intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: DOAN THE ANH | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

196
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp được thực hiện nhằm đưa ra những hiểu biết chung nhất về tình hình nợ xấu cũng như giải pháp giải quyết tình trạng nợ xấu hiện nay. Mời các bạn tham khảo đề tài để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI KHOA SEMINAR NGÂN HÀNG Đề tài   “Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp” SINH VIÊN THỰC HIỆN :   LỚP ` :  MàSV :  Hà Nội, 2015 1
  2. MỞ ĐẦU Do  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh   tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu tác động tiêu cực  và kinh tế  vĩ mô có nhiều yếu tố  không thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh   doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, nợ  xấu của hệ  thống các TCTD có chiều hướng gia tăng nhanh. Nợ  xấu  ảnh hưởng rất lớn đến sự  phát triển của nền kinh tế  cũng như  đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng. Do vậy, nợ xấu không chỉ  là vấn đề  của các ngân hàng cần phải giải quyết mà cần có sự  chỉ  đạo chung   của nhà nước. Các ngân hàng cần phải nhận thức đúng về  nợ  xấu, đồng thời   tìm và phân tích được nguyên nhân để  từ  đó đưa ra giải pháp khắc phục phù  hợp. Nếu các ngân hàng cố  tình che dấu nợ  xấu thì sẽ  không phản ánh đúng  được thực trạng của toàn hệ  thống ngân hàng và hậu quả  là  ảnh hưởng đến   nguồn cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế  đang gặp nhiều khó khăn như  hiện nay thì   vấn đề giải quyết nợ xấu của các ngân hàng là bài toán nan giải nhất trong ngắn  hạn. Nợ xấu của ngân hàng được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự  lưu thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng   và cũng phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn của doanh  nghiệp. Xuất phát từ lý do trên tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nợ xấu của ngân   hàng, thực trạng và giải pháp”  nhằm đưa ra những hiểu biết chung nhất về  tình hình nợ xấu cũng như giải pháp giải quyết tình trạng nợ xấu hiện nay. 2
  3. NỘI DUNG 1.Khái quát chung về nợ xấu Một trong những nút thắt lớn hiện nay của nền kinh tế hiện nay là vấn   đề  nợ  xấu của hệ  thống ngân hàng. Nhiều chuyên gia kinh tế  gọi đó là “cục  máu đông trong mạch máu” của nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề  này mới  có thể khai thông bế tắc cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy  sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế. Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại từ  nhóm 3 (dưới tiêu chuẩn),  nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn cao). Cụ  thể  nhóm 3 trở  lên, gồm các khoản nợ  quá hạn trả  lãi và/hoặc gốc  trên 90 ngày, đồng thời   quy định các ngân hàng thương mại căn cứ  vào khả  năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Như vậy nợ  xấu được xác định theo 2 yếu tố:   đã quá hạn trên 90 ngày  và  khả  năng trả  nợ  đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của chung trong  giới tín dụng chuyên ngành. Còn theo định nghĩa nợ  xấu của các tổ  chức tín dụng thế  giới thì  : một  khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc  các khoản lãi chưa trả  từ  90 ngày trở  lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc  chậm trả theo thoả  thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90  ngày nhưng có lý do chắc chắn để  nghi ngờ  về  khả  năng khoản vay sẽ  được   thanh toán đầy đủ”. 3
  4. Và khi khách hàng bị nợ xấu từ nhóm 3 trở lên sẽ rất khó được ngân hàng  duyệt vay lại ít nhất là 5 năm. Như  vậy nợ  xấu hay nợ  khó đòi là các khoản nợ  dưới chuẩn, có thể  quá hạn và bị  nghi ngờ  về  khả  năng trả  nợ  lẫn khả  năng thu hồi vốn của chủ  nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán   tài sản. Nợ xấu gồm gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường   quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản  vay vào các nhóm thích hợp. Cách tính nợ xấu  Ví dụ: Với ngân hàng nông Techcombank chi nhánh Gia Lâm, hôm nay họ   cho 100 khách hàng vay tiền , mỗi người 5 tỷ là 500 tỷ trong thời hạn 12 tháng.   Khi tới ngày tính lợi nhuận trả  cổ  tức , họ  tính luôn tiền lãi thu được tới thời   điểm đó và tiền vốn cho vay. Từ   đó mới phân chia lợi nhuận cho cổ   đông,   thưởng Ban Quản Trị ngân hàng. Và họ  không tính rủi ro kinh doanh ,  khi kinh  tế khủng hoảng, khoản vay 5 tỷ  có thể mất trắng , đó là nợ xấu, đó là phải để   một phần lãi ngày hôm nay vào quỹ dự phòng.   Cách tính nợ xấu của ngân hàng quốc tế so với VN :  Một khoản vay quốc tế 1 tỷ, khi tháng đầu trả 50 triệu (24 kỳ, mỗi kỳ 50   triệu), tháng thứ  2, không trả  được, khi trể  3 tháng là toàn số  nợ  đọng là 950  triệu là nợ xấu. Còn tại ngân hàng   VN …càng làm thấp nợ  xấu thì càng được chia lời   nhanh… Tháng thứ 2 , 3 ,4 không trả  được, thì nợ  xấu chỉ là 3 * 50 triệu= 150   triệu. Số 150 triệu này của 100 công ty còn phân loại: công ty đóng cửa và hấp   4
  5. hối là loại 4, công ty không trả nổi bây giờ nhưng với ý kiến chủ quan của Ngân   hàng cho vay thì 12 tháng sau trả được v.v…? Trong khi đó, ngân hàng nước ngoài thì nợ xấu sẽ là 950 triệu * 100 công  ty = 95 tỷ, không phân loại và NH phải trích dự phòng từ lợi nhuận hay ngay cả  lỗ cũng phải trích 95 tỷ. Khi nào các công ty này bắt đầu trả được nợ thì họ mới   lấy ra khỏi danh sách nợ xấu mà giảm lại cho dự phòng. Chính vì vậy dự phòng của quốc tế không tăng đột xuất theo tháng ngày  trong thời hạn vay, của VN thì cứ  thêm mỗi tháng mỗi nhiều nhưng bất cứ lúc  nào, không ai biết là bao nhiêu vì tháng sau, sau nữa sẽ thêm nữa. 2.Thực trạng tình hình nợ xấu của Ngân hàng Việt Nam Trong bối cảnh nền kinh tế  đang gặp nhiều khó khăn như  hiện nay thì   vấn đề giải quyết nợ xấu của các ngân hàng là bài toán nan giải nhất trong ngắn  hạn. Nợ xấu của ngân hàng được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự  lưu thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng   và cũng phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn của doanh  nghiệp. Điển hình vào năm 2012, do bị   ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân nên  hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ. Hệ quả là nợ  xấu  của các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, trở  thành “điểm nghẽn” của nền  kinh tế, cản trở sự lưu thông của dòng vốn tíndụng. Cụ  thể, tỷ  lệ  nợ  xấu của một số  ngân hàng TMCP như  Ngoại thương   Việt Nam (VCB), Đầu tư  và phát triển Việt Nam (BIDV), Công thương Việt  Nam (CTG), Á Châu (ACB), Sài Gòn Thương tín (STB), Techcombank (TCB),   Quân Đội (MB) và ngân hàng thương mại nhà nước như  Agribank (AGR) từ  năm 2008 đến hết quý III năm 2013 khá cao trong đó Agribank có tỷ  lệ  nợ  xấu  5
  6. cao nhất trong các ngân hàng, kế  đến là BIDV và thứ  ba là Vietcombank và  Techcombank. Giai đoạn 2008­2010, ngân hàng VCB, BIDV và AGR có tỷ lệ nợ  xấu gần bằng nhau. Tuy nhiên, vào giai đoạn 2011 – hết quý III năm 2013 thì tỷ  lệ  nợ  xấu của AGR có xu hướng tăng rất cao tương đương gần 300% so với  giai đoạn 2008­2010, và cao nhất vào năm   2011 lên đến 6,67%. Trong số  các   ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá cao thì ba ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất đó   là CTG, ACB, STB (năm 2008 tỷ lệ nợ xấu của ACB chỉ có 0,08%). Dựa vào số liệu của báo cáo tài chính quý III/2013, nhiều ngân hàng bị nợ  xấu ăn gần hết lợi nhuận. Lợi nhuận trước thuế  9 tháng đầu năm 2013 của   Eximbank là 1.155 tỷ   đồng (giảm 1.282 tỷ   đồng so  với  cùng kỳ  năm 2012),  Vietcombank đạt 3.991 tỷ  đồng (giảm 403 tỷ  đồng) và Techcombank là 750 tỷ  đồng (giảm 1.483 tỷ  đồng). Theo các chuyên gia về  kinh tế  thì lợi nhuận của  ngân hàng bị nợ xấu ăn hết là cái giá mà các ngân hàng phải trả cho việc cho vay   quá hào phóng trước đây. Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Lợi nhuận của   ngân hàng đã bị teo tóp vì nợ xấu. Tại nhiều ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu tăng cao là do các khoản nợ trước đây   chưa   xấu   nay   đã   bắt   đầu   xấu.   Theo   như   số   liệu   báo   cáo   tài   chính   của   Vietcombank thời điểm đầu năm 2013 tỷ lệ nợ xấu là 2,4%, nợ xấu đã tăng lên  2,98% tổng dư nợ, trong đó nợ có khả năng mất vốn là 2.683 tỷ đồng, tăng đến  85%. Cũng trong quý III/2013, Vietinbank có tổng cộng 8.518 tỷ đồng nợ xấu, so   với thời điểm cuối năm 2012 nợ  xấu đã tăng khoảng 70%. Bên cạnh đó, thời   điểm cuối quý III/2013 ngân hàng Quân đội cũng có 2.073 tỷ đồng nợ xấu, tăng  khoảng 50% so với cùng kỳ năm 2012. Nợ xấu tăng cao, lợi nhuận làm ra đổ hết   vào quỹ trích lập dự phòng rủi ro, có ngân hàng bị nợ xấu ăn gần hết lợi nhuận  6
  7. như   ở  Navibank, chín tháng đầu năm 2013 lợi nhuận sau thuế  chỉ  đạt 10,3 tỷ  đồng, giảm hơn 89% so với cùng kỳ năm trước.  3.Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng nợ xấu Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của ngân hàng tăng cao, nhưng  chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây: ­ Môi trường kinh tế ­ xã hội: Dù ít hay nhiều, các hoạt động sản xuất  kinh doanh luôn phải chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp của môi  trƣờng kinh tế  xã hội, nhƣ  sự  thay đổi về  lãi suất, tỷ  giá, các cuộc   khủng hoàng kinh tế thế giới và khu vực. Trong một nền kinh tế tăng  trƣởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội lớn thì  hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Nhƣng   trong một nền kinh tế bị khủng hoảng, đang đà xuống dốc, tỷ lệ lạm   phát cao, sản xuất bị  đình trệ, đầu tƣ  giảm sút, thu nhập của mọi  thành viên trong xã hội đều giảm thì khả năng phát triển sản xuất kinh  doanh là rất kém,  ảnh hƣởng mạnh mẽ  tới hoạt  động kinh doanh  Ngân hàng. Tác động xấu của tình hình kinh tế xã hội nhƣ vậy sẽ làm  ảnh hƣởng tới khả  năng trả  nợ  của các doanh nghiệp, tổ  chức và cá  nhân, gây tác động xấu đến khả  năng thu hồi vốn tín dụng của Ngân   hàng. Tốc độ  tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2006­2011 không  ổn định. Năm  2007, tốc độ tăng trưởng là 48,9% cao nhất trong giai đoạn này. Nhưng đến năm  2008, tốc độ có xu hướng giảm xuống còn 23,4%. Tuy nhiên, năm 2009 lại tăng  lên là 37,5% và năm 2011 là năm có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong giai đoạn   này 12,8%. 7
  8. ­ Thị  trường bất động sản: Một phần lớn nguồn tín dụng được đầu tư  vào lĩnh vực bất động sản. Khi thị trường bất động sản trầm lắng, nghĩa là cầu  về  lĩnh vực này suy giảm mạnh làm cho các nhà đầu tư  không bán được hàng   mà nguồn vốn đầu tư cho thị  trường này lại chủ  yếu là vốn tín dụng của ngân  hàng. Nhiều doanh nghiệp bất động sản làm ăn thua lỗ, không có khả  năng trả  nợ cho ngân hàng, dẫn đến nợ xấu. ­ Áp lực cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước: Áp lực này chủ  yếu đối với các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của nhà nước. Nhờ vậy mà  các doanh nghiệp nhà nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân  hàng do đó đã sử dụng không hiệu quả nguồn tài trợ trên và đầu tư vào lĩnh vực   trái ngành nghề (ngân hàng, chứng khoán, bất động sản,…) vì không am hiểu về  những lĩnh vực đó nên khi bất động sản đóng băng, chứng khoán thì ảm đạm và   kinh doanh ngân hàng thua lỗ  vì nợ  xấu dẫn đến các doanh nghiệp không trả  được nợ, sinh ra nợ xấu. ­ Khả năng quản trị của một số ngân hàng còn nhiều bất cập so với quy   mô: Một số  ngân hàng thường hay sử  dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để  cho vay trung và dài hạn, dẫn đến độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài  sản nợ, mất tính thanh khoản và tiềm ẩn rủi ro thanh toán rất lớn. Bên cạnh đó,  các ngân hàng cạnh tranh nhau bằng cách tăng tổng tài sản, để  thực hiện được  điều đó buộc các ngân hàng phải tăng vốn bằng cách tăng lãi suất huy động và  điều tất yếu là lãi suất cho cũng sẽ  tăng làm cho các khách hàng đi vay rơi vào   tình trạng phải trả lãi cao, cứ như thế kéo dài khách hàng sẽ mất dần khả năng  trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ xấu tăng mạnh. ­ Sở  hữu chéo trong hệ  thống ngân hàng: Các ngân hàng ngoài các hoạt   động chính là huy động vốn và cho vay thì còn thực hiện hoạt động đầu tư.  8
  9. Chính vì sở hữu chéo lẫn nhau nên một số ngân hàng thay vì dùng vốn huy động  để cho vay thúc đẩy sản xuất kinh doanh thì lại ủy thác cho các công ty con đầu  tư  vào bất động sản, chứng khoán, mua cổ  phần của ngân hàng khác. Sở  hữu  chéo không phù hợp sẽ đem lại rất nhiều rủi ro, khi đó làm chất lượng tín dụng  giảm xuống dẫn đến nợ xấu như hiện nay. ­ Sự  suy thái về  đạo đức của một số  cán bộ  ngành ngân hàng, năng lực   chuyên môn của các cán bộ  chưa theo kịp với tốc độ  phát triển của ngành ngân  hàng, các khâu của quy trình tín dụng còn phát sinh khá nhiều tiêu cực như khâu  thẩm định, xét duyệt và theo dõi các khoản vay…. 4. Một số giải pháp cơ bản khắc phục nợ xấu Để  khắc phục nợ  xấu chúng ta cần phải xây dựng lộ  trình cụ  thể  và  được thực hiện trong một thời gian dài. Để  giải quyết triệt để  vấn đề  nợ  xấu  cần phải có sự  phối hợp giữa Nhà nước, ngân hàng thương mại và các doanh  nghiệp. Cụ thể là: Thứ  nhất, phải trích lập quỹ  dự  phòng rủi ro. Các ngân hàng cần thực   hiện nghiêm túc việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo nguyên tắc tính đúng và   tính đủ. Để quản lý được việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng   thì ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp xử  lý thật nghiêm đối với các ngân  hàng báo cáo không trung thực tình hình nợ xấu của ngân hàng mình. Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Các  ngân hàng cần phải chủ động xử lý nợ xấu bằng cách xây dựng các nguyên tắc  trong quản lý rủi ro như chất lượng công tác tín dụng, thẩm định giá, tỷ  lệ  cho  vay, đánh giá phân loại khách hàng, xem xét kỹ phương án sản xuất kinh doanh, … 9
  10. Thứ ba, khai thông thị trường bất động sản và giảm lượng hàng tồn kho  trong doanh nghiệp. Để thực hiện được điều đó thì nhà nước đưa ra chính sách  chia nhỏ  căn hộ  có diện tích lớn ra thành những căn hộ  có diện tích nhỏ, thực   hiện nhà  ở  xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải có biện pháp để  thúc đẩy đầu  tư, tăng tiêu dùng trong dân và tăng trưởng kinh tế. Thứ  tư, thực hiện phân loại nợ  xấu. Nếu như  các ngân hàng thực hiện  phân loại nợ xấu theo đúng chuẩn khi đó sẽ  đề ra được những biện pháp xử  lý  thích hợp cho từng loại nợ. Điều quan trọng hơn hết là các ngân hàng phải xác  định được quy mô và tính chất của nợ xấu để phân loại và có hướng xử lý cho   phù hợp. Thứ  năm, chuyển nợ  xấu thành vốn góp cổ  phần. Nhà nước khuyến  khích các ngân hàngchuyển nợ  thành vốn góp, thành cổ  phần của các doanh  nghiệp vay. Khi đó, các ngân hàng chuyển từ chủ nợ sang thành cổ đông của các  doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ giảm được áp lực thanh toán nợ, giảm được  chi phí lãi vay, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được cải thiện đáng kể. Thứ  sáu, sáp nhập hay hợp nhất các ngân hàng thương mại nhỏ. Nhà   nước cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để  các ngân hàng thương  mại nhỏ, yếu kém hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng lớn, cần cho phép các   ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh mua lại những ngân hàng yếu  kém. Thứ bảy, ban hành chính sách giãn nợ. Nhà nước cần ban hành chính sách  và có cơ  chế  cụ  thể  giải quyết cho các doanh nghiệp được giãn nợ  với ngân   hàng. Ngân hàng có chính sách giãn nợ  cho các doanh nghiệp có uy tín trong  thanh toán nợ và những doanh nghiệp có công trình đang thi công dở dang chưa  hoàn thành,… Và nếu được ngân hàng Nhà nước có thể  cho các doanh nghiệp  10
  11. được phép chủ động đề nghị với ngân hàng giãn nợ đối với các khoản vay trung   và dài hạn. 5.Đề xuất cơ chế xử lý nợ xấu ngân hàng cụ thể:  Về phía các ngân hàng thương mại Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần: Xử  lý từ  nguồn trích lập dự  phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện  pháp để  thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các khoản nợ  xấu để  thu hồi   nợ.  Chủ  động phối hợp khách hàng thực hiện cơ  cấu lại nợ, giãn thời gian trả  nợ  đối với những khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có triển vọng  kinh doanh khi giải quyết được nợ  xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để  thực  hiện các khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí đầu vào, bán được hàng, có  điều kiện trả nợ ngân hàng. Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công  ty mua bán nợ  trực thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ  Việt Nam (DATC) của   Bộ Tài chính. Cần phải thấy rằng, để  xảy ra nợ  xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về  ngân hàng (do nguyên nhân khách quan và chủ  quan mang lại) nhưng các ngân   hàng không thể tự tạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ ­ DN/cá nhân vay vốn  đến hạn không trả  được nợ, mà việc không trả  được nợ  cho các ngân hàng có  nguyên nhân cơ bản do yếu kém chủ quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ  qua nguyên nhân từ cơ chế  chính sách, từ  quản lý vĩ mô. Vì vậy, xử  lý nợ  xấu   lúc này không chỉ  là trách nhiệm đơn lẻ  của các ngân hàng, DN mà cần có sự  tham gia của Nhà nước với mục tiêu phải đạt được trong việc xử  lý nợ  xấu là  11
  12. tạo điều kiện để  các ngân hàng thiết lập quan hệ  tín dụng mới, giúp DN còn   khả  năng hoạt động vay vốn, đồng thời thanh lọc những DN, ngân hàng yếu  kém trong sản xuất kinh doanh; Thông qua xử lý nợ  xấu, các ngân hàng mới có  điều kiện tiếp tục hạ lãi suất tiền vay. Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng  cũng có điểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ  từng khoản vay đối với khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý nợ  và khai thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể  chủ  động, nhanh chóng tìm  khách hàng để  bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để  công ty   quản lý nợ  và khai thác tài sản của ngân hàng xử  lý nợ  xấu hiệu quả, cần xây  dựng cơ  chế  mua bán nợ  rõ ràng, minh bạch, có sự  tham gia giám sát chặt chẽ  của NHNN, để tránh tình trạng nợ xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có thể  giảm nhưng chất lượng nợ không thay đổi, do không giải quyết tận gốc vấn đề. Nếu bán nợ  xấu cho DATC thuộc Bộ  Tài chính thực hiện, rất cần một  cơ chế mua bán rõ ràng thì hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng  mới có hiệu quả. Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh   áp lực xã hội rất lớn về vấn đề  giải trình thì vấn đề  đặt ra là thành lập công ty   mua bán nợ trực thuộc NHNN hay công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) phải đủ  quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước   đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam. Cùng với với việc xử lý nợ  xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng mức  đến việc hạn chế nợ xấu mới nảy sinh bằng cách: 12
  13. Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế.  Để  làm được việc này các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ  thống xếp  hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn Basel II. Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ  trên các số  liệu thống kê lịch sử  của chính ngân hàng cho các đối tượng khách   hàng để tính toán các thước đo rủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD); tổn  thất có thể  xảy ra do vỡ  nợ  (LGD) và rủi ro vỡ  nợ  (EAD) cho các đối tượng  này; đồng thời áp dụng các điều chỉnh cần thiết trên cơ  sở  ý kiến của chuyên   gia. Có như vậy, việc xếp hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro   trong hoạt động tín dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro của ngân hàng. (ii)   Mặt khác chất lượng của xếp hạng khách hàng phụ  thuộc lớn vào mô hình tổ  chức và đội ngũ nhân sự  của chính ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình   tổ chức theo hướng tuân thủ các nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách   rõ trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung  đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm thiểu nợ xấu nảy sinh trong hoạt động tín   dụng. Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động   để giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng  được hoàn thiện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ  thông tin để  đảm bảo hệ  thống vận hành có hiệu quả. Định kỳ  hoặc đột xuất   kiểm tra việc tuân thủ  các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất lượng   thông tin đầu vào nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố  ý đánh giá   khách hàng theo ý kiến chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết quả  xếp hạng, dẫn đến các quyết định cho vay không chuẩn. Về phía doanh nghiệp vay vốn 13
  14. Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn  kho, ngoài việc hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một  hình thức liên kết giữa các DN, sử  dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách  làm hiện nay. Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả  năng quản trị DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Về phía Ngân hàng Nhà nước Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để  các ngân hàng có căn cứ  thực   hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ  quốc tế. Song song với   việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát  triển các đơn vị  xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ  sở  tham chiếu chung trong  công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho   thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản lý  để  hạn chế  việc chi phối của tổ  chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả  xếp   hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nhanh chóng xử  lý những bất  ổn trong nội tại của một số  ngân hàng,  giám sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những   nguyên nhân cơ  bản làm hệ  thống ngân hàng luôn bất  ổn, và tích tụ  rủi ro hệ  thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một số ngân   hàng, nợ  xấu của các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử  lý, điểm   nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng hơn. 14
  15. KẾT LUẬN  Nợ xấu là yếu tố tất yếu trong hoạt động ngân hàng, song thực tế hoạt  động ngân hàng vừa qua và diễn biến nền kinh tế  được dự  báo còn nhiều khó  khăn, thời gian tới đòi hỏi phải sớm có các giải pháp nhằm kiểm soát hiệu quả  đà tăng của nợ  xấu cũng như  những tác động khó lường của nó đối với hệ  thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Nợ  xấu tại các NHTM Việt Nam không phải mới phát sinh trong những  năm gần đây, mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước. Khi tình hình kinh tế  vĩ mô xấu đi, hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, thì cũng là lúc nợ xấu nảy  nở như nấm sau mưa.  Nợ  xấu đang gia tăng gây mối nguy hại lớn cho nền kinh tế  và trực tiếp  ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, vấn đề hàng đầu được đặt ra cho NHNN vào   lúc này làm sao xử lý giảm bớt tỷ lệ nợ xấu này. Thông điệp của Chính phủ gần   15
  16. đây cũng cho thấy rằng, giải quyết nợ  xấu là nhiệm vụ  hàng đầu trong kế  hoạch cải tổ hệ thống ngân hàng. Nợ xấu NH đã trở thành vấn đề của quốc gia,  chính vì vậy cần Nhà nước bắt tay vào giải quyết chứ  không nên để  các NH   thương mại tự  xoay xở. Trong 20 năm qua, từ  kinh nghiệm của các quốc gia   từng gặp vấn đề  nợ  xấu như  Hàn Quốc, Mỹ  đều chọn cách xử  lý thông qua  việc mua bán nợ và đã thành công. Bên cạnh khó khăn chung của nền kinh tế, nguyên nhân chính làm gia tăng   nợ xấu xuất phát từ chính các ngân hàng. Do đó, tìm kiếm giải pháp nhằm chặn   đà tăng của nợ  xấu, giảm thiểu tác động bất lợi của nợ  xấu đối với hệ  thống   ngân hàng và nền kinh tế phải bắt đầu từ chính các ngân hàng, đồng thời không  xem nhẹ nguyên nhân từ chính sách điều hành chung. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2