intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng nguồn nhân lực cho nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực trạng nguồn nhân lực cho nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay" tập trung làm rõ đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực số, phân tích thực trạng nguồn nhân lực số ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển nhân lực số ở nước ta trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng nguồn nhân lực cho nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay

  1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO NỀN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Đức Toàn1 Tóm tắt: Phát triển nguồn nhân lực số là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế số của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”2. Bài viết tập trung làm rõ đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực số, phân tích thực trạng nguồn nhân lực số ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển nhân lực số ở nước ta trong thời gian tới. Từ khoá: nhân lực số, kinh tế số 1. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC SỐ TRONG NỀN KINH TẾ SỐ 1.1. Đặc điểm nguồn nhân lực số Nguồn nhân lực số là nguồn nhân lực trong nền kinh tế số, là lực lượng chủ yếu để đảm bảo triển khai và hiện thực hóa nền kinh tế số. Vì vậy, đòi hỏi nguồn nhân lực số phải là nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chắc về chuyên môn, vững về đạo đức, có năng lực làm chủ công nghệ, có tính sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của công nghệ trong nền kinh tế. Từ quan điểm như trên, có thể nhận diện đặc điểm của nguồn nhân lực số thể hiện trên một số tiêu chí: Đó là nguồn nhân lực có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác của các hoạt động kinh tế; có khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới; có tác phong kỷ luật và đạo đức trong công việc; có khả năng tư duy đột phá trong công việc, hay còn gọi là tính sáng tạo. Những tiêu chí trên được xem như điều kiện chủ yếu và là tiêu chí đặc trưng của nguồn nhân lực số. Để thỏa mãn các phương diện trên nhất thiết đòi hỏi nguồn nhân lực số phải được đào tạo bài bản và liên tục được đào tạo bổ sung, cập nhật những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật. Các phương diện trên phản ánh nội hàm nguồn nhân lực số, chúng ta có thể so sánh với khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao đang được sử dụng phổ biến hiện nay. Về cơ bản giữa nguồn nhân lực số và nguồn nhân lực chất lượng cao có đều sự đồng nhất trên nhiều 1 Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, t.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.231.
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 99 phương diện trình độ, kỹ năng và phẩm chất, đạo đức. Tuy nhiên, xét về mặt ngoại diên hay tính đa số về lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao là nhóm tinh hoa trong tháp biểu đồ về nguồn nhân lực, họ chiếm số lượng ít và là nhóm tinh hoa trong tổng số lực lượng lao động xã hội, còn nguồn nhân lực số là nguồn nhân lực trong nền kinh tế số, là lực lượng chủ yếu để triển khai và hiện thực hóa nền kinh tế số, quyết định sự tồn tại của nền kinh tế số, do đó, họ là tổng số lực lượng lao động trong xã hội, đồng thời, lực lượng này có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số, vận hành nó trong quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của nền kinh tế số. 1.2. Vai trò của nguồn nhân lực số trong nền kinh tế số Theo C. Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”1. Từ quan niệm của C. Mác, chúng ta thấy tầm quan trọng và vai trò của sức lao động, cũng như của nhân lực trong quá trình sản xuất xã hội, có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tạo ra của cải vật chất. Nó bao gồm toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó vận dụng vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó. Vì vậy, đối với quá trình phát triển kinh tế số ngày nay, những năng lực của con người càng trở nên quan trọng trong quá trình tạo ra những giá trị tài nguyên số, để phát triển nền kinh tế số. V.I. Lênin cho rằng: Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cần phải có những người cộng sản, những người “…biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những tri thức mà nhân loại đã tạo ra”2. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong một lần trả lời phóng viên báo nước ngoài (năm 1946), Người đã khẳng định những việc làm trước mắt của Chính quyền cách mạng Việt Nam là: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải phát triển kỹ nghệ”, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật”3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy có những thành tố cơ bản của khoa học và công nghệ, cũng như vai trò của nhân lực có trình độ khoa học và công nghệ đối trong những buổi đầu của cách mạng nước ta, cũng như con đường công nghiệp hóa và phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Tại Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế số”. Quan điểm này thể hiện rõ vai trò của nhân lực có trình độ cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế số ở nước ta. Xuất phát từ những quan điểm của các nhà kinh điển về nhân lực và vai trò của nhân lực đối với quá trình tạo ra của cải vật chất, đồng thời, xem xét trên bình diện tổng thể, mỗi một nền kinh tế đòi hỏi cần phải có một lực lượng sản xuất tương ứng về trình độ của nó, đặc biệt là 1 C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.251. 2 VI. Lênin, Toàn tập, Tập 25, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, năm 1980, tr.375. 3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 13, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 260
  3. 100 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM nguồn nhân lực. Vì vậy, tương ứng với nền kinh tế số phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành. Trong xu thế ngày nay, dưới sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự chuyển đổi về mô hình kinh tế của nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế dựa trên tài nguyên sang nền kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, thì nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng đang từng bước chuyển sang nền kinh tế dựa trên nền tảng tri thức với trụ cột là các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không ngừng được áp dụng - nền kinh tế số ra đời, từng bước thay thế nền kinh tế truyền thống. Vì vậy, để chuyển đổi thành công nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế số, nhất thiết phải có nguồn nhân lực số. Hiện nay, song hành với sự chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế số ở nước ta là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế, theo đó, nguồn nhân lực số ngày càng phát triển chiếm vai trò chủ đạo trong tổng số lực lượng lao động xã hội. Cho nên, việc phát triển nguồn nhân lực số là tất yếu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam hiện nay. 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC SỐ CHO NỀN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Những kết quả đạt được Theo khảo sát của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2021, ở Việt Nam, nguồn nhân lực liên quan đến kinh tế số trong tổng số trường đại học có đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông trên cả nước giai đoạn 2020-2021 là 242 cơ sở và tỷ lệ thực tế tuyển sinh đại học về công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông và an toàn thông tin chiếm 84%. Nhân lực công nghệ thông tin năm 2020 đạt 1.030.000 lao động. Trong những năm qua, nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đã không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, một số ngành nghề, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế như: y tế, cơ khí, công nghệ, xây dựng. Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI 4.0 - Global Competitiveness Index) năm 2019, năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam ở vị trí 67/141 quốc gia trên thế giới, và đứng ở vị trí 7/9 quốc gia ASEAN. So với 2018, Việt Nam đã tăng 3,5 điểm tổng thể (từ 58 điểm lên 61,5 điểm), cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67)1. Hiện nay, Việt Nam là quốc gia có điểm số và thứ hạng tăng nhiều trên bảng xếp hạng GCI 4.0 2019. Sự thăng hạng này cho thấy năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã được đánh giá là cải thiện vượt trội so với những lần đánh giá trước đó. Nhân lực chất lượng cao của Việt Nam tăng cả về số lượng và chất lượng, một số ngành nghề, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế; chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) của Việt Nam được xếp hạng ở vị trí 110/189 quốc gia được xếp hạng và đứng thứ nhì trong khu vực Đông Nam Á, chỉ sau chỉ số HDI của Singaprore2. 1 Xem: Bộ Thông tin và Truyền thông, Phát triển nguồn nhân lực trong xây dựng kinh tế số ở Việt Nam, https://mic. gov.vn, truy cập ngày 12-10-2023. 2 Xem: Bộ Thông tin và Truyền thông, Phát triển nguồn nhân lực trong xây dựng kinh tế số ở Việt Nam, https://mic. gov.vn, truy cập ngày 12-10-2023.
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 101 Nhờ những nỗ lực khởi động chương trình chuyển đổi số quốc gia, quy mô kinh tế số của Việt Nam đã có những đóng góp với tỷ trọng ngày càng cao cho tăng trưởng kinh tế. Việt Nam hiện là một trong top 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới, tỷ lệ người sử dụng Internet đạt 68,7%, trong khi đó trung bình của thế giới là 51,4%. Hiện nay, tỷ lệ này chỉ thấp hơn các nước phát triển (86,7%), các nước đang phát triển (44,4%) và các nước châu Á - Thái Bình Dương (44,5%). 94% người dùng Internet Việt Nam lên mạng hàng ngày. Về thời lượng sử dụng Internet và mạng xã hội trong 1 ngày của người sử dụng Việt Nam đạt tương ứng khoảng 6h 42 phút và 2h 32 phút. Bên cạnh đó, thương mại điện tử Việt Nam cũng đã có những bước tăng trưởng phát triển mạnh mẽ. Theo Bộ Công Thương, doanh số thương mại điện tử bán lẻ B2C (Business to Customer - từ doanh nghiệp tới khách hàng) năm 2019 đạt 10,08 tỷ USD, chiếm 4,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước1. Việc các doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Viễn thông MobiFone đã đầu tư nâng cấp, phát triển mới cáp quang, trạm BTS để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao, chuyển đổi mô hình quản trị là rất cần thiết và việc làm chủ thiết bị 5G như Viettel, Vingroup, VNPT... có ý nghĩa chiến lược quốc gia. Có thể nói, dựa vào công nghệ để phát triển nhân lực số chính là một trong những khâu đột phá quan trọng để phát triển kinh tế số Việt Nam trong tình hình mới, góp phần làm giảm bớt khoảng cách tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với các nền kinh tế trên thế giới. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2021, doanh thu ngành ICT Việt Nam ước đạt hơn 136 tỷ USD tăng trưởng hơn 10% so với năm 2020, số lượng doanh nghiệp công nghệ số đạt hơn 64.000 doanh nghiệp. Năm 2022 doanh thu ngành ICT đạt 148 tỷ USD tăng gần 8,8% so với năm 2021. Việt Nam công bố chính thức về định hướng phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chiến lược “Make in Viet Nam”, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam tham gia phát triển nhân lực số, chuyển đổi số quốc gia. Năm 2021, thương mại điện tử ngày càng trở thành công cụ hữu ích để các doanh nghiệp vượt qua khó khăn và nắm bắt cơ hội do nhu cầu mới trên thị trường tạo ra. Người tiêu dùng trong nước đang chuyển mạnh từ phương thức mua sắm trực tiếp truyền thống sang phương thức trực tuyến thông qua các nền tảng điện tử. Theo khảo sát của Bộ Công Thương cho thấy Việt Nam có 49,3 triệu người mua sắm trực tuyến vào năm 2020, so với 32,7 triệu vào năm 2016. Đây là điều kiện thuận lợi, là tiền đề để nhân lực số phát triển. Trên đây là những kết quả đạt được, là thành công bước đầu của Việt Nam trong phát triển kinh tế số, nhân lực số. Vì vậy, Việt Nam cần phát huy thế mạnh này để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong chuyển dịch cơ cấu lao động, với mục tiêu lao động số sẽ ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội. 1 Xem: Bộ Thông tin và Truyền thông, Phát triển nguồn nhân lực trong xây dựng kinh tế số ở Việt Nam, https://mic. gov.vn, truy cập ngày 12-10-2023.
  5. 102 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số tại Việt Nam Mặc dù Việt Nam được đánh giá có rất nhiều lợi thế về nguồn nhân lực số do đang trong thời kỳ dân số vàng, nhiều người trẻ say mê công nghệ số, sử dụng công nghệ số, tuy nhiên, nguồn nhân lực số ở Việt Nam cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể như sau: Một là, chất lượng nguồn nhân lực số mặc dù được cải thiện nhưng vẫn thiếu và yếu. Việt Nam hiện đang thiếu các kỹ sư công nghệ có trình độ cao và năng lực quản lý có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp công nghệ hiện nay và trong tương lai1. Theo Công ty dịch vụ việc làm trực tuyến VietnamWorks, ước tính hằng năm, Việt Nam thiếu khoảng 78.000 nhân viên công nghệ thông tin và tính đến năm 2020 thiếu khoảng 500.000 nhân viên công nghệ thông tin, nghĩa là chỉ đáp ứng được 22% nhu cầu thị trường2. Hai là, cơ cấu nhân lực số có sự chuyển biến nhưng còn chậm, không đồng đều giữa các lĩnh vực kinh tế về tốc độ gia tăng cũng như tỷ trọng nhân lực số. Tỷ lệ nhân lực qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ tăng nhưng so với tổng nhân lực đang làm việc trong kinh tế số còn thấp. Nhân lực số phục vụ trực tiếp cho Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang được quan tâm, đầu tư nhưng quy mô còn mỏng, cơ cấu không đồng đều, chất lượng thấp, khó có thể đáp ứng được yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đặc biệt còn thiếu nhiều nhân lực trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây.... Ba là, công tác đào tạo nhân lực có chuyển biến nhưng chưa toàn diện và hiệu quả, chưa có nhiều cơ sở đào tạo có đủ năng lực, trang thiết bị, phương pháp đào tạo đạt chuẩn quốc tế tham gia đào tạo nhân lực cho Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (nguồn cung nhân lực khá hạn chế). Bốn là, việc xây dựng, triển khai cơ chế, chính sách về thị trường lao động số còn nhiều bất cập. Hiện còn nhiều rào cản trong thực thi cơ chế xã hội hóa, trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục - đào tạo dẫn đến việc thực thi các cơ chế nêu trên thời gian qua đạt hiệu quả chưa cao. Việt Nam đang thiếu một hệ thống thông tin chi tiết, cập nhật về cung - cầu nhân lực nền kinh tế số. Hiện nay, muốn nắm bắt nhu cầu xã hội về nhân lực số cần phải tổ chức hệ thống thu thập tin từ phía người sử dụng lao động để cung cấp cho người dân, cơ sở giáo dục - đào tạo và xã hội biết nhằm phối hợp trong đào tạo nhân lực. Năm là, việc thu hút vốn đầu tư từ nhiều chủ thể cho phát triển nhân lực số chưa thực sự hiệu quả. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực số chủ yếu đến phía Nhà nước, các chủ thể kinh tế khác còn chưa đầu tư thỏa đáng vào việc phát triển nhân lực số. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của nhân lực số: Thứ nhất, nhận thức, quan niệm của các cấp, ngành, xã hội và người dân về phát triển nhân 1 Xem: Bích Ngọc, Việt Nam: Mức độ sẵn sàng tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Con số và Sự kiện, http://consosukien.vn, ngày 23-9-2019. 2 Xem: Vietnam Works, Ngành Công nghệ thông tin Việt Nam thiếu hụt số lượng nhân sự khổng lồ, http://www. vietnamworks.com, ngày 27-11-2015.
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 103 lực số, nhất là nhân lực đáp ứng yêu cầu trực tiếp của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chưa toàn diện, thực chất. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các cấp, ngành xã hội Việt Nam đã dành sự quan tâm, đề cập nhiều đến vai trò, tầm quan trọng, cơ hội, thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy nhiên, việc phát triển nhân lực số nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhìn chung chuyển biến còn chậm so với yêu cầu đặt ra từ nhận thức của người học tới sự vào cuộc của các cơ sở giáo dục đào tạo. Thứ hai, công tác thông tin, hướng nghiệp cho người dân trong việc lựa chọn, quyết định tham gia đào tạo nghề nghiệp chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động số. Thứ ba, công tác đào tạo nhân lực số chậm được đổi mới, cập nhật. Phần lớn các cơ sở đào tạo nhân lực số hiện chưa bắt kịp xu hướng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chưa đào tạo được đội ngũ nhân lực số đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng cung ứng cho thị trường lao động. Thứ tư, công tác sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực số vẫn chưa thật sự hợp lý và thỏa đáng. Thứ năm, môi trường làm việc của nhân lực số, đặc biệt là môi trường mạng internet vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế gây ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực số. Thứ sáu, năng lực tự chủ trong đào tạo, đào tạo lại nhân lực số của các doanh nghiệp vẫn còn chưa cao. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC SỐ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Để nguồn nhân lực số Việt Nam phát triển, trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt những chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, sự chung tay của cộng đồng và sự tham gia vào cuộc mạnh mẽ hơn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần có sự chuyển đổi về nhận thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nhân lực số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”1. Vì vậy, cần “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”2. Đồng thời, “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”3. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực số, Việt Nam cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Sđd, tr. 329. 2 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Sđd, tr.231. 3 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, t.I, Sđd, tr. 232-233.
  7. 104 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Một là, đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó, cần chú trọng thực hiện gắn kết tốt các khâu của quá trình đào tạo và sử dụng để phát triển nguồn nhân lực số. Đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, chuẩn hóa, hiện đại hóa. Kết hợp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực với bồi dưỡng nhân tài, nhất là tập trung đào tạo nhân lực số đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế số. Công tác đào tạo nguồn nhân lực số phải dựa trên nhu cầu của xã hội, xu hướng phát triển của nền kinh tế số nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh tế, khắc phục tình trạng đào tạo nhân lực có bằng cấp chuyên môn nhưng không được sử dụng đúng với ngành nghề được đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Cần xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kỹ thuật số. Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp chặt chẽ hơn nữa với các bộ, ngành cụ thể, giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo đại học để dự báo được nhu cầu lao động của nền kinh tế số. Đồng thời, việc xây dựng chương trình đào tạo cần chú trọng đào tạo tri thức công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong lao động sản xuất… Hai là, đẩy nhanh hoạt động chuyển đổi số quốc gia và thực hiện chế độ đãi ngộ tốt với nhân lực số. Trong thời gian tới, cần đẩy nhanh hoạt động chuyển đổi số như: Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, xây dựng Chính phủ điện tử trên nền tảng công nghệ hiện đại. Đồng thời, điều chỉnh các chính sách về thu nhập, về phúc lợi một cách thỏa đáng nhất để tạo động lực kích thích sự năng động, sáng tạo của người lao động trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh nhân lực số ngày càng gay gắt như hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân lực số là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương, chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước. Chính vì vậy, phải “…chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý… Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”1. Việc thu hút nhân lực số chất lượng cao trở thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị. Hai là, đổi mới công tác tuyển dụng, lựa chọn nguồn nhân lực số theo tiêu chí “thực đức, thực tài” Thi tuyển là một cách thức tốt để lựa chọn được người tài tham gia vào nền kinh tế số. Công khai, minh bạch trong thi tuyển sẽ giúp chọn ra người có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc. Ngược lại, nếu bất kỳ khâu nào trong quá trình thi tuyển thiếu minh bạch, bị làm sai lệch vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, thì việc thi tuyển sẽ thất bại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Phải có nhận thức sâu sắc, dày công chăm lo cho công tác này (công tác lựa chọn nhân sự, người có “đức” và “tài”); trong quá trình tổ chức thực hiện, cần thực hiện đúng nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình, tiến hành từng bước, từng việc, từng khâu một cách kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch, làm đến đâu chắc đến đó”2. 1 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Sđd, tr. 231. 2 Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết công tác tổ chức đại hội đại biểu các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, https://moha.gov.vn, ngày 19-11-2020.
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 105 Nhìn lại lịch sử Việt Nam trong các triều đại phong kiến, tuy hệ thống giáo dục chưa toàn diện, nhưng thông qua thi tuyển đã lựa chọn được rất nhiều người tài giỏi, lưu danh sử sách. Ngày nay, với hệ thống giáo dục rộng khắp, toàn diện, cần phải xây dựng hệ thống thi tuyển một cách bài bản, khoa học để lựa chọn nhân lực số, nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Việc tổ chức thi tuyển cần có sự thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để bảo đảm công bằng giữa các ứng viên với cùng yêu cầu về trình độ, vị trí việc làm. Nội dung đề thi cần sát với thực tế để khai thác tối đa trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin của ứng viên. Một đề thi mang tính khoa học không chỉ đánh giá năng lực người học mà còn là cơ sở điều chỉnh quá trình dạy và học. Việc kiểm tra, giám sát trong quá trình thi tuyển cũng cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc để tránh những gian lận, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Chỉ khi có đủ tính cạnh tranh và công khai, minh bạch mới có được sự sàng lọc giữa các ứng viên, thông qua đó phát hiện và chọn được cán bộ phù hợp. Ba là, tăng cường đầu tư cho phát triển nhân lực số, chú trọng đầu tư cho việc đào tạo các chuyên gia đầu ngành Tăng cường đầu tư cho phát triển nhân lực số bằng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó, cần tăng thêm đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời, tăng cường việc huy động các nguồn lực của xã hội nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Bên cạnh đó, cần tăng cường hội nhập quốc tế để liên kết, hợp tác sâu rộng hơn nữa trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số. Đầu tư nhiều hơn cho việc đào tạo lại nhằm cập nhật kiến thức, bổ sung kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp công tác cho nhân lực số. Đào tạo, bồi dưỡng trong giai đoạn này mang tính thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự chủ động, tự giác của nhân lực số. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng giúp gợi mở, cung cấp thông tin mới, phương pháp để người học nâng cao kiến thức, kỹ năng. Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng hình thức đào tạo vừa học, vừa làm với các đối tượng nghiên cứu chuyên sâu, hướng tới hình thành đội ngũ nhân lực số là chuyên gia trong các lĩnh vực, khắc phục tình trạng thiếu hụt chuyên gia đầu ngành như hiện nay. Giai đoạn đào tạo, bồi dưỡng này không tách rời các giai đoạn trước đó mà là sự bổ sung, tiếp nối các thành quả của giáo dục, đào tạo trước đó. Đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất hệ thống hơn, chương trình chuyên sâu hơn để hướng tới mục tiêu giáo dục, đào tạo suốt đời. Việc nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề… phải trở thành một nhu cầu thiết yếu, thường xuyên của mỗi người chứ không phải sự bắt buộc, gò ép theo các tiêu chuẩn. Từ đó, cũng hình thành lối sống văn minh, tích cực, hình thành lớp thế hệ nhân lực, nhân tài có tầm nhìn xa, có chiến lược, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có khát vọng xây dựng đất nước hùng cường. Bốn là, xây dựng môi trường làm việc dân chủ, sáng tạo, nền nếp, kỷ cương, tôn trọng cá nhân, đồng thời, chống chủ nghĩa cá nhân. Sau khi tuyển dụng được nhân lực số chất lượng cao, cần tạo môi trường làm việc năng động, sáng tạo, dân chủ để họ yên tâm công tác, phát triển và cống hiến. Một môi trường dân chủ là môi trường để người tài được trọng dụng và cống hiến. Môi trường thiếu dân chủ sẽ là mảnh đất cho chủ nghĩa cá nhân sinh sôi nảy nở, với những hành vi tham ô, lãng phí…
  9. 106 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Năm là, xây dựng văn hóa lao động cho nhân lực số. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cho mỗi người trong xã hội khả năng tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, nhưng không phải thông tin nào cũng chính xác và bổ ích. Hiện nay, các thông tin xấu, độc nhằm chống phá Đảng và Nhà nước, thông tin sai sự thật dễ làm mất định hướng cho mỗi cá nhân. Vì vậy, cần xây dựng môi trường làm việc văn hóa, đặc biệt là cần quản lý chặt chẽ hơn nữa những thông tin đăng tải trên môi trường mạng internet nhằm tạo điều kiện cho nhân lực số phát triển bền vững. Chiến lược phát triển nhân lực số phải được thực hiện trong môi trường công bằng, kỷ cương, đạo đức và thượng tôn pháp luật được coi là chuẩn mực, xây dựng môi trường thực sự văn minh, dẫn dắt nguồn lực số phát triển. Sáu là, tăng cường nỗ lực từ phía các doanh nghiệp về bảo đảm chuyển đổi số, phát triển nhân lực số Doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực cùng với nhà nước đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cũng như các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai các ứng dụng số kết nối thông minh, đẩy nhanh các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, hiệu quả hóa chính phủ điện tử… Về nâng cấp hạ tầng số, các doanh nghiệp cần khẩn trương chuẩn bị các phương án triển khai dịch vụ 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Các doanh nghiệp lớn có thể tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với công nghệ. Bởi, công nghệ mới xuất hiện, những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có đủ tiềm lực để tìm hiểu và triển khai. Nên nếu được các doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm hỗ trợ về vốn, về công nghệ, về nhân lực… thì việc tiếp cận các công nghệ mới sẽ không còn là bài toán khó giải với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mỗi doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận được các công nghệ mới tiên tiến nhất trên thế giới để áp dụng vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cũng cần đầu tư đào tạo nguồn nhân lực số giúp họ nắm bắt được những thay đổi về công nghệ để bắt kịp với xu thế phát triển kinh tế số. Tóm lại, phát triển nhân lực số để đáp ứng yêu cầu của kinh tế số là yêu cầu đòi hỏi cấp thiết, bởi kinh tế số ngày càng đóng vai trò quan trọng, có khả năng mang lại giá trị gia tăng cao cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và vận dụng quan điểm mới của Đảng về phát nguồn nhân lực số nhằm thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân trong triển khai thực hiện. Mặt khác, cần coi trọng việc đẩy mạnh xây dựng, phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thanh Đồng, Phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số, https://baodongkhoi.vn, ngày 16-8-2021. 2. Nguyễn Thị Huế, Nhân lực để thực hiện chuyển đổi số trong phát triển kinh tế ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2023. 3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội, 2020. 4. Thủ tướng Chính phủ, Đề án “Nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội, 2020. 5. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021, phê duyệt Chương trình “Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Hà Nội, 2021.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2