Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
<br />
THƠ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG SAU 1975<br />
– NHỮNG ĐIỆU TÂM TÌNH<br />
Nguyễn Lâm Điền<br />
Khoa Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Tây Đô<br />
(Email: nldien@ctu.edu.vn)<br />
Ngày nhận: 05/5/2017<br />
Ngày phản biện: 22/5/2017<br />
Ngày duyệt đăng: 02/6/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thơ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau 1975 là những điệu tâm tình chất chứa<br />
bao niềm vui, nỗi buồn và cả bao điều trăn trở trước cuộc đời. Qua đó, người đọc hình<br />
dung được phần nào bức chân dung tinh thần mang dấu ấn riêng của cuộc sống, cách<br />
cảm nghĩ và lối sống thấm đượm nghĩa tình của con người ĐBSCL. Điều đó đã góp phần<br />
làm nên sinh lực nghệ thuật riêng, sự khởi sắc rất đáng trân trọng của thơ ĐBSCL.<br />
Từ khóa: Thơ Đồng bằng sông Cửu Long, niềm tự hào, suy tư, trăn trở; khát vọng về<br />
tình yêu và hạnh phúc<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Sau năm 1975, cùng với sự phát<br />
triển, đổi mới của văn học dân tộc, góp chút tình riêng để làm nên dòng<br />
văn học ở Đồng bằng sông Cửu Long chảy đằm thắm, trữ tình cho thơ<br />
(ĐBSCL) nói chung và thơ ĐBSCL ĐBSCL sau 1975. Những nỗi niềm<br />
nói riêng có nhiều khởi sắc. Đội ngũ riêng tư, những chiêm nghiệm sâu<br />
nhà thơ nơi đây ngày càng thêm đông sắc về con người và cuộc đời qua<br />
đảo, giàu tài năng và tâm huyết với những vần thơ của họ càng lúc càng<br />
đời, với thơ. Bên cạnh các nhà thơ trở nên phong phú, sâu sắc và mãnh<br />
sáng tác từ trước 1975 như Trang Thế liệt. Bên cạnh nét chung, thơ ĐBSCL<br />
Hy, Nguyễn Bá, Lê Chí…, còn có có những nét riêng thể hiện sinh động<br />
thêm nhiều nhà thơ khác như Song những điệu tâm tình chất chứa bao<br />
Hảo, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu niềm vui, nỗi buồn và cả bao điều<br />
Hoài, Lê Tân, Nguyễn Lập Em, Hồ trăn trở về cuộc sống của con người ở<br />
Tĩnh Tâm, Thai Sắc,…Tất cả họ đã miền đất phương Nam Tổ quốc.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trích dẫn: Nguyễn Lâm Điền, 2017. Thơ đồng bằng sông Cửu Long sau 1975 – Những<br />
điệu tâm tình. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại<br />
học Tây Đô. 01: 113-121.<br />
113<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
<br />
2. Niềm tự hào trân trọng về cảnh Mà sự sống<br />
và người ở ĐBSCL như một điều lạ vậy<br />
Hơn ai hết, các nhà thơ ĐBSCL như một điều chưa ai hiểu ra<br />
luôn trân trọng, tự hào về những vẻ<br />
đẹp giản dị và yên bình của một vùng bất chợt lạ lùng<br />
đất nặng nghĩa tình. Vẻ đẹp đó có từ trắng muốt một bông hoa…<br />
xa xưa nhưng không phải ai và không<br />
phải lúc nào cũng cảm nhận được. (Chùm phong lan còn lại trong<br />
Chính tình yêu và sự gắn bó sâu nặng rừng cháy)<br />
với quê hương đã tạo cho họ sự rung Vẻ đẹp của cảnh sắc ĐBSCL được<br />
động mãnh liệt và có được nguồn các nhà thơ diễn tả gắn liền với đặc<br />
cảm hứng sáng tạo. Bởi thế, những trưng của thiên nhiên nơi đây qua<br />
vần thơ của họ có giọng điệu ngọt cảnh mùa mưa và mùa khô; dòng<br />
ngào và đằm thắm, thiết tha khi tâm sông và cánh đồng... Người đọc dễ<br />
tình về nét đẹp riêng của vùng đất nhận ra những hình ảnh mang nét đẹp<br />
này. Họ nhận ra ý nghĩa của cuộc đời tình quê giản dị, ấm áp và da diết đến<br />
từ những điều bình dị như: Cát ở nao lòng trong Mùa nước nổi (Hoài<br />
Trường Long Hòa “vẫn thầm lặng/ Thân) với cảnh “Bông điên điển nở<br />
mở lòng cùng cuộc sống”; và Rừng vàng soi mặt nước chiều đông”, “Hoa<br />
tứ giác Long Xuyên “gọi đất nghìn súng chen nhau tỏa rợp cánh đồng /<br />
năm thức dậy” để đem lại “cho đời Con thuyền nhỏ chòng chành trên<br />
những điều ngon ngọt”; đó còn là nét mặt nước” và cảnh:<br />
đẹp trữ tình, thơ mộng của một bãi Cánh chim chiều chợt đậu nhánh<br />
biển: bần xưa<br />
Biển trong lắm Soi nỗi nhớ dòng sông thơ mộng<br />
bãi Thơm mùa trầm dậy ước.<br />
gọi mời người qua bến (Bóng chiều phai – Lâm Tẻn Cuôi)<br />
hẹn ngày vui. Hay là:<br />
(Bãi Thơm mùa biển trong- Tháng sáu nước quay điên điển trổ<br />
Nguyễn Lập Em) bông<br />
Cũng từ cách cảm nhận đó, trước Con cá linh non lội ngược miền cổ<br />
hình ảnh cánh hoa phong lan mỏng tích<br />
manh tồn tại trong rừng U Minh qua Hạt nếp dẻo chín thơm ngày mơ<br />
bao lần lửa cháy, Lê Chí có được ước<br />
cảm giác bất ngờ, thú vị và chợt thấy<br />
“rừng bỗng trẻ” khi sự sống nơi đây Ta mở dây tình thôi cột chặt bến<br />
vẫn “náo nức sinh sôi” đến “lạ lùng”: người dưng.<br />
<br />
114<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
(Trách người dưng – Trương Công khắc bình yên đối với ngư dân cũng<br />
Thuốt) là điều vô giá:<br />
Vẻ đẹp của miền đất ĐBSCL Cũng có lúc bình yên ngắn ngủi<br />
không chỉ do thiên phú, mà còn được Trăng chiều treo cột đáy – cánh<br />
tôn tạo thêm bởi bàn tay của những nhàn bay<br />
người “Trọng nghĩa khinh tài, vi<br />
nhân bất phú/ Đất phù sa nuôi tâm Sào phơi lưới đắp lưng trời đã dịu<br />
tính phù sa…”(Chiếc cầu khỉ năm Mũi Cà Mau nằm nước phía cuối<br />
2000 – Lê Đình Bích). Với nhận thức ngày.<br />
đó, Kim Ba đã bày tỏ niềm xúc động<br />
trước những người làng quê chân (Bình yên)<br />
chất, mộc mạc qua các bài thơ: Má Trải bao tháng năm gian khó, cuộc<br />
dặm lúa một mình, Cô gái nhìn sống ngày một đổi thay, niềm vui<br />
ngược sóng, Người rọc lá, Người cù trong cuộc đời dần đến với họ. Cầu<br />
lao,…Trong khó khăn, gian khổ, họ Mỹ Thuận và cầu Cần Thơ không chỉ<br />
vẫn lặng lẽ, cần mẫn xây đắp và tô nối đôi bờ xa cách, mà còn nối những<br />
thắm thêm vẻ đẹp của quê hương niềm vui cho cuộc sống ở ĐBSCL.<br />
mình: Gắn bó sâu sắc, bền chặt với cuộc<br />
Người đơn độc cắm cây khi cù lao sống, con người ĐBSCL, Lê Đình<br />
chưa phải cù lao Bích đã có những vần thơ rất đặc sắc<br />
về hình ảnh cầu Mỹ Thuận - Chiếc<br />
con đóm điệu hò bay qua không cầu khỉ năm 2000. Với sự liên tưởng<br />
tìm ra chỗ đậu độc đáo, anh đã đem lại cho người<br />
ngâm mình trong nước bùn gắng đọc sự bất ngờ, thú vị, khi cảm nhận<br />
dò chỗ nông sâu con người ĐBSCL mở đất không chỉ<br />
bằng dũng khí, mà còn “mở đất với<br />
đắp đập xây đê cho phù sa nương cây đàn”, “cởi lớp áo thủy triều/ đánh<br />
náu. thức nàng công chúa/ soải người<br />
(Người cù lao) trong biển/ Ba Động/ Rạch Gầm/ Tà<br />
Giữa bao nhiêu sự bộn bề của cuộc Niên/ Lung Prêk”; hơn nữa là “Mở<br />
sống, tự sâu thẳm lòng mình, Nguyễn chín cửa sông/ tạc chín Long Kì/ Đắp<br />
Bá vẫn thắm nặng nghĩa tình thủy chín chữ cù lao xây nên vạt cát bồi<br />
chung với vùng đất và con người Cà Châu Thổ…”. Niềm vui, hạnh phúc<br />
Mau. Nhà thơ hiểu rõ, chính nơi trước những đổi thay của cuộc sống ở<br />
“nước trời ngự trị” và “biển đong đưa ĐBSCL được nhà thơ thể hiện qua<br />
cuộc sống giữa nước trời”, con người hình ảnh thơ mang vẻ đẹp trữ tình:<br />
phải luôn đối mặt với bao thử thách Trăng châu thổ tháng tư<br />
khôn lường, phải bám biển để dành rải sợi vàng<br />
sự sống, để ước mơ và khao khát về<br />
tình yêu, hạnh phúc; nơi đó khoảnh giữa lòng phù sa Nam Bộ<br />
115<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
Tổ quốc qua rồi những tháng năm vuốt ve mơn trớn<br />
gian khó ru mình lạc giữa thực, hư!<br />
Người ơi người! (Ngẫm nghĩ cà phê)<br />
cởi áo qua cầu… Trong bối cảnh đời sống xã hội<br />
xanh lại khoảng trời xanh… sau 1975, thơ dần trở về với cái tôi cá<br />
3. Và những suy tư, trăn trở nhân và đòi hỏi sự thức tỉnh nhu cầu<br />
cá thể, khẳng định cá tính. Nhà thơ<br />
Bên cạnh những vần thơ ngợi ca có điều kiện thuận lợi để đối diện với<br />
những điều tốt đẹp, giãi bày những mình, đánh thức mình và để khám<br />
niềm vui và tự hào, thơ ĐBSCL còn phá giãi bày cái thế giới nội tâm chứa<br />
thể hiện sự suy ngẫm, nỗi trăn trở khi đầy bí mật của đời mình. Cũng do<br />
cuộc sống xung quanh ta vẫn tồn tại vậy mà nhu cầu giãi bày tâm tình cõi<br />
không ít điều xấu xa, giả dối. Trước riêng tư trong thơ ngày càng được thể<br />
thực tại đó, nhà thơ ở ĐBSCL càng hiện đậm nét hơn. Các nhà thơ không<br />
hiểu đời, hiểu mình hơn và họ nhận ngần ngại khi tự vấn, tự bạch, tự họa<br />
ra bao điều phức tạp trong hiện thực chân dung tinh thần của mình. Cùng<br />
đa diện, đa chiều mà không dễ gì lí mạch cảm hứng chung với thơ Việt<br />
giải đầy đủ được. Cũng vì lẽ đó, Nam, thơ ĐBSCL sau 1975 ở một<br />
giọng tâm tình của họ vừa xót xa vừa mức độ nhất định cũng tâm tình theo<br />
trăn trở khi mà cái phi lí, cái “lợi hướng đó. Nhân vật trữ tình trong thơ<br />
quyền hèn hạ” được “ẩn mình trong Song Hảo tâm tình về hành trình “tìm<br />
những màu hoa” và cả trong ly cà lại chính mình” khi “lâu rồi lãng<br />
phê pha bắp. Với những tâm tình quên” và “tôi lạc mất tôi”, “tôi mơ<br />
trong bài thơ Ngẫm nghĩ cà phê, Lê hồ”…, giờ đây say đắm niềm vui<br />
Chí đã chỉ ra cái phi lí giữa cuộc đời, hạnh phúc nhận ra mình:<br />
khi cái phần trăm giả dối cứ tăng dần<br />
và đẩy văng sự thật. Để rồi, thời gian Tôi tìm lại chính mình nguyên bản<br />
trôi qua, cái giả dối trở nên quen Tôi gặp lại lòng tôi thanh thản<br />
thuộc. Bao người “thích nghi”, …….<br />
“không còn phản ứng” và thậm chí,<br />
còn cảm thấy thích thú hài lòng khen Tôi chợt khóc<br />
“ngon”, cho đến ngày nào đó mới Giọt nước mắt vỡ ra và nóng bỏng<br />
giật mình hốt hoảng nhận ra sự thật nụ cười.<br />
và xót xa, cay đắng:<br />
(Tự bạch)<br />
Tôi nguyền rủa mình<br />
Cũng với hướng tâm tình trên,<br />
sao lại dễ quen với thứ cà phê ma Thai Sắc Về quê và trầm tư ở Một<br />
quái ấy góc làng lặng lẽ để trở lại với chính<br />
như quen sự đánh lừa mình, “gặp lại chính mình” và “giật<br />
mình những nẻo trần gian bụi lầm”.<br />
116<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
Không ồn ào, lí sự, không triết lí về về với “bến quê buồn”và “neo đời<br />
những điều cao siêu, anh lặng lẽ tự một khúc sông”,… Họ “xem đời như<br />
vấn, tự soi xét và nhận thức về mình giấc mộng” và muốn tìm một cuộc<br />
để rồi cảm thấy lòng mình thanh thản sống riêng, suy ngẫm về đời theo<br />
hơn, cuộc đời trở nên có ý nghĩa hơn: cách riêng của mình. Với họ, khi đó,<br />
Góc làng ấy tôi uống giọng bà không gì có ý nghĩa hơn là được thả<br />
những đêm cổ tích thiêng liêng hồn mình trong không gian êm đềm,<br />
trong lành của bến quê nghèo và sống<br />
Thạch Sanh còn mãi lòng trung thanh thản dẫu đời còn lắm nỗi bể<br />
thực dâu. Nhiều bài thơ của Trịnh Bửu<br />
Hoàng hậu Tấm vẫn nết người Hoài như Nhớ bạn, Bạn tôi, Chiều<br />
chân chất Kinh Bắc,… bộc lộ sự trăn trở, thao<br />
thức, suy tư về mối quan hệ giữa<br />
Vân Tiên bao giờ cũng là đấng người với người trong “Một cõi nhân<br />
trượng phu sinh lắm khóc cười” và “ Nhân gian<br />
(Một góc làng lặng lẽ) đông tri kỉ có bao người”, nhất là khi<br />
Trong thơ ĐBSCL còn có những tình cảm đạo đức và niềm tin vào con<br />
tâm tình về đời người với bao nỗi người bị tác động bởi cái xô bồ, hỗn<br />
truân chuyên và giãi bày niềm trăn tạp giữa cuộc đời. Trên cơ sở đó, nhà<br />
trở, lo âu trước bao điều diễn ra trong thơ ngộ ra:<br />
đời sống. Trước thực tại của cuộc đời Có đứng ngắm núi cao vòi vọi<br />
“phức tạp và đa đoan”, Hồ Tĩnh Tâm Mới thấy lòng rộng tựa trùng khơi<br />
tâm tình nỗi niềm riêng và có khát<br />
vọng cảm nhận đến tận cùng lẽ yêu (Nhớ bạn)<br />
thương, sự cảm thông đối với nỗi khổ Cuộc sống con người có khi bị<br />
đau của người đời: chìm lấp với bao điều bộn bề phức<br />
Bìm bìm đeo kiếp chúng sinh tạp và lắm nỗi bể dâu, để rồi có lúc<br />
nào đó giật mình nhớ về một thời đã<br />
Tang bồng giọt lệ phiêu linh cõi qua… Đinh Thị Thu Vân đã bày tỏ<br />
thiền một cách chân tình niềm trăn trở đó<br />
Tơ chùng bấm nỗi niềm riêng với sự hi vọng có “một ngày ta ngoái<br />
Rưng rưng trời đất cho nghiêng lại”:<br />
đêm gầy. Rồi sẽ có một ngày, sau tháng<br />
(Chợp trăng thu) ngày dâu bể<br />
<br />
Ở một phương diện khác, Trịnh Chúng mình cùng ngoái lại tìm<br />
Bửu Hoài tâm tình về quan niệm nhau<br />
sống của con người cá nhân. Có Ta nói yêu thương khi mắt đổi thay<br />
không ít người chối bỏ cảnh “bon màu<br />
chen xuôi ngược” giữa dòng đời để<br />
117<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
Bàn tay héo cầm lâu cho ấm mãi. nghĩ về dòng sông, chuyến đò và<br />
(Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại) hình ảnh của ngư lão đã khuất:<br />
<br />
Nhận thức về bản ngã và thân Ngư lão hiện hồn râu đã bạc<br />
phận của con người trước biến động Trên chiếc thuyền xa trôi ngẩn ngơ<br />
của đời, các nhà thơ qua việc tâm (Chuyến đò khuya)<br />
tình để gửi gắm, giãi bày tâm trạng,<br />
mà nhất là nỗi buồn nhân thế. Đó là Một trong những nỗi buồn da diết<br />
nỗi buồn khi nghĩ về thân phận của và sâu lắng nhất được thể hiện trong<br />
người má vất vả, gian lao qua hình thơ ĐBSCL là nỗi buồn vì đời người<br />
ảnh đôi tay gầy “run run tẻ từng dảnh hữu hạn, nên phải vĩnh viễn mất đi<br />
mạ” và má“như con cò lui cui trên người chồng, người bạn, người đồng<br />
đồng vắng” (Má dặm lúa một mình – nghiệp thân thiết, nghĩa tình… Với<br />
Kim Ba), hay là nỗi buồn khi nghĩ về Đinh Thị Thu Vân đó là nỗi đau mà<br />
cuộc đời của “Người đàn bà gánh nỗi “không thể đau thêm” và “bao nhiêu<br />
nhọc nhằn xuống phố/ Đi qua thời nước mắt tủi buồn, em trao…”(Khóc<br />
son trẻ lao đao” (Bức tranh – Song những ngày mai); đó là sự nghẹn<br />
Hảo). Trước cảnh đời thực tại, không ngào của Trịnh Bửu Hoài khi không<br />
ít nhà thơ nhớ về tuổi thơ và trong còn bạn thơ tri âm, tri kỉ:<br />
điệu tâm tình của họ man mác nỗi Bạn đã về mãi mãi Bắc Đuông<br />
buồn. Họ nuối tiếc bao điều hồn<br />
nhiên, giản dị đã qua đi: Dòng sông xưa hát lời ru của mẹ<br />
<br />
Ta trở về tìm lại tuổi thơ Những câu thơ bây giờ lặng lẽ<br />
<br />
Bóng thời gian ngả dài dưới tàn Kết thành sao soi một kiếp người<br />
đa cũ (Đưa bạn về Bắc Đuông)<br />
Trời vẫn trẻ mà cây thành cổ thụ Chính sự chân thành trong tình<br />
Ta chạnh lòng thèm một chút hồn cảm và niềm tiếc thương đối với<br />
nhiên. người đi xa đã giúp các nhà thơ hiểu<br />
người, hiểu mình và hiểu đời hơn để<br />
(Ký ức – Trịnh Bửu Hoài) nhận ra bao điều ý nghĩa từ nỗi buồn<br />
Tìm về với kí ức tuổi thơ, Vũ đau, mất mát đó.<br />
Hồng không chỉ bày tỏ nỗi buồn nuối 4. Những khát vọng về tình yêu và<br />
tiếc “chút tuổi thơ đọng theo giọt hạnh phúc<br />
mưa đầu mùa” mà còn nhận ra thân<br />
phận của bạn bè theo thời gian trên Đến với thơ ĐBSCL, người đọc dễ<br />
những nẻo đường đời và “nói năng nhận ra, các nhà thơ ĐBSCL dành<br />
đôi lời triết lí” (Thơ cho bè bạn); hay nhiều trang thơ để gởi gắm những<br />
bâng khuâng, man mác nỗi buồn khi điệu tâm tình về tình yêu lứa đôi. Lời<br />
thơ, lời tâm tình của họ thiết tha, sâu<br />
lắng và chan chứa niềm khát vọng<br />
118<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
được sống trong tình yêu, hạnh phúc. đất với khí phách trọng nghĩa, khinh<br />
Họ hướng đến giãi bày chân thành tài. Cũng vì thế mà người làm thơ<br />
cõi miền rất riêng tư, quen mà lạ, tình nơi đây thường khám phá và giãi<br />
thực hơn và đời hơn.Nguyễn Lập Em bày tình yêu gắn liền sự thủy chung.<br />
nhận ra:“Lời tự tình muôn thuở cứ Trong bất cứ hoàn cảnh nào trên hành<br />
non tơ” và thấu hiểu: “Em sẽ già nếu trình mưu sinh, em vẫn đợi, vẫn chờ<br />
không biết yêu thương” để rồi cầu anh, qua gian nan, thử thách sẽ giàu<br />
mong Xin đừng ai đơn chiếc. Còn Hồ thêm nghĩa tình, nên “Bao giờ anh<br />
Tĩnh Tâm quan niệm Tình yêu là hạt đau khổ / Hãy tìm về với em” (Tâm<br />
giống nở thành hoa, cho dù “giọt hồn – Song Hảo). Càng xa cách thì<br />
hạnh phúc tình yêu trào nước mắt”, lứa đôi càng khao khát sự gần gũi,<br />
“đầy giông bão”, “cao vòi vọi”..., yêu thương, càng hi vọng, đợi chờ và<br />
nhưng có tình yêu là có tất cả và cuộc nghĩ về niềm hạnh phúc trong cảnh:<br />
đời sẽ trở nên có ý nghĩa hơn. Với Lê Anh dạo đờn em ngân bài Dạ Cổ<br />
Chí,“cuộc sống sẽ khổ sở vô cùng”<br />
Nếu một ngày anh chẳng còn em và Đêm quê nghèo thương mấy nhịp<br />
trăn trở: song loan…<br />
có lẽ nào lại chết (Về nghe em – Huỳnh Văn Út)<br />
hạt tình yêu gieo giữa trái tim Mặt khác, trong thơ ĐBSCL cũng<br />
mình. có những điệu tâm tình, giãi bày về<br />
cái mất mát, tan vỡ, nỗi đau buồn về<br />
Với anh, em đến “Rồi ươm mầm sự thay lòng đổi dạ, sự trống vắng vô<br />
hạnh phúc non xanh”, “Em ngọt ngào vọng, niềm khắc khoải chênh vênh<br />
tiễn ta vào giấc ngủ”, em không thể của tình yêu và cả sự tiếc nuối mối<br />
thiếu vắng trong cuộc đời anh và tình đầu đầy dư vị lãng mạn. Có<br />
trong lẻ loi, anh Đợi em từ phía chân những nỗi buồn sâu kín trong đáy<br />
trời (Nguyễn Thanh Toàn). Hồ Thủy lòng của cuộc sống vợ chồng khi tình<br />
mong Về lại chốn xưa để “nhóm lại yêu đã trở thành quá khứ, và thực tại<br />
chút tình xưa”. Còn với em, cuộc đời “hoàng hôn rũ xuống đời nhau” để<br />
sẽ trở nên trống rỗng nếu ta không rồi “Em giật mình thức giữa đêm sâu<br />
bên nhau và không ngại ngần khi giãi / Thèm một nụ hôn nồng ấm”; khi đó<br />
bày: em thảng thốt, xót xa và trăn trở:<br />
Nếu không có anh chung bước Không biết tự bao giờ<br />
Mình em lạc giữa đời thường. Em đã thành góa phụ<br />
(Điều em muốn nói - Hồng Hạ) Trong ngôi nhà luôn có anh.<br />
Giữa bao nhiêu sự bộn bề, phức (Góa phụ- Song Hảo)<br />
tạp và nhiều đổi thay của đời sống,<br />
người ĐBSCL vẫn giữ được nét đặc Tình yêu mang vẻ đẹp trữ tình,<br />
điểm truyền thống của người đi mở trong sáng, lãng mạn, chân thành và<br />
119<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
thường gắn với những kỉ niệm thiêng đẹp đa dạng, phong phú cho điệu tâm<br />
liêng trong đời người, nhưng khi tình tình trong thơ ĐBSCL sau 1975.<br />
yêu bị phản bội thì sự thật lại trở nên 5. KẾT LUẬN<br />
“lạnh lùng”, “thê thảm”, “chán<br />
chường”. Sự giả dối trong tình yêu Đến với thơ ĐBSCL sau 1975,<br />
quả là “tàn nhẫn” và “khôi hài” khi: người đọc có điều kiện để hiểu hơn<br />
những điệu tâm tình chan chứa niềm<br />
sẽ chẳng bao giờ em nhận ra được tự hào, tin yêu và cả nỗi trăn trở, thao<br />
hết thức về cuộc sống của người<br />
những phũ phàng anh đã tặng cho ĐBSCL. Tuy chưa có sự đột phá<br />
em mạnh mẽ để tạo nên bước ngoặt trên<br />
nếu không có một ngày trái tim em hành trình tìm tòi, đổi mới thơ Việt<br />
thuộc về người khác. Nam, vì điều đó không hề đơn giản,<br />
nhưng thơ ở ĐBSCL đã giúp cho<br />
(Trần trụi tình yêu – Đinh Thị người đọc hình dung được phần nào<br />
Thu Vân) bức chân dung tinh thần mang dấu ấn<br />
Đó là tâm tình về nỗi buồn cho riêng của cuộc sống và cách nghĩ,<br />
thân phận lẻ loi khi mãi lo toan cuộc cách cảm nhận, cũng như lối sống<br />
sống đời thường nay tuổi tác đã cao thấm đượm nghĩa tình của con người<br />
vẫn đau đáu và lặng lẽ đi tìm tình ĐBSCL. Tất cả điều đó thực sự góp<br />
yêu, vẫn nhức nhối nỗi niềm riêng phần tạo nên sinh lực nghệ thuật<br />
trong tâm trạng: riêng, rất đáng trân trọng cho thơ<br />
ĐBSCL. Chắc rằng, trên đà đó, trong<br />
Giấu nỗi buồn trong trở trăn thao tương lai ở vùng đất này, càng ngày<br />
thức càng có thêm nhiều điệu tâm tình đặc<br />
Sông bên lở bên bồi sao mãi lở sắc hơn.<br />
bên tôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
(Bến lở - Văn Lệ Trinh) 1. Nhiều tác giả, 2003. Tuyển tập 15<br />
Những vần thơ trên là những điệu nhà thơ Đồng bằng sông Cửu Long.<br />
tâm tình rất chân tình về niềm vui, NXB Mũi Cà Mau. Ban liên lạc Hội<br />
nỗi đau, nỗi buồn tiếc nuối trong tình Nhà văn Việt Nam tại ĐBSCL.<br />
yêu và hạnh phúc.Ở mức độ nhất 2. Nhiều tác giả, 2011. Thơ tình sông<br />
định,nó góp phần tô điểm thêm vẻ Cửu Long. Nxb Trẻ -Thành phố Hồ<br />
Chí Minh.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
120<br />
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017<br />
<br />
<br />
POETRY IN THE MEKONG DELTA, AFTER 1975 – THE SENTIMENTS<br />
Nguyen Lam Dien<br />
Faculty of Graduate, Tay Do University<br />
(Email: nldien@ctu.edu.vn)<br />
ABSTRACT<br />
The Mekong Delta poems, which were written after 1975, were expressed with mixed<br />
feelings of happiness, sadness and concerns in life. With these literature poems, readers<br />
could envision some typical marks in spiritual portrait as well as examing perceptions<br />
and love of people living in the Mekong Delta in that period. This has made the unique<br />
and valuable for the Mekong Delta poetry.<br />
Keywords: poetry in the Mekong Delta, after 1975, pride, thoughts and concerns,<br />
aspiration to love and happiness<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
121<br />