intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tầm quan trọng của chuyển đối số đối với giáo dục đại học tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

8
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tầm quan trọng của chuyển đối số đối với giáo dục đại học tại Việt Nam" tập trung phân tích những xu hướng phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh công nghệ số; những cơ hội và thách thức của chuyển đổi số đối với giáo dục đại học Việt Nam; trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách để các cơ sở giáo dục đại học có thể thực hiện chuyển đổi số thành công.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tầm quan trọng của chuyển đối số đối với giáo dục đại học tại Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 08. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHUYỂN ĐỐI SỐ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM ThS. Ngô Hải Thanh* Tóm tắt Chuyển đổi số không chỉ mang lại hiệu quả cho chính các cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao được năng lực và chất lượng đào tạo, mà còn góp phần tạo ra những sản phẩm đóng góp vào những lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Khi hệ thống giáo dục đại học gia tăng được mức độ chuyển đổi số sẽ lan tỏa chuyển đổi số sang các ngành nghề khác, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới của Việt Nam. Bài viết dưới đây tập trung phân tích những xu hướng phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh công nghệ số; những cơ hội và thách thức của chuyển đổi số đối với giáo dục đại học Việt Nam; trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách để các cơ sở giáo dục đại học có thể thực hiện chuyển đổi số thành công. Từ khóa: Chuyển đổi số; công nghệ số; giáo dục đại học 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 749/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, giáo dục là lĩnh vực được ưu tiên chuyển đổi số thứ 2, sau lĩnh vực y tế. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của giáo dục và chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục không chỉ đối với ngành mà còn tác động rất lớn đối với đất nước. Quá trình chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo đại học ở Việt Nam đang diễn ra cùng với xu thế chuyển đổi số trong nền kinh tế. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cũng đã ban hành một số quy định làm cơ sở cho việc thúc đẩy chuyển đổi số như: các quy định ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý, vận hành, giảng dạy; tổ chức đào tạo trực tuyến, hình thành các quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, sau đại học... Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt trong cuộc sống của toàn bộ người dân trên thế giới. Các hoạt động làm * Trường Đại học Thương mại 76
  2. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ việc, học tập... không thể diễn ra như bình thường, nhưng cũng không thể bị gián đoạn quá lâu do dịch bệnh. Vì vậy, chuyển đổi số càng có vai trò quan trọng hơn nữa đối với hoạt động GD&ĐT. 2. TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ Theo Bloomberg (2018), chuyển đổi số hay chuyển đổi kỹ thuật số là tổng của tất cả các quy trình số hóa cần thiết hướng tới sự thay đổi chiến lược của một tổ chức. Theo đó, số hóa thực sự là một phần của chuyển đổi kỹ thuật số, nhưng không phải là duy nhất. Để quá trình thay đổi thành công, cần có các yếu tố cần thiết như: lập kế hoạch chiến lược phù hợp, tạo niềm tin, tư duy trong các quy trình, tích hợp tất cả các bên liên quan cũng như khuyến khích học tập cá nhân, nhóm và tổ chức. Chuyển đổi số về tổng thể là quá trình thay đổi toàn diện của các cá nhân và tổ chức về cách sống, làm việc và phương thức sản xuất, đào tạo trên môi trường số với các công nghệ số. Các mô hình và quá trình kinh doanh số sẽ tái cấu trúc nền kinh tế nói chung và từng lĩnh vực đời sống xã hội nói riêng, trong đó có lĩnh vực GD&ĐT. Chuyển đổi số một mặt vừa là quá trình chuyển đổi ở cấp độ hệ thống nhằm thay đổi hành vi trên quy mô lớn, mặt khác ở cấp độ doanh nghiệp, chuyển đổi số có nghĩa là tích hợp các giải pháp số vào tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp, thay đổi sâu sắc phương cách vận hành của doanh nghiệp bằng cách tạo ra các quy trình hoạt động kinh doanh mới, trải nghiệm khách hàng và văn hóa tổ chức. Nó không chỉ tái tạo lại những phương pháp truyền thống mà còn sáng tạo những phương pháp mới để đáp ứng những kỳ vọng thay đổi của thị trường. Nói cách khác, chuyển đổi số không chỉ là sự thay đổi trong giải pháp công nghệ hay quy trình hoạt động của một doanh nghiệp, một chủ thể trên thị trường, mà còn là sự thay đổi về văn hóa, đòi hỏi các chủ thể trên thị trường phải tái tạo lại mô hình tổ chức kinh doanh. Chuyển đổi số được hiểu là tổng các quy trình kỹ thuật số cần thiết để đạt được quy trình thay đổi, cho phép các cơ sở giáo dục đại học tận dụng thành công việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Như vậy, bản chất của chuyển đổi số là sự sáng tạo. 3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHỆ SỐ Rất nhiều công trình nghiên cứu với nhiều quan điểm khác nhau đề cập đến xu hướng phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh công nghệ số. Theo nghiên cứu của Ngô Thị Thanh Tùng và Trần Văn Hùng (2019), có một số xu hướng chính sau: Thứ nhất, xây dựng mô hình trường đại học mới - Mô hình trường đại học 4.0: Theo Giáo sư Gottfried Vossen (Đại học Munster, Đức) trường đại học 4.0 bao gồm: dạy học 4.0; nghiên cứu 4.0 và quản lý 4.0. Trong đó, dạy học 4.0 gồm có nhiều hình thức học tập mới, thời gian và địa điểm học tập không bị ràng buộc, có sự thay đổi phù hợp với đối tượng học, cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp hơn. Nghiên cứu 4.0 bao gồm: hình thức nghiên cứu mới (tốc độ, kết quả, quá trình đánh giá), hệ thống dữ liệu quy mô lớn và đa đạng nguồn hơn. Quản lý 4.0 gồm: giảng dạy (hệ thống phần mềm thực hiện được nhiều mục đích hơn, những công cụ quản lý hiệu quả hơn, hệ thống thông tin lớn hơn), nghiên cứu khoa học (hệ thống thông tin nghiên cứu khoa học, quản lý dự án), quản lý cơ sở đào tạo, bộ phận hỗ trợ tài chính. 77
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA - Mô hình trường đại học thông minh (Smart-University): Chuyển đổi số đòi hỏi cơ sở giáo dục đổi mới ở tất cả các khâu, trong đó có cả tổ chức, cấu trúc, phương pháp quản lý, hình thức dạy học và hợp tác với môi trường bên ngoài, nhất là với các doanh nghiệp. Việc áp dụng các công nghệ mới trong tổ chức, quản lý và dạy học, nhất là công nghệ Internet vạn vật vào các trường đại học sẽ nâng các trường thành “doanh nghiệp trí tuệ”, trở thành “trường đại học thông minh”. Trường đại học thông minh là mô hình trường sử dụng tổng hợp các công nghệ mới đem lại chất lượng mới trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, kinh doanh, xã hội của nhà trường phù hợp với xã hội - thông minh. Trong trường đại học thông minh, giảng viên và sinh viên phải là những giảng viên thông minh, sinh viên thông minh. Trong quá trình dạy học, họ thường xuyên sử dụng công nghệ mới và Internet để đạt được những chất lượng mới, đáp ứng những yêu cầu của xã hội thông minh. Việc xây dựng các nguồn lực giáo dục mở và các khóa học online mở không mất tiền (Massive Open Online Courses - MOOCs) được nhà trường cung cấp thông qua các nguồn lực điện tử của nhà trường có thể dần biến giáo dục đại học truyền thống thành giáo dục thông minh. - Xây dựng không gian sáng tạo: Mô hình trường đại học có vai trò như “không gian sáng tạo” và “sân chơi liên trường” (university hubs), nghĩa là thành lập các sân chơi thực tế dưới dạng các trung tâm giáo dục - khoa học dưới sự bảo trợ của nhiều trường đại học. Đồng thời, cần xây dựng “không gian mở” trong giáo dục đại học liên quan đến lập luận về một cuộc cách mạng thông tin sẽ diễn ra, trong đó nền tảng của cuộc cách mạng này là máy dịch tự động ngôn ngữ của tất cả các nước. Thứ hai, đào tạo chuyên gia các ngành công nghệ 4.0 Không ai nghi ngờ về thành tựu và hiệu quả của các công nghệ nền tảng trong cuộc CMCN 4.0. Vì vậy, việc đào tạo các chuyên gia trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực đủ về số lượng và chất lượng là một vấn đề cấp thiết đặt ra. Các trường đại học cần quan tâm tới việc mở các ngành đào tạo mới liên quan tới sự xuất hiện của công nghệ nền tảng mới; mở rộng, cập nhật và phát triển các ngành công nghệ 4.0 đang đào tạo, đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện nay. Nếu như trước đây, việc cập nhật chương trình đào tạo được tiến hành sau khoảng thời gian 5 năm thì ngày nay các chương trình đào tạo sau 2 - 3 năm đã cần phải cập nhật. Bức tranh về các công nghệ nền tảng hay còn gọi là Công nghệ 4.0 được tổng hợp lại trong 3 khối: - Khối công nghệ vật lý học: Khối công nghệ vật lý học bao gồm công nghệ chế tạo phương tiện giao thông không người lái; công nghệ in 3D; công nghệ robot; công nghệ vật liệu mới, trong đó có công nghệ nano; công nghệ năng lượng tái tạo. - Khối công nghệ kỹ thuật số: Khối công nghệ kỹ thuật số bao gồm công nghệ thông tin, trong đó có an toàn thông tin; trí tuệ nhân tạo; không gian ảo và không gian thực; Internet vạn vật (IoT) và Internet dịch vụ (IoS); dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây. - Khối công nghệ sinh học: Trong khối công nghệ sinh học, công nghệ gen có vai trò quan trọng. 78
  4. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Thứ ba, đổi mới mục tiêu, nội dung và chương trình đào tạo Mục tiêu đào tạo được định hướng gắn chặt hơn nữa với yêu cầu của thị trường lao động về năng lực, kỹ năng và phẩm chất của người lao động. Giáo dục đại học cần tạo ra tư duy phê phán, thái độ phù hợp với thông tin, nhu cầu tìm kiếm và phân tích thông tin không chỉ ở các nguồn cục bộ địa phương mà ở tất cả các nguồn trên thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, khung năng lực của người lao động cũng có nhiều biến động. Trường đại học phải là nơi cung cấp và khuyến khích phát triển các chiến lược giảng dạy và học tập phù hợp cho sinh viên trong thời đại Công nghệ 4.0. Các chiến lược này phải hướng đến các chương trình GD&ĐT có tính thích ứng cao, cải thiện trải nghiệm học tập và giảng dạy và thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời. Quan trọng hơn hết, các chiến lược đào tạo của trường đại học phải mang tính tích hợp gắn với công nghệ, cụ thể đó là gắn đào tạo truyền thống trước đây với các kỹ năng CNTT và truyền thông và khoa học dữ liệu. Thứ tư, đổi mới phương pháp, hình thức dạy học Một trong những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học là xu hướng phát triển sư phạm số, các phương pháp đào tạo mới với “không gian mở”, “khóa học ảo”, “lớp học ảo”. Chính vì vậy, để cho sự phát triển của hệ thống giáo dục cân nhắc đến yếu tố phát triển công nghệ theo hướng này, cần phải: (i) phát triển nội dung chương trình đào tạo và tài liệu dạy học trên cơ sở tính toán các thông tin không chỉ có nguồn gốc trong nước mà cả thông tin có nguồn gốc quốc tế, và như vậy sẽ ảnh hưởng đến tính mở của nền giáo dục; (ii) hình thành ở người học phẩm chất nhân cách hiểu được văn hóa, của nước khác, có tính kiên trì và kiên nhẫn; (iii) đào tạo các nhà sư phạm và dạy cách tìm kiếm thông tin, phát triển các chuyên ngành sư phạm kỹ thuật liên quan đến việc tìm kiếm, xử lý và bảo vệ thông tin, nghiên cứu các nguồn lực thông tin của các hệ thống trao đổi thông tin trên thế giới. Có thể nói, các tiến bộ về công nghệ dạy học đã mang đến sự thay đổi rõ nét trong việc dạy và học. Những đổi mới, sáng tạo như: máy tính di động, điện toán đám mây, mạng xã hội và dữ liệu lớn đã tạo ra cơ hội lớn cho việc thiết lập hệ sinh thái giáo dục mở, cho phép cá thể hóa quá trình học tập phù hợp với đặc điểm, điều kiện của cá nhân. Nhiều xu thế dạy học mới được hình thành trên nền hệ sinh thái giáo dục mở với E-Learning 4.0 tận dụng webservices API, AI, Big Data. Các hình thức giảng dạy, học tập mới như: học trực tuyến, các lớp học ảo, các phòng thí nghiệm ảo, học tập dựa trên thực hành trực tiếp, các khóa học dựa trên nền tảng trò chơi sẽ triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, các hình thức đánh giá cũng được đa dạng hóa. Ngoài kiến thức, các phương pháp đánh giá mới chú trọng đến phát triển tính sáng tạo, khuyến khích sự cộng tác nghiên cứu đa ngành để hình thành ở người học các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp. Theo Ngô Thị Thanh Tùng và Trần Văn Hùng (2019), các xu hướng liên quan đến đổi mới phương pháp và hình thức dạy học mới là: - Số hóa giáo dục: Thực chất đây là việc mở rộng các giải pháp số và các hệ thống thông tin nhằm giúp cho người học tiếp cận được với các nguồn lực giáo dục của các trường đại học tốt nhất thế giới, tiếp cận đến các thông tin về kết quả thử nghiệm và nghiên cứu khoa học, đến thư viện các bài toán và vấn đề công nghệ cũng như tiếp cận đến sự thành lập các nhóm lao động hợp tác, nghiên cứu khoa học và học tập phân cách (cách xa nhau về địa điểm). 79
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA - Vi tính hóa dạy học: Vi tính hóa dạy học có nghĩa là làm sâu sắc và phát triển khả năng xây dựng con đường học tập của cá nhân với khả năng nhận được các kỹ năng bổ sung trong suốt cuộc đời. Một khía cạnh khác của việc vi tính hóa dạy học là do yêu cầu và đòi hỏi không chỉ của sinh viên mà còn là đòi hỏi trực tiếp của nhà tuyển dụng lao động. - Tiếp cận dạy học theo dự án: Tiếp cận dạy học theo dự án là một phần không tách rời của giáo dục chuyên sâu, cho phép nâng cao đáng kể hiệu quả của quá trình đào tạo - từ giai đoạn hiểu và phân biệt vấn đề ban đầu đến giai đoạn cuối cùng là hoạt động lao động thực hành trong thị trường, công nghệ và khoa học. - Kết hợp giáo dục chính quy và phi chính quy: Điều này có ý nghĩa thực tế là loại bỏ ranh giới vật lý giữa các trường đại học và chuyển trọng tâm quá trình nhận kiến thức vào việc công nhận và đánh giá kiến thức, kỹ năng của người học không phụ thuộc vào nơi ở thực. Thứ năm, phát triển nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ Các trường đại học phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học ở quy mô quốc gia và quốc tế không chỉ ở khía cạnh nghiên cứu hàn lâm mà quan trọng là các nghiên cứu phải có tính ứng dụng cao để chuyển giao cho doanh nghiệp và các ngành kinh tế trong bối cảnh công nghệ mới. Các nghiên cứu cần gắn thế mạnh học thuật truyền thống của hệ thống đại học trong sự vận dụng đa ngành, đa lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, khoa học xã hội và các thuật toán. Theo các chuyên gia, cách tốt nhất là các trường đại học liên kết với doanh nghiệp lớn để hình thành mô hình đại học mới - mô hình đại học doanh nghiệp. Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang cách “dạy những gì thị trường cần, doanh nghiệp cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường và doanh nghiệp sẽ cần”. Theo các chuyên gia, Việt Nam cũng cần chuyển đổi cách thức giáo dục từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; phát triển GD&ĐT từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là một yếu tố quan trọng của năng lực. Về mặt quản lý, các cơ sở giáo dục cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học; gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào giáo dục đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước. 4. TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN ĐỔI SỐ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Trong lĩnh vực giáo dục, cuộc CMCN 4.0 mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức. Trong thời gian tới, Việt Nam đứng trước yêu cầu đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực nhiều triển vọng như khoa học về vật liệu mới, CNTT, công nghệ Nano, tự động hóa, điện tử viễn thông, lưu trữ năng lượng. Các cơ sở đào tạo gặp khó khăn do nhu cầu nhân lực của thị trường lao động khó dự đoán, tốc độ thay đổi công nghệ diễn ra thần tốc. Có thể nói, chuyển đổi số có ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng trên hai phương diện: (i) nội dung hay đề cương bài giảng phải thay đổi nhiều, cụ thể 80
  6. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ là có một số ngành, môn học mới sẽ ra đời và một số ngành, môn học sẽ mất đi, tuy nhiên khả năng sử dụng tiếng Anh và kỹ năng sử dụng CNTT vẫn là mẫu số chung, là đòi hỏi tiên quyết cho đại học 4.0; (ii) mô hình đào tạo và nghiên cứu sẽ thay đổi theo hướng mở và thoáng hơn nhiều, không bị giới hạn của không gian, thời gian và môi trường. Việc tuyển sinh và đào tạo sẽ khác nhiều so với mô hình truyền thống, bởi vì sẽ có nhiều yếu tố mới như đối tượng tuyển sinh có thể mở rộng ra khắp thế giới, với độ tuổi khác nhau và ở các thời điểm khác nhau. 4.1. Về cơ hội Theo Võ Văn Thắng và các cộng sự (2017), công nghệ số hứa hẹn sẽ tạo ra những bước đột phá mới trong hoạt động đào tạo, nó làm thay đổi mục tiêu, mô hình đào tạo truyền thống bằng cách thức chuyển tải và đào tạo kiến thức hoàn toàn mới. Sự phát triển CNTT, kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức và phương pháp giảng dạy. Các lớp học truyền thống với những hạn chế như: chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, không thuận lợi cho một số đối tượng… sẽ được thay thế bằng các lớp học trực tuyến, lớp học ảo, chi phí thấp. Chất lượng đào tạo trực tuyến có thể được kiểm soát bằng các công cụ hỗ trợ như các cảm biến và kết nối không gian mạng. Không gian học tập cũng sẽ đa dạng hơn, thay vì những phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống thì người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo, có thể tương tác trong điều kiện như thật thông qua các phần mềm và hệ thống mạng. Cơ sở dữ liệu lớn sẽ là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân tích, nhận dạng xu hướng hay dự báo kinh doanh ở mức chính xác cao. Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể nữa, mà người học có thể khai thác ở mọi nơi một cách dễ dàng. Chương trình học cũng được thiết kế đa dạng, linh hoạt, cụ thể hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học. Chuyển đổi số sẽ làm cho doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục gắn bó với nhau hơn, tạo ra môi trường thực hành đa dạng, giúp người học tiếp cận sớm với môi trường làm việc thực tế ngay từ khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. 4.2. Về thách thức Bên cạnh những cơ hội mà chuyển đổi số mang lại, nhiều thách thức cũng sẽ đặt ra đối với lĩnh vực đào tạo trong thời gian tới và là nhiệm vụ mà các trường đại học phải giải quyết: Thứ nhất, nền tảng của công nghệ số là sự kết nối giữa thế giới thật và ảo thông qua phần mềm CNTT, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy, kiến thức và kỹ năng về CNTT và kỹ thuật số có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình dạy, học và quản lý. Điều này đòi hỏi các trường đại học phải đào tạo đủ chuyên gia CNTT, trang bị cho người học đầy đủ các kiến thức và kỹ năng có liên quan để đáp ứng nhu cầu xã hội. Thứ hai, vấn đề thất nghiệp được dự báo sẽ là hiện tượng phổ biến. Với hệ thống thực ảo (Cyber Physical System - CPS) phát triển mạnh mẽ, nhiều robot đã và đang được tạo ra có khả năng thay thế hầu hết công việc của con người. Ở Nhật Bản, có hai khách sạn mà nhân viên tiếp tân, phục vụ đều là robot. Tương tự, trong năm 2015, McDonald’s đã mở một nhà hàng chỉ sử dụng các robot ở Phoenix, bang Arizona (Montaqim, 2016). Theo đó, từ 10 - 20 nhân viên một nhà hàng truyền thống sẽ chỉ còn 2 - 3 người quản lý. Trong một nghiên cứu phân tích về vấn đề việc làm dễ bị tin học hóa như thế nào, Frey và Osborne (2013) dự đoán rằng, 47% công việc tại Mỹ hiện nay sẽ được tự động hóa trong vòng 20 năm tới. Một nguy cơ khác nữa là ngày nay, 81
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA các doanh nghiệp tư nhân có xu hướng thực hiện đào tạo riêng cho công ty mình (BBC Academy hay Microsoft Virtual Academy...) nên việc sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm sẽ trở thành phổ biến. Thứ ba, chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa đủ linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu thế thị trường lao động. GD&ĐT sẽ là một trong 9 lĩnh vực có nhiều thay đổi, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, bởi vì ranh giới giữa các lĩnh vực này là rất mong manh. Các trường đại học thực hiện hoạt động đào tạo theo hai hướng, một mặt phải đáp ứng tính định hướng xã hội, mặt khác đào tạo cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tuy nhiên, áp lực đối với các trường đại học càng lớn hơn khi chương trình đào tạo phải vừa đáp ứng tính chuyên môn cao trong lĩnh vực nhất định, vừa đáp ứng tính liên ngành và xuyên ngành và các kỹ năng khác không thể thiếu như: khả năng tư duy hệ thống, khả năng phản biện, khả năng tổng hợp, khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác liên ngành… Trong bối cảnh kiến thức về công nghệ thay đổi rất nhanh, việc trang bị phương pháp tự học và ý thức học tập suốt đời đóng vai trò quan trọng hơn kiến thức có trong chương trình đào tạo. Có thể nói, chuyển đổi số sẽ tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo bởi việc phát triển chương trình đào tạo, cập nhật nội dung chương trình, đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thứ tư, một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào tạo bậc cao là cách thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến người học. Công nghệ số là không có giới hạn, kiến thức học ở trường chỉ là phần “cứng”, một trong những phần hình thành nền tảng tri thức, một trong những yếu tố hình thành kỹ năng lao động mà thôi. Vai trò của người thầy thay đổi, ở đó phương thức và phương pháp giảng dạy cũng thay đổi với việc ứng dụng mạnh mẽ CNTT, công nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình thức đào tạo online, lớp học ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng… sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp phổ biến trong tương lai. Điều này sẽ tạo áp lực lớn cho các cơ sở đào tạo trong việc chuẩn bị nguồn lực tổ chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy, xây dựng không gian học tập… Thứ năm, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, những kỹ năng cần thiết của người lao động sẽ được thay đổi, gây nhiều tác động đến thị trường. Công nghệ số có hai mặt, nó có thể là nguy cơ của đội ngũ lao động giản đơn, đồng thời nó sẽ tạo ra những cơ hội, công việc mới cho những ngành nghề có hàm lượng chất xám cao, ngành nghề tự do hay các công việc trực tuyến hoặc những công việc chuyển đổi khác. Đây là xu hướng tất yếu đòi hỏi người lao động ngoài kỹ năng của một ngành nghề đặc thù cần phải có những kỹ năng mềm (kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo…) để có thể thích ứng với mọi môi trường lao động, mọi ngành nghề. Những kỹ năng này không chỉ được đào tạo ở đại học mà cần thiết ở tất cả bậc học, ở mọi cơ sở đào tạo, thậm chí các kỹ năng này nên được hình thành, phát triển ngay từ khi còn nhỏ. 5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH Chuyển đổi số trong đào tạo đại học không đơn giản chỉ là quá trình thay đổi cách dạy, cách học hay là chuyển từ dạy và học trực tiếp sang dạy và học trực tuyến. Chuyển đổi số trong đào tạo đại học thực chất là đưa toàn bộ hoạt động đào tạo lên môi trường số, là sự thay đổi cách vận hành của hoạt động đào tạo trên các nội dung trọng tâm: hoạt động dạy, hoạt động học tập, hoạt động nghiên cứu và hoạt động quản lý các quá trình dạy, học và nghiên cứu. 82
  8. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Để có thể chuyển các các hoạt động trên sang môi trường số, tức là thực hiện chuyển đổi số đào tạo đại học, đòi hỏi phải thực hiện số hóa các thông tin đầu vào liên quan người dạy, người học, tài liệu, nguồn lực, quy trình... Đây chính là bước chuyển đổi thông tin ở thế giới thực sang định dạng kỹ thuật số. Trên cơ sở hệ thống dữ liệu, việc ứng dụng kỹ thuật số để liên kết, sử dụng dữ liệu số sẽ làm cho hoạt động đào tạo trở nên thuận lợi hơn, nhanh và hiệu quả hơn so với cách thức hoạt động đào tạo truyền thống, khi phải tác nghiệp với hồ sơ lưu trữ. Và khi các hoạt động diễn ra trên môi trường số sẽ làm gia tăng và làm giàu hơn nguồn dữ liệu về hoạt động đào tạo đại học cũng như mở ra phương cách đào tạo và quản lý hoạt động đào tạo mới. Như vậy, số hóa dữ liệu là bước khởi đầu cho quá trình chuyển đổi số đào tạo đại học. Để thực hiện chuyển đổi số thành công, các trường đại học phải có những hướng đi và giải pháp đúng đắn, phù hợp. Về phía nhà trường, phải nhận thức đúng vai trò của chuyển đổi số, xây dựng chiến lược và triết lý giáo dục hướng tới một nền giáo dục bền vững; đổi mới mô hình đào tạo và chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu hội nhập với sự phát triển ngày càng nhanh của công nghệ; xây dựng đội ngũ quản lý và giảng viên có trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế trong hoạt động GD&ĐT. Về phía đội ngũ quản lý và giảng viên, cần xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của bản thân đối với sự nghiệp GD&ĐT trong thời kỳ chuyển đổi số; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sử dụng hiệu quả các ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động quản lý, giảng dạy. Về phía sinh viên, cần chủ động, tích cực trong học tập; trau dồi và phát triển các kỹ năng mềm một cách khéo léo, giúp cho quá trình học tập và làm việc sau này đạt hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bloomberg J. (2018), “Digitization, Digitalization, And Digital Transformation: Confuse Them At Your Peril”, Forbes, 2018. 2. Frey C. B., Osborne M. A. (2013), The Future of Employment: How susceptible are jobs to computerisation?, Working paper, Oxford Martin Programme on the Impacts of Future Technology, Oxford Martin Programme on Technology and Employment. 3. Montaqim, A. (2016), “Do you want chips with that? How robots are threatening millions of fast food jobs”, Robotics and Automation News. 4. Ngô Thị Thanh Tùng, Trần Văn Hùng (2019), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng phát triển giáo dục đại học - Kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số17 tháng 5/2019. 5. Võ Văn Thắng và các cộng sự (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang, số 16 (4) năm 2017. 83
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2