng tìm những chổ phong, nhã, tỷ, hứng, thì trong mười phần không có được một phần. Thơ họ Ðỗ rất nhiều, đáng lưu luyến có hơn môt ngàn bài, thông quán cổ kim, tường tận cách luật, còn hơn họ Lý. Nhưng kiếm những bài thơ như Tân-An lại, Thạch- Hào lại, Ðông- Quan lại, Tái lư tử, Lưu hao môn, và những câu như : “ Chu môn tửu nhục xú,
  11. Lộ hữu đống tử cốt”, thì trong mười phần không có được hơn ba, bốn phần. Họ Ðỗ còn như thế, huống hồ những người không bằng ông ?”. Bạch Cư Dị muốn trở về với những tác phong phúng dụ , ý nghĩa khuyến gián mà Nho gia thường gán cho Kinh Thi, và vì chủ đích ấy, ông thích làm những bài dùng chữ thông tục, dễ hiểu, có thể gọi là thơ bạch thoại của đương thời. Với những bài Tân nhạc-phủ và Tần trung ngâm, Bạch Cư Dị là lãnh tụ của phái thơ Xã hội thời Trung Ðường. Ngoài những bài thuộc loại phúng dụ đó ra, những bài thuộc các loại nhàn thích, cảm thương và tạp lục của ông cũng có nhiều bài có giá trị. Nhưng trái với ý muốn của tác giả , phổ biến nhất và nổi tiếng nhất lại là những bài thơ trường thiên trữ tình : Trường Hận Ca tả mối diễm tình bi thảm của Ðường Minh Hoàng với Dương Quí Phi , và Tỳ Bà Hành nói lên tâm sự người thương phụ ở bến Tầm Dương . Cùng chủ trương sáng tác và tề dang với Bạch Cư Dị , là Nguyên Chẩn . Người đương thời gọi hai ông là Nguyên Bạch , và những bài thơ bình dị của hai nhà này là Nguyên Hòa thể . Lưu Vũ Tích là bạn thơ của Nguyên Bạch , nổi tiếng về những bài hoài cổ từ điệu uyển chuyển , thanh tân . Phái Ðiền viên có các đại biểu là Vi Ứng Vật , Lưu Trường Khanh và Liễu Tông Nguyên, với những tác phẩm nhã đạm nhàn viễn , thanh dật chịu ảnh hưởng của Ðào Uyên Minh . Thời Trung Ðường mở thêm cảnh giới thi ca khác : đó là Quái Ðản phái . Các nhà thơ phái này ưa chuộng sự kỳ dị , hiểm tích trong việc đặt câu , dùng chữ , gieo
  12. vần . Lãnh tụ phái Quái đản này là Hàn Dũ , cũng chính là nhà đại văn hào phản đối biền lệ , vận động phục cổ . Châu tuần các vì sao Bắc Ðẩu này , có Mạnh Giao “ Khổ ngâm “ , Giả Ðảo “ Thôi xao “ và Lý Hạ được tiếng “ Quỉ tài “ . Cuối cùng phải nhắc đến một bài thơ nhiều người truyền tụng : Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế , Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch , Ðề Tích Sở Kiến Xứ của Thôi Hộ và Kim Lũ Y của Ðỗ Thu Nương . Ðỗ Thu Nương là một nữ lưu nhân vật , nổi danh tài sắc một thời :” Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô “ ( Tỳ Bà Hành ). 4.Thời Vãn Ðường( 836 – 905 ) Tình trạng , chính trị , kinh tế , xã hội càng ngày càng suy đồi . Quan lại tham nhũng , thuế má nặng nề , thưởng phạt bất công ,những nguyên nhân ấy đưa đến loạnVương Tiên Chi ( 874 ) rồi loạn Hoàng Sào hơn trong 10 năm , làm sụp đổi nhà Ðường . Lịch sử tái diễn cảnh hổn độn khoảngcuối đời Tùy , văn học trở lại duy mỹ lúc Ðường Sơ . Trước kia có phái Ỷ mỹ , bây giờ có phái Chi Phấn , tràn ngập phong khí hoa diễm lãng mạn . Ba nhà thơ nổi trội nhất thời này là : Lý Thương Ẩn , Ðỗ Mục và Ôn Ðình Quân . Lý Thương Ẩn là tác giả những bài thơ tượng trưng , tả những nối tình u uẩn , có nhan đề là “ Vô Ðề “ . Ông rất tài tình trong khi sử dụng thể thơ thất ngôn luật thi , khiến ta liên tưởng đến Ðỗ Phủ thời Thịnh Ðường .
  13. Ðỗ Mục thì sở trường về thể thất ngôn tuyệt cú , tề danh với Lý Thương Ẩn , kết thành cặp Lý Ðỗ của thời Vãn Ðường . Người đời gọi ông là Tiểu Ðỗ , để phân biệt với Ðỗ Phủ là Lão Ðỗ . Ôn Ðình Quân cũng nổi tiếng ngang với Lý Thương Ẩn ; người đời gọi là Ôn Lý . Ông là vị “ Khai sơn đại sư “ của lối từ trường đoản cú ; chính nhờ từ ông mà từ mới tách khỏi thi để trở thành một thể riêng biệt . Phái thơ này có những tác giả khác như : Hàn Ác , Ngô Dung , Bì Nhật Hưu , Lục Qui Mông ….nhưng tác phẩm ít và không mấy giá trị . Ngoài ra ,có Tư Không Ðồ , Trịnh Cốc , Hứa Hồn , Lý Quần Ngọc , Triệu Hỗ , Chu Khánh Dư , Tào Ðường , Trần Ðào Vi Trang , là tác giả của một số bài đáng kể . Nhà thơ Xã hội Vi Trang nổi tiếng về bài Tần Phụ Ngâm , dài 1600 chữ , tả cuộc binh loạn Hoàng Sào .Tiếp theo là Ôn Ðình Quân , ông là từ gia vĩ đại của thời Ðường . Nhà thơ thần tiên Tào Ðường với những bài Thiên Thai, đem lại cho thi ca thời này một sắc thái mới . Thời Vãn Ðường có hai nữ thi nhân là Ngư Huyền Cơ và Tiết Ðào . Ngư Huyền Cơ trước làm danh kỹ sau làm đạo sĩ . Tiết Ðào rất quen thuộc với chúng ta , với hình ảnh “ lá gió, cành chim “ Về thơ Bạch thoại , thời này có mấy nhà nổi tiếng là La Ẩn , Ðỗ Tuân Hạc và Hồ Tăng .
  14. Hết thời Vãn Ðường , thi tạm coi là kết thúc , nhường chổ cho thể từ trường đoản cú , phát triển trong thời Ngũ Ðại rồi hưng thịnh trong đời Tống II.Các thể thơ trong Đường thi Ðường Thi Tam Bách Thủ ( Ba trăm bài thơ Ðường) là cuốn hợp tuyển gồm những được cho là tiêu biểu của thi ca đời Ðường. Ta có thể căn cứ vào sự phân loại trong sách này, lấy thể thơ làm tiêu chuẩn, chia thơ Ðường ra làm sáu loại sau : ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú. Trong mỗi loại, ở phần dưới, là những bài nhạc-phủ làm theo thể thơ thuộc loại ấy. 1.Cổ thể hay Cổ phong Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Không hạn định số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Vận chính là các vận thuộc cùng một vận bộ. Vận thông là các vận thuộc hai vận bộ khác nhau, có âm thanh tương tự. Vận chuyển là những vận có âm vốn không giống nhau. Ngoài ra, thể này không phải theo niêm, luật, cũng không bắt buộc phải có đối ngẫu. Những bài thơ làm theo thể này gọi là cổ thi, bắt đầu xuất hiện vào đời Hán. Có ngũ ngôn cổ thi và thất ngôn cổ thi; trong đó có thể xen những câu dài hoặc ngắn hơn. Trước kia người ta cho rằng thể ngũ ngôn cổ thi khởi đầu từ các bài Hà Lương tặng đáp của Tô Vũ và Lý Lăng. Thực ra những bài này là ngụy tác của người đời sau. Một thuyết khác cho rằng Cổ thi thập cửu thủ ( Mười chín bài cổ thi) do Mai Thặng đời Hán Vũ Đế làm ra những bài cổ thi đầu tiên. Hiện nay người ta công nhận thuyết ấy,
  15. nhưng nghi ngờ những bài này đều không phải là của Mai Thặng, mà có lẽ là tác phẩm của nhiều người. Còn thể thất ngôn cổ thi, cho đến nay người ta vẫn cho rằng khởi đầu từ bài thơ Bách Lương làm theo lối liên cú đời Hán Vũ Đế. Sử chép rằng năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Phong (108 trước Công nguyên), vua Hán Vũ Đế xây đài Bách Lương, rồi xuống chiếu cho quần thần làm thơ thất ngôn, hễ ai làm được thì được lên ngồi trên đài này. 2.Cận thể hay Kim thể Người đời Ðường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là cận thể hay kim thể, để phân biệt cổ thể hay cổ phong nói trên. Thơ cận thể thật ra đã xuất hiện trong đời Lục Triều, sau công trình biện biệt tứ thanh của nhóm Thẩm Ướt (Thẩm Ước là tác giả sách Tứ thanh phổ, người thời Vĩnh Minh (483-493), đời Tề), và việc phân định vận của nhóm Lục Pháp Ngôn (Lục Pháp Ngôn là tác giả sách Thiết vận, người đời Tùy Văn Đế (581-640). ). Nhưng đến đời Ðường, mới có sự phân biệt rõ rệt thơ cổ với thơ cận thể . 3.Luật thi Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng : “ Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của thi như sau : a) Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết; b) Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo; c) Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm. Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.
  16. Về đối ngẫu , Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là : Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối. Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là : 1) Chính danh đối, như thiên địa đối với nhật nguyệt; 2) Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao; 3) Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách; 4) Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu; 5) Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng ; 6) Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì (theo sách Thi uyển loại cách) Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoăc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật ; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một. Tuy nhiên, người ta thấy rằng ngoại trừ khi ứng chế hoặc ứng thí, người đời Ðường thường dùng thể luật thi một cách uyển chuyển, rộng rãi. Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc hoặc tám câu toàn đối, hoặc sáu câu, hoặc hai câu đối nhau, không nhất định. Về niêm, cũng có những bài không giữ đúng lệ ( thất niêm ).
  17. Về luật, sự sử dụng “ảo cú” làm cho quy tắc bớt chặt chẽ, câu thơ có âm điệu biến đổi bất thường. Ảo cú là câu thơ trong đó có chữ đáng bằng đổi thành trắc, hay đáng trắc đổi ra bằng, không theo cách thường. Thí dụ : Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt, Tùy quân trực đáo Dạ Lang tây. (Lý Bạch) ( Lòng sầu ta gởi cùng trăng sáng, Theo gót người đi đến Dạ Lang.) Ánh giai bích thảo tự xuân sắc, Cách diệp hoàng ly không hảo âm. (Ðỗ Phủ) (Soi thềm, cỏ biếc còn tươi thắm; Cánh lá, oanh vàng vẫn hót hay.) Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên. Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau : các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).
  18. Khoảng đời Thanh, Kim Thánh Thán phê bình luật thi đời Ðường, có đề xướng cách “phân giải” như sau : 8 câu chia làm 2 giải : 4 câu đầu gọi là tiền giải, 4 câu sau gọi là hậu giải. “ Hai câu 3, 4 chuyên thừa cho hai câu 1, 2, mà các câu 1, 2 thì có dụng ý cao trội hơn và còn nghiêm ngặt hơn, so với các câu 3, 4 ; hai câu 5, 6 chuyển xuống thành hai câu 7, 8, mà các câu 7, 8 thì hàm sâu xa hơn và còn mật thiết hơn, so với các câu 5, 6. Ðâu có thể lấy hai chữ “khởi”, “kết” mà bôi bỏ đi hết bao nhiêu tâm huyết của cổ nhân !” (Kim Thánh Thán tuyển phê Ðỗ thi) 4.Tuyệt cú Trong dân ca đời Lục Triều, đã thấy những bài bốn câu năm chữ hoặc bảy chữ. Các nhà thơ mới phỏng theo đó mà làm ra những bài bốn câu ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Ðến đời Ðường, lối thơ bốn câu này rất thịnh hành và được gọi là “tuyệt cú”. Sau khi có luật thi, lối tuyệt cú vô hình trung đồng hóa trong thể thơ này. Vì thế người ta thường ngộ nhận tuyệt cú là bài thơ do sự cắt bài luật thi mà thành. “Tứ nghĩa là bốn ; tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành”. (Dương Quảng Hàm, Văn học Việt-Nam). Do đó thơ tuyệt cú cũng phải tuân theo nhưng quy tắc về niêm, luật, vận như luật thi, và cũng có hai thể ngũ ngôn và thất ngôn. Chính vì sự mơ hồ trong vấn đề nguồn gốc của lối thơ tuyệt cú mà phát sinh ra một cách cắt nghĩa khác về chữ “tuyệt” : “ Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một địa vị đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển thâm, ẩn hiện, chính kỳ, phục khởi đủ cả, cho nên gọi là tuyệt.” (Bùi Kỷ, Quốc văn cụ thể).
  19. Trong một bài tuyệt cú, câu 1 là khởi, câu 2 là thừa, câu 3 là chuyển, câu 4 là hợp. Bài Khuê oán của Vương Xương Linh là thí dụ điển hình của bố cục thơ này. Khi làm thơ tuyệt cú, các nhà thơ đời Ðường cũng có thái độ như khi làm luật thi, nghĩa là không chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc. Tóm lại, lối thơ cận thể với trật tự cẩn nghiêm, tề chỉnh, nói lên ảnh hưởng của Nho giáo, là một thành công lớn của người đời Ðường và là một bước tiến quan trọng của thi ca Trung Quốc. 5.Nhạc phủ Nhạc phủ là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có công dụng trong ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng : “Thơ tuyệt cú của ba trăm năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường”. Những bài thơ dùng trong ca nhạc đã có từ lâu, từ thời của Kinh thi và có thể trước nữa. Nhưng chỉ từ đời Hán Vũ Đế, danh từ “nhạc phủ” mới được dùng để chỉ thể thơ. Ðời Hán Huệ-đế, nhà vua thiết lập một cơ quan gọi là Nhạc phủ lệnh. Ðến đời Hán Vũ Đế (140- 86 trước Công nguyên), Nhạc phủ có qui mô mở rộng hơn, với Lý Diên Niên làm chức Hiệp luật đô úy. Từ đó trở đi, Nhạc phủ được dùng để chỉ loại thơ có thể hợp nhạc, và trở nên một thể thơ. Cuối đời Ðông Hán, vào thời Kiến An (196- 220), ba cha con họ Tào (Tào Tháo, Tào Phi Tào Thực) làm ra nhiều bài nhạc phủ cổ áo, bi tráng, nổi tiếng một thời. Ðến thời Nam Bắc triều, các điệu nhạc mới của ngoại quốc du nhập nhiều. Nhạc phủ xưa không còn hợp với âm luật mới nữa ; nhưng vẫn
  20. còn nhiều nhà thơ dựa theo những bài nhạc phủ cũ để làm ra những bài mới, tuy gọi là nhạc phủ, song thực ra không còn được dùng trong ca nhạc. Xét về nhạc phủ đời Ðường, ta thấy có thể chia ra làm bốn loại sau : 1) Những bài ca giao miếu, giống như Tụng trong Kinh Thi, không có giá trị về mặt văn chương. Thí dụ : bài Phong Thái sơn nhạc của Trương Thuyết. 2) Những bài thơ làm theo đề mục cũ của nhạc phủ, tuy có hay về mặt văn chương, nhưng không còn được dùng trong ca nhạc. Thí dụ : các bài Tương tiến tửu, Quan san nguyệt của Lý Bạch. 3) Những bài tân nhạc phủ có ý phúng dụ giống phong cách đời xưa, cũng không thể hợp nhạc. Thí dụ : 50 bài Tân nhạc phủ của Bạch Cư Dị. 4) Những bài thơ nổi tiếng được các linh quan của Lê viên phổ nhạc. Loại này có giá trị nhất, vì đích thực là nhạc phủ, lại vừa là kiệt tác xét về mặt văn chương. Ðó là những bài thơ tuyệt cú của Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Hàn, Cao Thích, Vương Duy … III.Nguyên nhân sự hưng thịnh của thơ Đường Tất cả các nhà phê bình văn học đều công nhận rằng đời Đường ( 618 – 907 ) là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Bộ Toàn Đường Thi ấn hành năm 1707 gồm 900 quyển, hợp thành 30 tập, chép 48.900 bài thơ của hơn 2.200 thi nhân đời Đường ( Đời Tống, Kế Hữu Công sọan bộ Đường Thi kỷ sự, gồm 81 quyển, chép thơ của 1.150 tác giả. Đời Minh, Cao Bính soạn bộ Đường thi phẩm vựng, gồm 90 quyển, chép hơn 5.700 bài thơ của 620 tác giả, sau lại bổ sung hơn 900 bài của 61 tác giả, làm thành 10 quyển thập di. Năm thứ 44, niên hiệu Khang Hy, đời Thanh ( 1705 ),
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2