
356
THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIAO TIẾP TRỰC TUYẾN TRONG HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thùy Trang
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh là một trong những
cơ sở giáo dục đại học công lập ở phía Nam đi đầu trong việc xây dựng và vận
hành nền tảng giáo dục trực tuyến, phù hợp với xu thế số hóa trong giáo dục đại
học. Cùng với việc triển khai xây dựng, tổ chức các khóa học trực tuyến, nhiệm
vụ xây dựng và phát triển môi trường văn hóa học đường trực tuyến trở thành
vấn đề thực tiễn có tính cấp bách. Trên cơ sở dữ liệu sơ cấp và thứ cấp thu thập
được từ thực tế đào tạo trực tuyến ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ
Chí Minh, nghiên cứu này đã phân tích và lý giải thực trạng văn hóa giao tiếp
trực tuyến của sinh viên trong bối cảnh học trực tuyến.
Từ khóa: giáo dục trực tuyến; học tập trực tuyến; giao tiếp trực tuyến;
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
1. Giới thiệu
1.1. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (HCMUTE)
là cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng theo định hướng
ứng dụng; cung cấp nguồn nhân lực và sản phẩm khoa học chất lượng cao trong
các lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, khoa học, công nghệ; đáp ứng các yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Với triết lý giáo dục là Nhân bản - Sáng
tạo - Hội nhập, hướng đến các giá trị cốt lõi của một nền giáo dục tiên tiến, hiện
đại, HCMUTE có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề,
giáo viên dạy kỹ thuật; đào tạo kỹ sư công nghệ, kinh tế, khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và nhân văn, nghệ thuật và bồi dưỡng nguồn nhân lực thích ứng với
thị trường lao động, cung cấp nguồn nhân lực trực tiếp cho khu vực phía Nam.
Trong xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục đào tạo trên
thế giới hiện nay, HCMUTE là một trong những cơ sở giáo dục đại học ở Việt
Nam sớm triển khai vận hành hệ thống giáo dục trực tuyến UTEx (University of
Technology and Education Extraordinary) với hàng ngàn khóa học mỗi năm, thu
hút hàng chục ngàn sinh viên đăng ký và theo học. Trong bối cảnh đó, nghiên
cứu này tìm hiểu về thực trạng văn hóa giao tiếp trực tuyến của sinh viên

357
HCMUTE, nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện văn hóa học đường trực
tuyến, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn.
1.2. Tổng quan và một số khái niệm
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, cùng với sự phát triển bùng nổ của khoa
học công nghệ, Internet trở thành một phương thức giao tiếp mới mẻ, hiện đại và
tiện ích. Do đó, nghiên cứu về giao tiếp qua Internet, còn gọi là giao tiếp điện tử,
giao tiếp trực tuyến trở thành vấn đề nghiên cứu có tính thời sự và thu hút nhiều
học giả trên toàn thế giới. Các vấn đề lý luận về giao tiếp trực tuyến qua Internet
đã được thảo luận luận từ những thập niên cuối thế kỷ XX. Hoffman và cs.
1
cho
rằng Internet đã phá vỡ các mô hình giao tiếp một người với nhiều người cổ điển,
thay đổi mô hình người gửi và người nhận. Tarabasz
2
khi nghiên cứu về mô hình
và giao tiếp trực tuyến trong quản lý liên văn hóa cho rằng: giao tiếp xã hội được
thực hiện bằng Internet ngày càng phổ biến, số lượng người dùng ngày càng
tăng. Giao tiếp qua Internet có lợi thế do bản chất điện tử của nó - tốc độ, tính
trực tiếp, dễ phản hồi và có thể đo lường đầy đủ, cung cấp kho kiến thức vô cùng
phong phú cho người dùng. Avram
3
trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm đã phân
tích tầm quan trọng của giao tiếp trực tuyến trong giáo dục đại học. Tác giả đặt
giả thuyết nghiên cứu mạng xã hội giáo dục trong môi trường học thuật đại học
bao gồm các công cụ giao tiếp chính là: Facebook, Twitter, Email, Youtube và
Google+. Các công cụ này tạo ra sự tương tác giữa các sinh viên trong quá trình
học trực tuyến và giữa sinh viên với giảng viên. Kết quả khẳng định, giao tiếp
trực tuyến đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong môi trường học thuật và là một
phương pháp mà quá trình giáo dục ngày nay không thể thiếu. Sinh viên sử dụng
giao tiếp trực tuyến qua các mạng xã hội này với các mục tiêu được xác định rõ
ràng: giao tiếp, chia sẻ hình ảnh, tin nhắn, kinh nghiệm, ý tưởng… kết nối với
người khác, xây dựng danh tiếng, tham gia nhóm và thảo luận, tranh luận về các
chủ đề học thuật.
Xia và cs.
4
đã nghiên cứu những thách thức của việc học trực tuyến trong
bối cảnh Covid-19 từ góc nhìn của sinh viên đại học. Tiến hành khảo sát dữ liệu
từ 230 sinh viên bằng công cụ SAROL, nghiên cứu tập trung vào thái độ của sinh
viên trong học tập trực tuyến, mối quan hệ với bạn học và giáo viên, kinh nghiệm
học tập hợp tác của họ và hiệu quả của việc học trực tuyến. Kết quả đã chỉ ra một
1
Hoffman, D. L., Novak, T. P., Chatterjee, P. (1995), “Commercial Scenarios for the Web: Opportunities
and Challenges”, Journal of Computer-Mediated Communication, 1(3).
2
Tarabasz, A. (2013), “The model and role of online communication in intercultural management”,
Journal of Intercultural Management, 5 (4).
3
Avram, E. M. (2015), “The importance of online communication in higher education”, Network Intelligence
Studies. Romanian Foundation for Business Intelligence, Editorial Department, issue 5, pp. 15-21.
4
Xia, Y., Hu, Y., Wu, C., Yang, L., Lei, M. (2022), “Changes of students’ relationships with others in
online learning”, Educational Psychology, (13).

358
trong những khó khăn thách thức lớn nhất của việc học tập trực tuyến theo quan
điểm của người học là vấn đề giao tiếp, thiếu sự hiện diện thực tế của mối quan
hệ tương tác trực tiếp. Kết quả này cũng tương đồng với nhiều công trình khác,
như kết luận của Gillett-Swan
1
khi cho rằng sự thiếu vắng khả năng tương tác
trực tiếp và các tín hiệu phi ngôn ngữ, ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp trực tuyến
là một yếu tố gây ức chế, ảnh hưởng đến chất lượng và tâm lý giao tiếp.
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên khung lý thuyết về lý thuyết hoạt
động giao tiếp, trong bối cảnh giao tiếp mới là trực tuyến, ở phạm vi học đường.
Chúng tôi cũng tham chiếu vấn đề lý thuyết nghi thức mạng để xây dựng nền
tảng văn hóa giao tiếp học đường trực tuyến cho phù hợp với các nguyên tắc giao
tiếp mới trong thời đại số.
1.2.1. Học tập trực tuyến (E-learning)
E-learning là một thuật ngữ mới có tần suất xuất hiện lớn với xu hướng số
hóa giáo dục hiện nay; nó thường được hiểu và giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau. Tiếp cận từ phương thức cung cấp học liệu và phương pháp học tập,
Fry
2
cho rằng “học tập trực tuyến là việc cung cấp đào tạo và giáo dục thông qua
tương tác nối mạng và một loạt các công nghệ thu thập và phân phối kiến thức
khác”. Horton quan niệm “E-learning là việc sử dụng công nghệ thông tin và máy
tính để tạo ra kinh nghiệm học tập”
3
. Nhấn mạnh vào việc sử dụng công nghệ và
truyền thông điện tử, “học tập trực tuyến là lĩnh vực học tập và giáo dục tập trung
vào việc sử dụng công nghệ, bao gồm việc sử dụng công nghệ thông tin, các
phương tiện truyền thông điện tử truyền thông tiên tiến trong quá trình học tập”
4
.
Như vậy, có thể hiểu học tập trực tuyến là một cách thức học tập mới trong đó, nội
dung học tập, phương pháp dạy học… được truyền tải và vận hành trực tiếp trên
các thiết bị công nghệ, điện tử như máy tính, điện thoại thông minh... thông qua
nền tảng giáo dục trực tuyến. Học tập trực tuyến giúp người học chủ động học tập
đồng thời các cơ sở đào tạo có thể vận hành quá trình dạy học nhanh chóng, thuận
tiện, hiện đại và kinh tế thông qua hệ thống quản lý học tập.
1.2.2. Giao tiếp trực tuyến và văn hóa giao tiếp học đường
Giao tiếp là một hoạt động cơ bản, đặc trưng của của con người để trao
đổi thông tin, cảm xúc, thiết lập mối quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng
1
Gillett-Swan, J. (2017), “The challenges of online learning supporting and engaging the isolated
learner”, Journal of Learning Design, 10.
2
Fry, K. (2001), “E‐learning markets and providers: some issues and prospects”, Education + Training,
43 (4/5), pp. 233-239.
3
Horton, W. (2011), “E-Learning by Design”, 2nd Edition, Pfeiffer.
4
Agarwal, H., Pandey, G. N. (2013), “Impact of E-learning in education”, International Journal of
Science and Research, 2 (12), pp. 146-147.

359
xã hội bằng các phương tiện giao tiếp. Lý thuyết truyền thông tin xem giao tiếp
là “quá trình phát và nhận tin” (Moles, 1950) hay “quá trình truyền tin qua bộ
mã hóa thông tin, bộ phát thông tin, môi trường truyền thông tin, bộ giải mã và
quá trình phản hồi”
1
. Giao tiếp trở thành một biểu hiện của văn hóa cộng đồng,
bởi “văn hóa giao tiếp được xem là trình độ cao trong giao tiếp, biểu hiện của
mối quan hệ giao tiếp giữa con người - con người, thể hiện trong hình thức giao
tiếp văn minh, lịch sự biểu thị hệ thống quy tắc ứng xử tương ứng với các giá trị
chuẩn mực xã hội”
2
. Giao tiếp trực tuyến là phương thức giao tiếp của con người
thông qua mạng Internet. Tương tác giao tiếp giữa người với người được thực
hiện qua quá trình kết nối trong không gian mạng. Giao tiếp trực tuyến mang lại
tính tiện lợi, linh hoạt, thường xuyên, không bị gián đoạn bởi các yếu tố không
gian, thời gian vật lý và những yếu tố khách quan khác. Tuy nhiên, giao tiếp trực
tuyến cũng có những hạn chế như tính tương tác ảo, tính chân thực, tin cậy và
đặc biệt là làm cho mối liên hệ xã hội của các cá nhân trong xã hội ngày càng lệ
thuộc vào kết nối mạng.
Văn hóa giao tiếp học đường được hiểu là hệ thống các chuẩn mực mang
tính quy phạm, tính đạo đức, tính thẩm mỹ chi phối hành vi con người trong môi
trường trường học, được thể hiện qua các yếu tố ngôn ngữ (lời nói, văn bản viết)
và phi ngôn ngữ (tư thế, cử chỉ, hành động…). Đây là một môi trường văn hóa
đòi hỏi tính chuẩn mực và mô phạm cao, do đó, xây dựng và phát triển văn hóa
giao tiếp vừa là phương tiện, đồng thời cũng vừa là mục đích của quá trình giáo
dục. Giáo dục trực tuyến tất yếu làm xuất hiện hành vi giao tiếp trực tuyến. Hành
vi giao tiếp trực tuyến có những đặc trưng khác biệt với giao tiếp trực tiếp trong
lớp học truyền thống.
1.2.3. Nguyên tắc giao tiếp và nghi thức mạng
Nguyên tắc giao tiếp “là hệ thống những quan điểm nhận thức, chỉ đạo,
định hướng hệ thống thái độ, hành vi ứng xử của người giao tiếp”
3
. Đây được
xem là những “điều luật” cơ bản, quy định tiêu chuẩn hành vi mà người tham gia
giao tiếp cần tuân thủ để đáp ứng được chuẩn mực chung của văn hóa xã hội,
bao gồm các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng, lịch sự, thấu cảm, trung thực, thiện
chí…
Nghi thức mạng (Netiquette) là một thuật ngữ mới được ghép từ hai thành
tố là mạng “net” và nghi thức “etiquette”. Theo từ điển Oxford, “nghi thức mạng
1
Krauss, R. M. (2002), “The Psychology of Verbal Communication”, Columbia University. Web.
2
Nguyễn Quang Uẩn (2007), “Quan niệm về hành vi giao tiếp có văn hóa của tuổi trẻ”, Tạp chí Tâm lý
học, số 6 (99), tr. 1-7.
3
Nguyễn Bá Minh (2018), Nhập môn khoa học giao tiếp, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 9-10.

360
là các quy tắc để đảm bảo con người giao tiếp với nhau đúng chuẩn mực và lịch
sự trên mạng Internet”. Có thể hiểu, nghi thức mạng chính là phép xã giao, văn
hóa giao tiếp trên Internet. Vì vậy, giao tiếp trực tuyến của sinh viên ở môi trường
học đường cũng phải tuân thủ nghi thức mạng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương
pháp thống kê, thu thập số liệu nhằm tìm kiếm và tổng hợp thông tin, lý thuyết
từ các nguồn đã có sẵn từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho nghiên cứu; phương
pháp phân tích và tổng hợp nhằm phân tích các kết quả, luận cứ đã thu được
trong quá trình nghiên cứu và tổng hợp lại, đưa ra kết luận; phương pháp nghiên
cứu định tính nhằm tổng kết các kết quả nghiên cứu, giúp làm sáng rõ về văn hóa
giao tiếp.
Dữ liệu giao tiếp trực tuyến ở HCMUTE (bao gồm dữ liệu sơ cấp và dữ
liệu thứ cấp) được thu thập trực tiếp từ sinh viên và tổng hợp số liệu báo cáo của
các phòng ban chức năng của Nhà trường. Bảng hỏi trực tuyến với bộ 21 câu hỏi
được sử dụng kết hợp phương pháp phỏng vấn sâu và quan sát, xử lý dữ liệu
bằng thống kê mô tả. Kết quả thu thập được xử lý, phân tích bằng phần mềm
SPSS. Có 757 sinh viên tham gia vào quá trình khảo sát, điều tra số liệu phục vụ
cho nghiên cứu này với các đặc điểm như ở Bảng 1.
Bảng 1. Đặc trưng của mẫu nghiên cứu
Đặc
trưng
Giới
Trình độ
Xuất thân
Nam
Nữ
Năm
1
Năm
2
Năm
3
Năm
4
Thành
thị
Nông
thôn
Miền
núi,
hải
đảo
Số
lượng
565
192
176
462
90
29
442
294
21
Tỷ lệ
(%)
74,6
25,4
23,2
61,0
11,9
3,8
58,4
38,8
2,8
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Nền tảng dạy học trực tuyến
Hệ thống UTEx hiện nay đang vận hành 2 tiểu hệ thống song song dành
cho các đối tượng giáo dục khác nhau là UTExLMS và UTExMOOC.
UTExLMS là kênh dạy học trực tuyến của HCMUTE, các đơn vị quản lý tổ chức
khóa học, quản lý hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên;
giảng viên tổ chức giảng dạy, thiết kế các hoạt động học tập cho sinh viên, tiến

