Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây
lượt xem 73
download
Nội dung của luận văn đề cập đến việc quản lý của nhà nước đối với đất nông nghiệp ở huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây. Luận văn dành cho sinh viên ngành nông nghiệp tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây
- Lời nói đầu Chúng ta biết rằng, đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng to lớn. Nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay th ế được, không th ể thiếu đối với các ngành sản xuất xã hội và đời sống con ng ười. Đi ều này cũng được khẳng định một cách rõ ràng trong Luật Đất đai năm 1993 c ủa nước ta như sau: “Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu c ủa môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội , an ninh quốc phòng…”. Việt Nam chúng ta là một nước có truyền thống s ản xu ất nông nghi ệp, gắn liền với nền văn minh lúa nước. Người dân chúng ta vẫn sinh s ống chủ yếu bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ngay cả hiện tại, khi đất nước đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH thì ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP, với một lượng lớn lao động (khoảng 70% lực lượng lao động) ho ạt động trong lĩnh vực này. Là một huyện nông thôn của tỉnh Hà Tây, nằm trong lưu vực đồng bằng sông Hồng, có vị trí tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, thị xã Hà Đông; gần thị xã Sơn Tây, khu du lịch Ba Vì, khu công ngh ệ cao Láng – Hoà L ạc và n ằm cạnh tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội -Hải Phòng – Quảng Ninh. Vì vậy Hoài Đức có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã h ội theo hướng tăng tỉ trọng các ngành phi nong nghiệp. Vì lý do này mà trong những năm gần đây cơ cấu đất đai của Hoài Đức thay đổi rất nhanh chóng, đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu h ẹp – thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là
- một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương th ực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai trên địa bàn huyện (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuy ển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích…) thì việc quản lý đ ất nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững đang được đặt ra. Và chúng ta cần phải tập trung ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để tiến hành phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, v ới nh ững vùng chuyên canh, chuyên môn hoá… Sau một thời gian thực tập tại phòng Tài nguyên và Môi trường huy ện Hoài Đức tỉnh Hà Tây, em nhận thấy đây là một vấn đề cần được quan tâm. Và để hiểu sâu hơn vấn đề, đồng th ời từ đó đưa ra nh ững gi ải pháp góp phần tăng cường quản lý nên em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Bằng phương pháp thống kê, thu thập phân tích số liệu từ cơ quan th ực tập; khoanh định, quan sát và đánh giá trên bản đồ, kết hợp v ới vi ệc đi thực tế một số địa phương trong huyện em đã có những tư li ệu nh ất đ ịnh và em xin được trình bày chuyên đề với các phần chính sau: Phần I: Cơ sở khoa học về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp . Phần II: Thực trạng qu ản lý Nhà nước đ ối v ới đ ất nông nghiệp ở Hoài Đức hiện nay. Phần III: Các giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyên Hoài Đức.
- Em xin chân thành cảm ơn GS.TSKH Lê Đình Th ắng, các thầy cô giáo trong Trung Tâm cùng tập thể các đồng chí cán bộ, nhân viên phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập để em có thể hoàn thành được chuyên đề của mình. Do thời gian thực tập không nhiều, những kiến thức của bản thân còn hạn chế và phương pháp nghiên cứu, tiếp cận đề tài vẫn chủ yếu là từ lý thuyết nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. V ậy em mong nhận được sự đóng góp quý báu của các th ầy cô giáo và t ập th ể c ơ quan phòng Tài nguyên và Môi trường để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp em có thêm kiến thức, kinh nghiệm cho ngh ề nghiệp của mình sau này. Hà Tây, tháng 5 năm 2005 Sinh viên: Nguyễn Duy Dương.
- Phần I cơ sở khoa học về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp 1. Đất nông nghiệp Căn cứ vào Luật Đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số đi ều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001 thì đất đai của nước ta được chia ra làm 5 loại cơ bản là đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Và từ đó đất nông nghiệp được hiểu là đất sử dụng chủ yếu vào mục đích sản xuất nông nghiệp của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hay để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Như vậy trong loại đất nông nghiệp này được chia ra chi tiết như sau: 1. Đất trồng cây hàng năm 1.1. Đất ruộng lúa, lúa màu (Ruộng 3 vụ, 2 vụ, 1 vụ, chuyên mạ). 1.2. Đất nương rẫy (nương trồng lúa và nương rẫy khác). 1.3. Đất trồng cây hàng năm khác (chuyên rau màu, cây công nghiệp hàng năm, cây hàng năm còn lại…). 2. Đất vườn tạp 3. Đất trồng cây lâu năm 3.1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm. 3.2. Đất trồng cây ăn quả. 3.3. Đất trồng cây lâu năm khác. 3.4. Đất ươm cây giống. 4. Đất đồng cỏ chăn nuôi.
- 4.1. Đất cỏ trồng dùng vào chăn nuôi. 4.2.Đất cỏ tự nhiên dùng vào chăn nuôi. 5. Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (MNNTTS) 5.1. Chuyên nuôi cá. 5.2. Chuyên nuôi tôm. 5.3. Nuôi trồng thuỷ sản khác. Tuy nhiên với cách hiểu và cách chia như thế này đã dẫn đến một số khó khăn trong quản lý. Bởi việc phân chia đất đai vừa theo mục đích sử d ụng vừa theo địa bàn này đã dẫn đến những sự trùng lặp, chồng chéo từ hai cách thức quản lý. Từ những sự mâu thuẫn và bất cập này mà Luật Đất đai năm 2003 đã ra đời để đáp ứng cho yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước về đất đai. Và theo luật đất đai năm 2003 thì đất đai của nước ta được chia ra làm ba nhóm là: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng, trong đó nhóm đất nông nghiệp bao gồm đất lâm nghiệp, đất sản xu ất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản. Ta nhận thấy cách phân chia này đã thay đổi rất nhiều so với luật cũ, nó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quản lý Nhà nước về đất đai. Như vậy, so với cách chia cũ thì đất nông nghiệp sẽ bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản (theo luật đất đai năm 2003) và không có đất vườn tạp. Theo đó (Luật Đất đai năm 2003 và Thông tư số 28/2004/TT- BTNMT) đất nông nghiệp (theo nghĩa hẹp- không bao gồm đất lâm nghiệp) được hiểu là: “loại đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp”, bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thuỷ sản. Nó được chia chi tiết như sau:
- 1. Đất trồng cây hàng năm 1.1. Đất trồng lúa ( đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất trồng lúa nương). 1.2. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi (đất trồng cỏ, đất cỏ tự nhiên có cải tạo). 1.3. Đất trồng cây hàng năm khác (đất bằng trồng cây hàng năm khác, đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác). 2. Đất trồng cây lâu năm 2.1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm. 2.2. Đất trồng cây ăn quả lâu năm. 2.3. Đất trồng cây lâu năm khác. 3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 3.1. Đất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, mặn. 3.2. Đất nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Như vậy cách chia các loại đất theo luật đất đai năm 1993 và 2003 cơ bản là có sự khác nhau, nhưng với đất nông nghiệp (trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề) thì thành phần chính vẫn là đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm và đất nuôi trồng thuỷ sản. 2. Đặc điểm và vai trò của đất nông nghiệp 2.1. Đặc điểm của đất nông nghiệp Đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng có những đ ặc điểm cơ bản sau: Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động
- Chúng ta đều biết đất đai là sản phẩm của tự nhiên, nó được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Quá trình hình thành của nó là một sự thay đổi trạng thái vật chất tự nhiên (từ đá) trải qua hàng triệu năm. Và nó tồn tại như một trạng thái hiển nhiên, có trước lao động và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Tuy nhiên, từ khi con người tồn tại trên trái đất này thì con người đã biết dựa vào thiên nhiên, sử dụng lao động cải tạo đi ều kiện nguyên thuỷ của đất đai để phục vụ cho cuộc sống. Mà trước tiên đó là những hoạt động còn sơ khai như đốt rừng làm nương rẫy, cày bừa vun xới… rồi đến việc khoanh vùng bảo vệ đất đai , lập ra ranh giới vùng lãnh th ổ hay các quốc gia như ngày nay. Dần dần thì lao động của con người đã kết tinh vào đất đai, tạo cho đất đai ngày một phì nhiêu và có giá trị hơn. Vì l ẽ đó mà đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Đất đai đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai được coi là đầu vào trực ti ếp của quá trình sản xuất, đầu ra sau một quá trình lao động là những sản phẩm nông nghiệp. Như vậy con người đã sử dụng lao động của mình tác động vào đất đai để khai thác giá trị sử dụng của đất (chính là khai thác đ ộ phì nhiêu của đất). Từ đó nước, không khí, các khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác có trong đất sẽ nuôi sống cây trồng để tạo ra sản phẩm cung cấp cho con người. Trong sản xuất nông nghiệp đất đai không phải là mục tiêu cuối cùng của lao động, mà mục tiêu đó chính là những sản phẩm nông nghiệp. Có nghĩa con người tác động vào đất đai chỉ là hình thức gián tiếp tác động tới cây trồng, như vậy đất đai là tư liệu lao động. Thế nhưng, để có được những sản phẩm nông nghiệp, con người phải tác động tới đất đai trước tiên thông qua những dụng cụ lao động của mình. Như vậy đất đai là đối tượng lao động.
- Chúng ta nhận thấy rằng, đất đai có một sự khác biệt rất lớn đối với các vật chất tự nhiên khác, bởi chỉ có đất đai mới có thể đồng thời đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Như thế, đặc điểm này của đ ất đai đã cho ta thấy đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay th ế và không thể loại ra khỏi quá trình sản xuất như những tư liệu sản xuất khác có thể. Đất đai bị giới hạn về mặt không gian và có vị trí cố định Tất cả chúng ta đều nhận thấy một điều hiển nhiên, đất đai có sự gi ới hạn về không gian và có vị trí cố định. Trong một phạm vi ranh giới nhất đ ịnh thì tổng diện tích tự nhiên của một đơn vị hành chính là không đổi, và ngay cả diện tích tự nhiên của toàn cầu cũng không đổi. Tuy nhiên, nếu xét trong cơ cấu các loại đất thì có thể thay đổi bởi đi ều này phụ thuộc vào nhu c ầu s ử dụng loại đất đó của con người. Đối với đất nông nghiệp, theo quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội thì có xu hướng giảm dần và thay vào đó là đ ất phi nông nghiệp tăng lên do có sự thay đổi của cơ cấu lao động, cơ cấu ngành. Mặc dù con người có thể khai hoang đưa đất chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp để bù đắp vào phần diện tích đất nông nghiệp đã chuyển mục đích sử dụng, nhưng phần diện tích ấy cũng chỉ có giới hạn mà thôi. Đối với đất nông nghiệp, việc gặp phải giới hạn về không gian, vị trí cố định và phân bố đất đai có thể sản xuất nông nghiệp được không đều đã tạo ra một số rào cản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở một số nơi. Như thế yêu cầu đặt ra ở đây là phải sử dụng đất hợp lý, hiệu quả, phù hợp với điều kiện từng địa phương. Từ đó hình thành các vùng chuyên môn hoá, chuyên canh về sản xuất nông nghiệp và phát triển trao đổi hàng hoá. Đất đai là tư liệu sản xuất không thể tự sản sinh, có chất lượng không đều, khả năng sản xuất là vô hạn Như chúng ta đã khẳng định, đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là sản phẩm của quá trình phong hoá đá. Phải trải qua hàng triệu năm thì quá trình
- phong hoá đá mới cho ra đất. Như thế có thể coi đất đai là không thể tự sản sinh ra được. Mặt khác, quá trình phong hoá sẽ tạo ra những loại đất khác nhau từ những loại đá khác nhau. Như thế hàm lượng các chất dinh dưỡng (độ phì nhiêu) có trong đất sẽ khác nhau ở mỗi nơi. Tuy nhiên việc có đ ộ phì nhiêu khác nhau ở mỗi loại đất là khó xác định vì đối với mỗi cây trồng khác nhau thì sự thích hợp và sản phẩm là khác nhau. Trong quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, đất đai sẽ được phân bổ một cách phù hợp cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội . Như thế, tuỳ vào điều kiện của mỗi địa phương, đất đai sẽ được sử dụng khác nhau. Những đất có điều kiện sản xuất nông nghiệp thì được ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp. Đất đai là một sự hưu hạn, thế nhưng khả năng sản xuất và cho ra sản phẩm của đất đai là vô hạn. Đất đai khác với những tư li ệu sản xuất khác, nó không hề bị hao mòn, không hề bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất. Nếu con ngươi biết sử dụng hợp lý thì không những đất đai không bị xấu đi mà còn ngày càng tốt hơn sau mỗi quá trình sử dụng (trong những giới hạn của khả năng sản xuất). Tóm lại, với các đặc điểm trên, để đảm bảo cho mục tiêu phát tri ển sản xuất nông nghiệp trong khi đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp đi do yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế thì đặt ra các v ấn đ ề là phải có các biện pháp, các chính sách đất đai để đất đai được sử dụng ngày một hiệu quả, hợp lý và bền vững hơn. 2.2. Vai trò của đất nông nghiệp Đất đai nói chung có vai trò vô cùng to lớn và quan tr ọng. Trước h ết ta nhận thấy nó là tiền đề đầu tiên của mọi hoạt động sống và của mọi quá trình sản xuất. Cũng như chúng ta đã từng khẳng định đất đai nó tham gia vào hầu hết các ngành sản xuất xã hội. Tuy nhiên với mỗi ngành khác nhau thì vai trò của đất đai là khác nhau. Đối với ngành sản xuất phi nông nghiệp thì trước
- hết ta nhận thấy nó chính là cơ sở, nền móng và điểm tựa để có thể xây dựng được nhà xưởng, cầu cống giúp đi lại thuận tiện hay để xây dựng nhà cửa làm các văn phòng hoạt động kinh doanh, làm nơi ở của con người… Thậm chí, chính đất đai là đối tượng của một số hoạt động sản xuất như khai thác, chế biến vật liệu xây dựng… Đối với nông nghiệp, đất đai trước tiên cũng là điểm tựa đ ể con người có thể tiến hành được hoạt động sản xuất của mình và cây trồng có thể sinh trưởng phát triển được. Quan trọng hơn, với những thuộc tính và bản chất tự nhiên như tính chất hoá học, lý học… mà đất đai đã cung cấp cho cây tr ồng chất dinh dưỡng, giúp cây trồng tồn tại, sinh trưởng, phát triển, cung cấp sản phẩm cho con người. Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai (đ ất nông nghiệp) có vai trò to lớn, nó vừa là điểm tựa vừa là cơ sở cung cấp ch ất dinh dưỡng để cây trồng có thể sinh trưởng, phát triển được. Đó là nhờ độ phì nhiêu của đất đai - đây là một yếu tố quyết định đến năng xuất và ch ất lượng cây trồng. Những vai trò đó của đất đai (đất nông nghiệp) chính là bản chất vốn có của nó. Nhưng đất đai còn có những vai trò, giá trị to lớn khác mà không phải thuộc về tự nhiên, bản chất của nó mà do trong chính quá trình khai thác, sử dụng con người đã tạo ra nó. Việc này xuất phát từ yêu cầu của cu ộc s ống, khi xã hội ngày một đông người hơn, đất đai trở nên khan hi ếm, vô tình nó đã có giá trị hơn. Điều này khi được phản ánh qua các quan hệ hàng hoá- tiền tệ thì nó là một nguồn vốn to lớn của đất nước (như Nghị quyết TW7 lần 2 tháng 01 năm 2003 đã khẳng định). Và hàng năm nguồn vốn này đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước là không nhỏ, nó hình thành từ (theo Điều 54 Luật Đất đai năm 2003): -Tiền sử dụng đất. -Tiền thuê đất.
- -Thuế sử dụng đất. -Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. -Tiền thu từ việc sử phạt vi phạm pháp luật đất đai. -Tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai. -Phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai Không những thế, khi có sự hình thành và phát triển của TTBĐS thì chính trong bản thân đất đai đã tiềm ẩn một giá trị vô cùng to lớn bởi khi đó đất đai đã được coi là là một loại tài sản đặc biệt. Người sử dụng nó có th ể đ ược chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng, cho hay góp vốn liên doanh và thế chấp trong những điều kiện nhất định. Từ đây nó có thể giúp chủ sử dụng giải quyết những vấn đề vốn khi cần thiết. Với nguồn vốn này thì Nhà nước hay các cá nhân, tổ chức có thể đầu tư vào nhiều việc như phát triển cơ sơ hạ tầng, tạo kinh phí khai hoang phục hoá cải tạo đất đai, đầu tư thâm canh sản xuất …. Tóm lại, vai trò của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là vô cùng to lớn. Nó không những đóng góp vai trò là điểm tựa trong các ngành sản xuất, là cơ sở cung cấp dinh dưỡng nuôi cây trồng trong sản xuất nông nghiệp mà còn là một trong những thành phần đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, tạo nguồn vốn giúp các cá nhân, tổ chức đầu tư sản xuất.
- 3. Khái niệm về quản lý và nội dung quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp 3.1. Khái niệm về quản lý và sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức Chúng ta biết rằng, hoạt động quản lý là một hoạt động rất quan tr ọng. Nó cần thiết và không thể thiếu đối với mọi ngành và mọi lĩnh vực trong đ ời sống xã hội. Mỗi đất nước, mỗi công ty, doanh nghiệp thậm chí là trong một gia đình thì việc quản lý cũng là quan trọng. Trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực thì yêu cầu và đặc thù quản lý là khác nhau, nhưng tất cả chúng đều vận động và tồn tại theo một quy luật nhất định. Vì thế, quản lý chính là s ự n ắm bắt và điều chỉnh các hoạt động theo những quy luật ấy. Trong xã hội, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động và việc quản lý đương nhiên cũng phải hướng vào những mục tiêu, mục đích của con người. Như vậy, quản lý ta có thể khái quát là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đã định sẵn. Đối với đất đai thì chủ thể quản lý chính là Nhà nước mà đại diện là các cấp chính quyền, sở ban ngành ở các địa phương. Và đối tượng của quản lý chính là các hoạt động khai thác và sử dụng đất đai. Từ những điều này thì quản lý Nhà nước về đất đai là quá trình tác đ ộng bằng các cơ chế chính sách của các cấp chính quyền, các sở ban ngành ở địa phương vào các hoạt động khai thác sử dụng đất đai nhằm khai thác và s ử dụng đất một cách có hiệu quả và bền vững. Công tác quản lý Nhà nước về đất đai được phân cấp, phân quyền và phân công nhiệm vụ cụ thể ở mỗi cấp. Điều này được quy định cụ thể trong nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ về việc quy định nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường .
- Bộ máy quản lý Nhà nước vế đất đai được cụ thể thành sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về TN&MT
- Như vậy, Bộ Tài nguyên và Môi Trường là cơ quan quản lý đất đai, môi trường và các tài nguyên khác trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi Trường có trách nhiệm trước Chính phủ về những vấn đề trong phạm vi quản lý của mình. Đồng thời chỉ đạo cấp dưới quản lý chặt chẽ tài nguyên và môi trường của địa phương. Đối với sở và phòng Tài nguyên và Môi Trường là cơ quan chuyên môn, giúp UBND cùng cấp quản lý và chịu trách nhiệm trước UBND cùng cấp và cấp trên trực tiếp về lĩnh vực của mình ở địa phương. Như đã giới thiệu qua thì chúng ta biết rằng Hoài Đức là một huyện nông nghiệp của tỉnh Hà Tây, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông. Mặt khác, Hoài Đức có vị trí nằm rong khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp. Và những năm gần đây cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng đó. Quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn đang diễn ra khá nhanh ở Hoài Đức. Với nhũng điều này, Đảng uỷ- UBND huyện Hoài Đức đã nhận thấy sức ép về lao động, việc làm và thu nhập của người dân là rất lớn. Đất nông nghiệp đang bị thu hẹp để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện, tỉnh … Cùng với nó là tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng đang giảm nhanh chóng. Tuy nhiên trong số lao động rời khỏi nông nghiệp lại có một bộ phận thất nghiệp do không còn đủ đất hoặc không có đất để sản xuất nông nghiệp. Vấn đề an ninh lương thực, vấn đề ổn định đời sống nhân dân đã đặt ra nhiệm vụ nặng nề đối với các cơ quan chức năng. Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề này là đất nông nghiệp đang giảm nhanh chóng. Vì vậy ta phải tiến hành quản lý đất nông nghiệp. Mặt khác, do có những lợi ích trước mắt về mặt kinh tế nên có nhiều hộ gia đình đã bất chấp luật pháp mà tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng trái phép, sử dụng sai mục đích, lấn chiếm… Vì
- lẽ này mà yêu cầu quản lý đối với đất nông nghi ệp trên đ ịa bàn huy ện Hoài Đức lại càng phải đặt ra. Để dáp ứng yêu cầu quản lý này, UBND huyện Hoài Đức đã tổ chức và phân cấp bộ máy quản lý đất đai trên địa bàn huyện (từ huyện tới xã, thị trấn) như sau: Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý TN&MT ở Hoài Đức (từ huyện tới xã, thị trấn) Trong đó: biểu hiện mối quan hệ phân cấp biểu hiện mối quan hệ cùng cấp Như vậy, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hoài Đức là cơ quan chuyên môn quản lý về đất đai và môi trường trên địa bàn huyện, tham mưu giúp UBND huyện quản lý, có trách nhiệm báo cáo và thông qua UBND huyện, sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tây mọi vấn đề liên quan tới lĩnh vực mình phụ trách. Còn các cán bộ địa chính xã, thị trấn giúp UBND cấp xã quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai, môi trường trên địa bàn hành chính địa phương mình. Và nhiệm vụ của các cán bộ địa chính, môi trường là lập, tổ chức thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất địa phương mình; thống kê, kiểm kê đất đai; giám sát biến động đất đai … Có trách nhiệm báo cáo, thông qua UBND cấp xã, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện. 3.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp Theo Luật Đất đai năm 2003, có 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai được quy định cụ thể tại điều 6. Tuy nhiên những nội dung quản lý Nhà
- nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng tại cấp huyện (cụ thể tại huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây) thì cơ bản như sau: - Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính. - Lập, triển khai và giám sát việc thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất . - Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng dất. - Đăng ký quyền sử dụng đất , lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất. - Thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp-đơn thư khiếu nại , tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai. a.Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính Chúng ta biết rằng, trong các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai thì nội dung khảo sát, đo đạc và lập bản đồ địa chính là nội dung cơ bản, đ ầu tiên để thiết lập một hệ thống thông tin về đất đai . Nói như vậy thì công tác đo đạc, khảo sát và lập bản đồ địa chính là hết sức quan trọng.Tr ước hết nó cho biết được diện tích, hình thể và thực trạng quỹ đất cũng như về địa hình và sự phân bố của đất đai. Sau khi có những thông tin cơ bản về thửa đất thì những thông tin này được chuyển thể sang bản đồ và bản đồ địa chính là cơ sở, căn cứ đầu tiên để thực hiện quản lý Nhà nước về đất đai. Đối với đất nông nghiệp thì cùng với việc khảo sát đo đạc là công việc đánh giá, phân hạng đất. Công việc này trước hết là để bi ết được chất lượng của đất ra sao. Đồng thời để chia ra các hạng đất khác nhau, làm căn cứ tính thuế sử dụng đất đối với các cá nhân, tổ chức có sử dụng đất canh tác. Tuy nhiên trong lĩnh vực này, hiện Nhà nước đang có nhiều những khuyến khích
- hỗ trợ nông dân nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, có hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý để đẩy nhanh quá trinh CNH nông thôn, đồng thời thúc đẩy việc khai hoang phục hoá đất và nâng cao hệ số sử dụng đất trong nông nghiệp . Vì vậy mà thuế sử dụng đất nông nghiệp đang ngày càng được giảm dần và tiến tới xoá bỏ đối với người nông dân. Như vậy đây là nội dung quan trọng, là cơ sở đầu tiên để Nhà nước tiến hành quản lý chặt chẽ về đất đai. b. Lập, triển khai và giám sát việc thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất “Quy hoạch sử dụng đất là việc khoanh định hay điều chỉnh khoanh định đối với các loại đất cho phù hợp với từng giai đoạn phát tri ển kinh t ế xã hội của từng địa phương và trong cả nước, là việc tính toán phân bổ việc sử dụng đất cụ thể về số lượng, chất lượng, vị trí, không gian. Mục tiêu của việc quy hoạch sử dụng đất là xây dựng cơ sở khoa học làm căn cứ cho vi ệc xây dựng kế hoạch sử dụng đất, nhằm lựa chon phương án sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng”. (Những sửa đỏi bổ sung cỏ bản của luật đất đai năm 2003- NXB Tư pháp 12/2003). Còn kế hoạch sử dụng đất là sự cụ thể hoá của quy hoạch sử dụng đất. Nó đưa ra những mục tiêu, biện pháp cụ thể cho tới từng năm đ ể nhằm thực hiện được phương hướng mà quy hoạch sử dụng đất đã đưa ra. Đối với cấp huyện, việc xét duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh. Trước hết UBND cấp huyện phải gửi hồ sơ lên sở Tài nguyên và Môi trường, hồ sơ gồm: - Tờ trình của UBND cấp huyện trình UBND cấp tỉnh xét duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. - Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. - Bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- - Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đối với trường hợp xét duyệt quy hoạch sử dụng đất. Sau đó sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và tổng hợp gửi ý kiến thẩm định tới UBND cấp huyện để hoàn chỉnh hồ sơ. Tiếp đó UBND huyện hoàn chỉnh hồ sơ và kèm theo nghị quyết của HĐND đến sở Tài nguyên và Môi trường để trình UBND cấp tỉnh xét duyệt. Đối với cấp xã (không thuộc khu vực quy hoach phát tri ển đô thị) thì việc xét duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chi tiết là thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của UBND cấp huyện. Hồ sơ gồm có: - Tờ trình của UBND xã trình UBND huyện xét duyệt quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết. - Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết. - Bản đồ hiện trạng sử dụng đất. - Bản đồ quy hoạch sử dụng đất chi tiết đối với trường hợp xét duyệt quy hoạch sử dụng đất chi tiết. Hồ sơ được gửi lên phòng Tài nguyên và Môi trường để lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và phòng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến thẩm đ ịnh gửi UBND xã để hoàn chỉnh hồ sơ. Sau khi hoàn chỉnh hồ sơ, UBND xã trình HĐND xã thông qua và kèm theo nghị quyết của HĐND gửi đến phòng Tài nguyên và Môi trường trình UBND huyện xét duyệt. Đối với xã (thuộc khu vưc quy hoạch phát triển đô thị) thì việc xét duyệt được thực hiện bởi cấp tỉnh. Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là nhũng công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện thống nhất quản lý về đất đai. Mà đại diện của Nhà nước ở các địa phương là những cơ quan chuyên môn về địa chính ở các cấp có nhiệm
- vụ tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đ ất trên địa bàn mình quản lý. Vì vậy mà Nhà nước vẫn có thể thực hiện được quyền định đoạt của mình đối đất đai và nắm được sự chu chuyển của đất đai thông qua kết quả của quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. Đồng thời đảm bảo được việc sử dụng đất hiệu quả, hợp lý, bền vững, phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra; ngăn chặn xử lý kịp thời những trường hợp lấn chiếm, sử dụng sai mục đích, tự ý chuyển đổi, mua bán trái phép. Căn cứ vào quy hoạch kế hoạch sử dụng đất Nhà nước có cơ sở để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất hay chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng cũng như phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Sở dĩ quy hoạch kế hoạch sử dụng đất có một vai trò quan tr ọng như vậy là vì các phương án quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chỉ được đưa ra sau khi có sự lựa chọn, đánh giá phân tích kỹ lưỡng các điều kiện tự nhiên của từng vùng cũng như điều kiện kinh tế xã hội hay về nhu cầu sử dụng đất của mỗi nơi. Từ đó sẽ có một phương án quy hoạch, kế hoạch tối ưu nhất được đưa ra để thực hiện. Theo Luật Đất đai 2003 thì quy hoạch kế hoạch sử dụng đất được lập trên cơ sở những căn cứ sau (điều 22): *Đối với quy hoạch sử dụng đất thì căn cứ vào: - Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của cả nước. - Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước. - Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội và nhu cầu của thị trường. - Hiện trạng sử dụng đất và nhu cầu sử dụng đất. - Định mức sử dụng đất. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan đến sử dụng đất. - Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất kỳ trước.
- *Đối với kế hoạch sử dụng đất thì căn cứ vào: - Quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyết định xét duyệt. - Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm của Nhà nước. - Nhu cầu sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư. - Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước. - Khả năng đầu tư thực hiện các dự án công trình có sử dụng đất. Và với những nội dung sau: *Về nội dung của quy hoạch sử dụng đất: - Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng sử dụng đất. - Xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch. - Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh. - Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình dự án. - Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường. - Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất. *Về nội dung của kế hoạch sử dụng đất: - Phân tích đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Công ty cao su Sao vàng - Thực trạng và giải pháp
76 p | 1065 | 494
-
Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng ngắn hạn tại Ngân Hàng No&PTNT Hà Nội
67 p | 543 | 213
-
Báo cáo: Thực trạng và giải pháp giảm nghèo bền vững ở xã Trà Tân huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận
40 p | 1081 | 184
-
Tiểu luận Tài chính quốc tế: Nợ nước ngoài của Việt Nam, thực trạng và giải pháp
44 p | 665 | 128
-
Đề tài: “Bảo Hiểm Xã Hội Hà Tây – Thực Trạng và Giải Pháp”
49 p | 380 | 91
-
Bài thuyết trình: Thực trạng và giải pháp bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay
22 p | 405 | 70
-
Tiểu luận nhóm: Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
18 p | 686 | 64
-
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội
133 p | 206 | 55
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp công tác thu phí nước thải trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội
49 p | 266 | 51
-
Đề tài: Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp
16 p | 195 | 48
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực trạng và giải pháp về việc giết mổ gia súc gia cầm thủ công tự phát trên địa bàn thành phố Thủ Dầu một hiện nay
22 p | 233 | 38
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giống cây trồng ở Công ty cổ phần giống cây trồng Thanh Hóa
84 p | 255 | 35
-
Đề tài: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về công tác quản lý và tổ chức trong Công ty cổ phần theo luật Doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và giải pháp cho Công ty cổ phần Thể dục thể thao Việt Nam
58 p | 153 | 29
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của kỳ họp Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
16 p | 241 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn tỉnh Phú Yên trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa
124 p | 134 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lí học: Phát triển kinh tế trang trại ở thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp chủ yếu
163 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh thái học: Thực trạng và giải pháp về điều kiện sinh thái trong các trường học ở thị xã Tây Ninh
128 p | 88 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quan hệ thương mại Việt Nam – Brasil - Thực trạng và giải pháp phát triển
70 p | 108 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn