intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiến hóa ( phần 3 ) Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người

Chia sẻ: Chuphu Phuochau | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

164
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiến hóa ( phần 3 ) Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người 3.Vài dẫn liệu về di tích người cổ Nói chung, các quan điểm của Lamarck và Darwin về nguồn gốc loài người dược nhiều nhà khoa học công nhận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiến hóa ( phần 3 ) Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người

  1. Tiến hóa ( phần 3 ) Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người 3.Vài dẫn liệu về di tích ng ười cổ Nói chung, các quan điểm của Lamarck và Darwin về nguồn gốc loài người dược nhiều nhà khoa học công nhận. Tuy nhiên, vấn đề là cần có bằng chứng để chứng minh, đó chính là các hoá thạch. Hoá thạch là bất kỳ dấu vết nào của sinh vật cổ xưa còn lại trên vỏ sò, xương hay dấu vết in trên đất đá. Các mẫu hoá thạch đ ã soi sáng và cụ thể hoá quá trình xuất hiện loài người. Mẫu hoá thạch thường được đặt tên dựa vào tên địa điểm tìm thấy nó.Ví dụ, mẫu xương người tìm thấy ở vùng Neanderthal của Đức, được gọi là người Neanderthal. Có thể kể ra những phát minh chủ yếu đến năm 1965 như sau: + Năm 1856 tìm thấy di tích người Neanderthal (Đức) + Năm 1868 - người Cro -Magnon (Pháp) ... + Năm 1981-1893: Tìm thấy di tích người Java. + Năm 1907 - người Heidelberg. + Năm 1925 - người vượn Australopithecus ở Thung (Nam Phi). + Năm 1927 - người Bắc Kinh. + N ăm 1961 - 1964: Tìm thấy di tích người khéo léo Homo habilis ở Onduvai (Tanzania). Như vậy đến năm 1965, khá nhiều hoá thạch người cổ đã được tìm thấy góp phần làm sáng tỏ vấn đề nguồn gốc loài người. Trong đó nhiều dấu vết của người cổ tìm thấy sau năm 1965 ở Đông Phi và Nam Phi có ý nghĩa rất quan trọng. 4. Sự tiến hoá của bộ Primates Bộ Primates gồm khoảng 180 loài. Tìm hiểu bộ này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ nguồn gốc loài người. N ghiên cứu các hoá thạch cho thấy bộ Primates được tiến hoá từ dòng thú nhỏ giống chuột, có
  2. tập tính leo trèo sống trên cây, ăn côn trùng. Chúng xuất hiện vào kỷ Thứ Ba của đại Tân Sinh cách đây 70 triệu năm, sau đó tiến hoá theo nhiều hướng theo nhiều hướng khác nhau, nhưng vẫn giữ một số đặc điểm chung: (l) Xương đòn không b ị thoái hoá; (2) Khớp vai phát triển làm cho cận động được tự do theo các hướng và có khuỷu tay thuận tiện cho vận động quay; (3) Giữ khả năng hoạt động 5 ngón của bàn chân; (4) Sự vận động độc lập của mỗi ngón đ ược tăng cường, đặc biệt ngón cái thường đối diện với các ngón khác; (5) Biến đổi vua thành móng phẳng; (6) Phát triển súc giác nhậy cảm ở đầu ngón; (7) Thu ngắn mõm; (8) Thị giác lộ ra và phát triển khả năng nhìn nổi; (9) Bộ não phát triển, đặc biệt là vỏ não ; (10) Thường chỉ có hai vú và (11) Mỗi lứa thường chỉ đẻ một con. Phần lớn các đặc điểm đó đều liên quan tới đời sống trên cây. Bộ Primates xuất hiện cách đây 67 triệu năm và ít nhất là 37 triệu năm trước khi tách ra thành 2 nhánh chủ yếu: Prosimian (Vượn Nguyên thuỷ) và dòng tổ tiên của người. Hiện nay vẫn tồn tại một số loài vượn thuột dòng Prosimian, như vượn cáo (Lemur). Có lẽ dòng vượn tổ tiên của người đã tách khỏi nhánh chung của Primates cách ngày nay kho ảng 50 triệu năm. Những mẫu hoá thạch thu thập được gần đây xác nhận các tổ tiên của Primates có mặt trên lục địa Á - Âu (eurasia) và tổ tiên của loài người thì ở châu Phi. Năm 1994, các nhà khoả cổ học phát hiện được hai mẫu hoá thạch Primates nhỏ có khối lượng khoảng 200gr, đó là (l) eosimias sinensis ở Trung Quốc cách nay khoảng 45 triệu năm, được xem là Primates cổ nhất đã tìm thấy, và (2) Algeripithecus minutus tồn tại cách thời nay khoảng 45-50 triệu năm được tủn thấy trên sa mạc Sahara. Trước đó, mẫu hoá thạch Aegytopithecus tủn thấy ở Ai Cập có niên đại 32 triệu năm được xem là mẫu vật cổ nhất. Proconsul là đại diện đầu tiên đáng lưu ý trong nghiên cứu tổ tiên xa xưa dẫn tới phát sinh loài nghĩnh. Năm 1927, H. Gordon đã phát hiện răng và xương của một loài vượn cổ có niên đại 18 triệu năm ở châu Phi. Năm 1931, A. Hopwood cho rằng đó là một loài vượn tổ tiên của hắc tinh tinh (chimpanze) và ông đặt tên loài mới này do ông phát hiện thêm một mẫu vật là Proconsul africanus. Sau đó nhiều mẫu xương của Proconsul được tìm thấy. Đến năm 1980, nhà khoa học Mĩ A. Walker tình cờ phát hiện xương của Proconsul trong đống xương động ở bảo tàng cổ sinh học của Kenya. Sau đó, năm 1984 các nhà chuyên môn tìm thấy nhiều mẫu xương đủ để lắp ráp bộ xương Proconsul khá hoàn chỉnh. Proconsul có tập tính di chuyển chậm trên cây có thể chuyển từ cây này sang cây khác, đu đưa trên cành cây nhờ có tay và không có đuôi.
  3. Có thể Proconsul là tổ tiên chung của cả người và vượn người, chứ không phải chỉ là tổ tiên của hắc tinh tinh và khỉ đột. Proconsul tồn tại ít nhất khoảng 18 triệu năm trước đây. Một sự kiện rất quan trọng là tìm thấy các mẫu hoá thạch của Kenyapithecus trong các lớp địa tầng có niên đại 10,5 triệu năm. Một số mẫu xương và răng có tuổi địa chất từ 9 đến 6 triệu năm đ ược xem là tiền thân của loài người. Các dẫn liệu khảo cổ cho phép mô tả khái quát sơ đồ tiến hoá dẫn đến loài người như sau: khoảng 45 -50 triệu năm trước đây, người và vượn khỉ có nguồn gốc chung là một lo ài linh trưởng cổ. Các nhánh tiến hoá của các loài khỉ có đuôi và không đuôi đã tách nhau cách nay khoảng 25 -30 triệu năm, trong đó nhánh tiến hoá thành người tách ra vào khoảng 5-10 triệu năm. Do vậy xét về quan hệ họ hàng thì hắc tinh tinh gần với người hơn cả. Vấn đề đặt ra là cần xác định thời điểm xuất hiện những dạng người đầu tiên. Các mẫu hoá thạch tìm kiếm được cho thấy Dryopithecus rất giống Kenyapithecus châu Phi. Hoá thạch của chúng tìm thấy ở châu Âu từ Thổ Nhĩ K ì đến Tây Ban Nha trong những địa tầng niên đại từ 1,5 đến 12 triệu năm. Theo quan điểm ngày nay, Dryopithecus không phải tổ tiên của loài người và cũng không phải tổ tiên của đười ươi (Orangutan). Mẫu hoá thạch Ramapithecus được tìm thấy năm 1934 ở phía bắc Ấn Độ, sau đó thấy ở Pakistan. Tuy vậy, các hội nghị quốc tế về nguồn gốc loài người vào năm 1981 và 1982 đều xác nhận Ramapithecus không phải là tổ tiên trực tiếp của loài người. Mấu răng và hàm của Ramapithecus giống với đười ươi nhiều hơn hắc tinh tinh. Phân tích hoá sinh bằng cách thử hoạt tính protein và phản ứng kháng nguyên c ũng chứng minh điều nói trên. Ramapithecus không phải là tổ tiên của người và cả đười ươi. Trong khi đó, các bằng chứng sinh học phân tử và khảo cổ học cho thấy các dạng tổ tiên của con người chỉ xuất hiện ở châu Phi. Về sự phân hoá, có thể nói quá trình phát triển của Primates từ 25 triệu năm trở lại ngày nay được mô tả trên sơ đồ hình 21. Điều đáng chú ý là dòng vượn phát triển thành người đ ược bắt nguồn từ Proconsul vào khoảng 20 triệu năm, và tiếp sau đó là Kenyapithecus trong khoảng 15 đến 11 triệu năm trước đây. Australopithecus được coi là dạng đầu tiên của loài người, mặc dầu còn nhiều nét giống vượn. Khi mới phát hiện người cổ Java, các nhà nghiên cứu cho rằng sự ra đời dạng người đầu tiên được tính cách đây khoảng 500 000 năm. Tuy vậy, các nhà khảo cổ học dựa trên nhiều mẫu hoá thạch lại xác định rằng con người xuất hiện cách đây khoảng 15 triệu năm, các nhà sinh học phân tử cho là khoảng 3 triệu năm. Sau khi tranh luận, họ tạm thời thống nhất
  4. khoảng 7,5 triệu năm. Ngày nay đa số quan niệm dạng người đầu tiên ra đời khoảng 8-10 triệu năm trước đây. Địa điểm xuất hiện loài người là ở châu Phi, cụ thể là trên các vùng đất của Ethiopia, Kenya, Tanzania và Nam Phi. Khi xem xét bản đồ châu Phi, Y. Coppens nhận thấy các địa điểm thu mẫu hoá thạch người cổ chỉ nằm ở Đ ông Phi, còn hắc tinh tinh và khỉ đột hiện đang sống chỉ tìm thấy ở phía Tây châu Phi. Trong khi đó mẫu hoá thạch người cổ không tìm thấy ở phái Tây, và mẫu hoá thạch hắc tinh tinh và khỉ đột không tìm thấy ở Đông Phi. Sự khác nhau giữa hai vùng này của châu Phi thể hiện rõ ở chỗ Đông Phi là đồng cỏ (savanna), còn Tây Phi là rừng rậm cây to. Như vậy giữa họ Panidae (hắc tinh tinh và khỉ đột) và họ người đã có sự cách li địa lý trong quá trình hình thành loài. Có lẽ, khoảng 8 triệu năm trước đây có một biến cố kiến tạo địa chất rất lớn xảy ra đ ã tạo thành dãy núi ngăn cách Đông và Tây Phi là một nhân tố tác động dẫn đến sự xuất hiện loài người ở phía Đông. Sự tiến hoá của các nhóm Primates có liên quan đ ến các biến đổi địa chất, địa lý,...như các biến động tạo sơn, sự nối liền lục địa châu Phi và Âu-A khoảng 15 triệu năm trước đây, và sự xuất hiện bình nguyên do đ ứt gãy lục địa chạy Phi. Sự biến đổi địa lý đó kéo theo thay đổi khí hậu, làm cho Đông Phi trở nên khô hạn hơn. Những biến đổi đó có ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện loài người. Sự cách địa lý và các điều kiện môi trường biến đổi sâu sắc là một tiền đề đưa đến những thay đổi căn bản vật chất di truyền (thay đổi bộ NST), tạo điều kiện cho sự phát sinh loài người. Năm 1995, tại nước cộng ho à Tchad thuộc Trung Phi, mẫu hoá thạch xương hàm dưới của một Australopithecus được phát hiện đã cho thấy cái nôi loài người không chỉ là Đông Phi. Một dạng vượn có thể gọi là người vượn đ ã sống cách thời nay ít nhất 3- 4 , có thể từ 8-10 triệu năm được gọi là Australopithecus - vượn phương Nam. Có thể xem Australopithecus là một dạng quan trọng trên con đường hình thành dạng người. Mẫu hoá thạch của nhiều loài australopithecus khác nhau tìm thấy ở Đông Phi cũng sống trong thời gian cách thời nay khoảng 5 triệu năm. Năm 1924, Raymond Dart tìm thấy một mẫu xương sọ hoá thạch ở Taung thuộc vùng Đông Nam châu Phi, đó là sọ của một đứa bé chừng 5-6 tuổi R. Dart khẳng định rằng đó là một mẫu người nguyên thuỷ và đặt tên là Australopithecus africanus (Vượn phương Nam). Phát hiện này được công bố trên báo Sau của Johannesburg ngày 25/02/1925. Đến năm 1936, Robert Broom nhận định ý kiến của R. Dart đưa ra trước đó là đúng và cũng năm đó ông đã tìm thấy một hoá thạch nữ của Australopithecus. Năm 1948, R. Broom phát hiện Australopithecus
  5. robustus ở Kromdraii và nghiên cứu hoá thạch của nhiều dạng Australopithecus, rồi nhấn mạnh Australopithecus là m ột giống (genus) gồm ít nhất hai loài: A. Africanus nhỏ hơn và A. Robustus to hơn. Theo R. Broom, A. Africanus xuất hiện sớm hơn, đã đi bằng hai chân, sống cách thời nay khoảng 2 triệu năm và tổ tiên của loài người. Sau 23 năm, đến năm 1959, hai vợ chồng nhà khảo cổ nhân học người Anh là Louis và Mary Leakey đã phát hiện ở hẻm vực Onduvai (Bắc Tanzania) các dấu vết hoá thạch của một cá thể tương tự Australopithecus. Vào một buổi trưa, bà Mary Leakey tìm đ ược một mẫu sọ não hoá thạch, đó là sọ của một vượn người độ 18 tuổi, được đặt tên là Zinjanthronus boisei, về sau mẫu này được đặt tên lại là A. Boisei. Các kết quả khai quật của hai vợ chồng Louis và Mary Leakey thu nhận được ở Kenya và Onduvai đã khẳng định sự tồn tại của Australopithecus. Mẫu hoá thạch Zinjanthropus boisei, về sau đ ược sửa lại là Australopithecus boisei, có niên đại cách thời nay là 1750 000 năm. Như vậy, người ta đã tìm thấy hoá thạch của 3 loài Australopithecus. Từ năm 1973 đến 1977, các nhà nghiên cứu đã thu thập hàng trăm mẫu hoá thạch tương ứng với ít nhất 65 cá thể, tất cả đều thuộc Australopithecus, có niên đại khoảng 3,8 đến 2,5 triệu năm, chúng sống trên các đồng cỏ, ẩm, có cây bụi, cạnh những sông và hồ lớn. Ngày 30/11/1974, nhà nghiên cứu người Mĩ Donald Johanson may mắn tìm thấy mẫu xương vượn người Australopithecus, gồm 52 xương không trùng lặp của một cá thể khoảng 20 tuổi, cao khoảng một mét và nặng gần 30 kg, đó chính các mẫu x ương hoá thạch của Lucy, có ký hiệu AL 288- 1. Việc xác định niên đ ại cho thấy Lucy đã từng sống cách thời nay khoảng 3,5 triệu năm, đ ược đặt tên loài loài A. Afarensis (Hình 27: Hình tái tạo của Lucy). Kết quả nghiên cứu thu nhận được cho thấy người vượn đã sống cách đây khoảng 4 đến 6 triệu năm: Suốt một thời gian dài sau đó, Lucy được coi là tổ tiên của loài người. Về sau đã được thay đổi bằng loài A. Africanus. Các dấu vết hoá thạch của Australopithecus được phát hiện nhiều ở Đông Phi, trong đó một số mẫu vật đáng chú ý là: + N ăm 1994, phát hiện được dạng "con trai của Lucy", đó là mẫu A. Afarensis có niên đại 2,9 triệu năm. + Năm 1993, Tim White tìm thấy hoá thạch bậc tiền bối của Lucy ở Aramis, với hơn 50 mẫu từ 17 cá thể có niên đ ại 4,4 triệu năm. Đó là loài mới A. Ramidus. + N ăm 1995, tại nước cộng hoà Tchad thuộc Trung Phi, người ta phát hiện xương hàm dưới của một australopithecus, được đặt tên là Abel
  6. chứng tỏ cái nôi của loài người không phải chỉ là Đông Phi. Có thể nói Australopithecus có ít nhất 8 loài, sống trong thời gian khá d ài và đ ã có sự phân hoá giới tính về hình thái, như con đực cao trung bình 1,3 mét, nặng gần 45 kg, con cái không cao quá 1,2 mét và mang không quá 30 kg. Các Australopithecus là dạng trung gian giữa tổ tiên xa xưa và người Homo. 5. Sự phát triển của giống người Homo Các loài thuộc giống người Homo có những tính chất khác biệt so với các vượn người, có thể xem đó là những đại diện đầu tiên của người hiện đại (Homo sapiens sapiens). Sự tiến hoá của giống người Homo có lẽ diễn ra theo trình tự lịch sử như sau: người khéo léo Homo habilis, người đứng thẳng Homo erectus, người thông minh (người cận đại) Homo sapiens và người hiện đại Homo sapiens sapiens (Chữ sapiens sapiens có nghĩa là rất thông minh, cực kỳ thông minh,...để nhấn mạnh khả năng trí tuệ của người hiện đại). + Người khéo léo (Homo habilis): Năm 1961-1964, những mẫu hoá thạch quan trọng tìm thấy ởOnduvai (Tanzania) có những đặc điểm gần giống với Australopithecus, nhưng cũng có một số đặc điểm vượt trội hơn, đặc biệt là sọ não đạt tới 650 cm3. Tại những địa điểm tìm thấy các mẫu này thường có các công cụ đồ đá thô sơ. Có thể các cá thể đó biết sử dụng các công cụ, vì thế Leakey xếp vào họ người Homo và đó là những con người đầu tiên. Đến năm 1964, vợ chồng Leakey gọi chúng là người khéo léo Homo habilis. Sau đó m ẫu Homo habilis còn tìm thấy ở Omo thuộc Ethiopia và ở hồ Turkana (Kenya) có niên đại 1,9 đến 1,8 triệu năm. Theo Leakey và các đồng nghiệp, H. habilis đã sống cùng thời với Australopithecus ở Đông Phi khoảng 2 đến 1 triệu năm trước đây. Homo habilis có thể là một dòng tiến hoá độc lập dẫn đến hình thành con người biết chế tạo công cụ và có thể chúng là dòng tiến hoá thẳng đến con người Homo, chứ không phải là Australopithecus. Về hình thái, sinh lý, Homo habilis nhỏ và mảnh dẻ, người lớn cao khoảng một đến 1,5 mét, nặng từ 25-50 kg, có sự phân hoá hình thái giới tính rõ ràng, các cá thể đực có thể lớn gấp đôi một số cá thể cái. Tuổi thọ không cao, đa số mẫu hoá thạch thu được khoảng 20 tuổi, những cá thể 30 tuổi là đã già. Não bộ đạt tới 600 -800 cm3, to hơn não của australopithecus, mặt thu hẹp và có những thay đổi theo hướng người hiện đại, như trán nhô, gờ mắt ít nổi rõ, mặt tròn hơn, hàm nhỏ và răng nhỏ hơn. Các chi trước còn dài, các ngón tay có khả năng cầm nắm
  7. chặt,...nhưng các bàn chân đã giống người hiện đại. Homo habilis có dấu hiệu ít lông, da đen hay m àu nâu (có lẽ do thường xuyên phơi nắng). Phần lớn các mẫu H. Habilis được tìm thấy trong các vũng nước, có lẽ chúng có nhu cầu nước khá lớn trong cuộc sống của mình. Về tập tính hoạt động sống, những H. Habilis đầu tiên thường sống dưới các bóng cây to, hái lượm củ, quả, hạt, hoa, chồi cây non,...hoặc săn bắt động vật, như côn trùng, giun, ố c sên, cá, trứng chim,...Người H. Habilis sống thành bầy đàn, thường vài mươi cá thể hoặc đông hơn, nhưng chưa phải là đời sống xã hội. Ngươi khéo léo đã biết dùng cành cây, gai nhọn, đá,...để làm một số công cụ cách đây khoảng 2,6 triệu năm, thâm chí lâu hơn. Đó là những dấu hiệu cổ nhất của nền văn minh sơ khai loài người. Homo habilis bắt đầu biết quan sát, ghi nhận các âm thanh, mùi, tập tính các loài vật khác, nhận biết các mùa, các hiện tượng thay đổi của môi trường xung quanh,...và hiểu biết của họ dần dần được tích luỹ. Nhờ biết quan sát, họ có thể săn bắt tết, nên thức ăn thịt có nhiều hơn. Nguồn thức ăn giàu protein đã góp phần đáng kể cho sự tăng cường hoạt động trí não. Trong cuộc sống như thế dần dần xuất hiện phân công lao động sơ khai, như các cá thể nam to khoẻ hơn thì đi săn bắt, còn cá thể nữ ở "nhà" nuôi con. Việc phân chia thức ăn kiếm được, cũng như phối hợp trong săn bắt là cơ sở đầu tiên tiến tới hình thành đời sống xã hội. Thời gian nuôi con kéo dài, bắt đầu biết hướng dẫn, kiểm soát các hoạt động của con cái, truyền đạt các hiểu biết về cuộc sống xung quanh. Mối quan hệ phức tạp dần dần đòi hỏi phát triển âm thanh giàu âm tiết hơn (hay ngôn ngữ) cần thiết cho sự giao tiếp. Các nghiên cứu giải phẫu học trên các mẫu hoá thạch cho thấy H. Habilis chưa thể nói tốt. Nhưng họ có thể dùng các cử chỉ của tay và nét mặt để truyền đạt các thông khác nhau. Người khéo léo H. Habilis sông cách đây khoảng 3,0 đến 1,5 triệu năm ở châu Phi. + Người đứng thẳng (Homo erectus). Người đứng thẳng H. erectus có niên đại khoảng 1,8 đến 0,2 triệu năm, các mẫu hoá thạch được tìm thấy không những ở châu Phi, mà còn thấy ở châu Á và châu Âu. Một số mẫu hoá thạch cần nói tới, đó là người Java (1891-1893), người Heidelberg (1907) và người Bắc Kinh (1927). Bác sĩ người Hà Lan Eugène Dubois đã phát hiện người cổ Java (trên đảo Java - Indonesia). Hiện nay ở làng Trinil, nơi phát hiện mẫu hoá thạch người Java còn có bia đá ghi dòng chữ "P.E. 175 m. ONO - 1891- 1893", có nghĩa là mẫu hoá thạch người vượn đi thẳng Pithecanthropus erectus, được tìm thấy cách 175 mét Đông-bắc-đông , năm 1891 - 1893.
  8. Tháng 10/1907, người ta tìm thấy một cái xương hàm to có răng ở Mauer gần vùng Heidelberg của nước Đức. Người vượn Heidelberg, được coi là loài Homo erectus có lẽ đã sống trên vùng đất châu âu khoảng 600 000 năm trước thời nay. Nói về người vượn Bắc Kinh, vào năm 1927, bác sĩ người Canada là D. Black cùng một số nhà đ ịa chất người Thuỵ Điển đã khai quật đ ược các mẫu x ương người vượn ở đồi Chu Khẩu Điếm cách Bắc Kinh 40 km về phía Đông Nam. Nghiên cứu các chỉ số nhân chủng học, người ta xác định các mẫu hoá thạch đó là dạng người Homo erectus và được gọi là người Bắc Kinh (Sinanthropus pekinensis), gọi đúng hơn là Pithecanthropus pekinensis. Đến năm 1930, cũng ở đó lại tìm thấy thêm những di cốt và những mảnh công cụ, đã khiến cho D. Black làm việc ngày đêm không cảm thấy mệt mỏi và ông đã chết khi trên tay vẫn còn đang cầm cái sọ người Sinanthropus. Năm 1935, bác sĩ Fr. Weidereich là người tiếp tục công việc của D. Black mới đủ cơ sở xác định đúng Sinanthropus thuộc giống Homo. Người Bắc Kinh có niên đại khoảng 500 000 năm trước đây, có lẽ đây là một dạng người cổ, mắt xích trung gian giữa người và vượn. Theo Fr. Weidereich, người Bắc Kinh di chuyển bằng hai chi sau, răng khác với răng vượn người, sọ não khoảng 1000 cm3 lớn hơn sọ vượn người (400 cm3), nhưng lại bé hơn sọ người hiện đại (1300 cm3). Các di tích công cụ tìm thấy chứng tỏ người Bắc Kinh đã có trình đ ộ văn minh sơ khai đáng chú ý. G. V. Koenigswald (1937) tiếp tục khai quật ở Java đã tìm thấy một cái sọ mới có đặc điểm giống với cái sọ, mà Dubois tìm được, nhưng hình thái cấu tạo phức tạp hơn có niên đại hoá thạch khoảng 500 000 năm. Nghiên cứu so sánh cho thấy người Java và người Bắc Kinh có các đặc tính chủ yếu giống nhau, và có thể có quan hệ trực tiếp với người Heidelberg. Nhưng dù thế nào thì ngày nay khoa học cũng khẳng định cả 3 dạng người nói trên đều thuộc lo ài Homo erectus. Về đặc điểm hình thái, sinh lý và tập tính hoạt động sống, Homo erectus có chiều cao từ 1,4 - 1 ,8 m, sọ não khoảng 750 - 1400 m3 (lớn hơn người H. habilis nhưng nhỏ hơn người hiện đại), lỗ chậm và cột sống thể hiện rõ khả năng đi thẳng đứng. Vị trí thấp và cấu tạo của thanh quản cho thấy có khả năng phát ra những âm thanh phức tạp (tiếng nói). Có lẽ cách đây khoảng 0,5 triệu năm, người H. erectus có số lượng cá thể không đông, chỉ khoảng vài trăm nghìn sông phân tán theo nhóm đàn trên phạm vi rộng. Tuổi thọ trung bình của H. erectus khoảng 20-25 năm. Mỗi nhóm khoảng 30 cá thể, các hoạt động chính là săn bắt động vật, hái lượm quả cây,...nên khu vực sống khá rộng và địa điểm sống của nhóm thường
  9. không ổn định. Người H. erectus đã bắt đầu chinh phục thiên nhiên, săn bắt,... Các di tích cho thấy họ tấn công tất cả các loài động vật, nhưng chủ yếu là động vật nhỏ và đ ã biết dồn con mồi vào bẫy. Nhiều công cụ bằng đá đã được chế tạo bằng những tác động đ ơn giản, như đập vỡ để dùng những mảnh đá nhọn sắc, ghè hoặc mài những hòn đá lên nhau,... Một sự kiện cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa lớn mang tính quyết định tới sự chuyển hoá thực sự trong cuộc sống loài người nguyên thuỷ, đó là sự kiện người Homo erectus biết dùng lửa. Các loại công cụ mới do người H. erectus chế tạo đã thay thế các công cụ ban đầu còn quá thô sơ của người Homo habilis. Có thể nhận thấy dấu hiệu chung là cả hai loài người này đều thích đi xa, phân tán rộng, "lang bạt kiếm ăn, chinh phục thiên nhiên" ở khắp nơi trên thế giới. + Người cận đại (Homo sapiens): Những mẫu hoá thạch khai quật được đều chỉ rõ rằng người Homo erectus có những dấu hiệu điển hình đã biến mất trong khoảng từ 200 000 đến 150 000 năm trước đây, và nhường chỗ cho những hoá thạch người cận đại Homo sapiens vào cuối thời kỳ băng hà Riss. Một sự kiện quan trọng là phát hiện hoá thạch người Neanderthal. Đã biết ngay từ năm 1856, trước khi S. R. Darwin công bố tác phẩm "Nguồn gốc các loài", ở thung lũng Neanderthal của nước Đức người ta đã phát hiện được một số xương chỏm sọ, xương vai và các chi của người hoá thạch, được đặt tên là người Neanderthal, có thể xem là đ ại diện đầu tiên của H. sapiens. Các mẩu xương hoá thạch người Neanderthal phân bố ngẫu nhiên, và khác với người hiện đại ở chỗ là có cung trên lông mày phát triển, trán do, hộp sọ dẹt phía trước và do phía sau. Về sau nhiều mẫu hoá thạch được tìm thấy ở châu âu. Về đặc điểm hình thái sinh lý, người Neanderthal trưởng thành cao khoảng 1,65 m, thường dao động trong khoảng 1,55 ở nữ và 1,70 m ở nam... Não bộ có kích thước gần với người hiện nay. Một số sự kiện đáng chú ý, như: (1) Những năm 1950, hầu hết các tác giả cho rằng người hiện đại có nguồn gốc châu âu là xuất phát từ dạng người Cro- Magnon, rồi di cư sang châu Á và châu Phi; (2) Từ những năm 1970, các bằng chứng khảo cổ học cho thấy tổ tiên trực tiếp của loài người hiện đại tồn tại ít nhất 60000 năm ở vùng Cận-Đông; (3) Đến những năm 1980, các dẫn liệu khoa học xác nhận rằng người Neanderthal không phải là tổ tiên trực tiếp của loài người hiện đại, mà chỉ cùng tồn tại trong một thời gian dài, sau đó nhường chỗ cho người hiện đại.
  10. Về đời sống xã hội, công cụ lao động và văn hoá, thì những người cận đại Homo sapiens quần tụ thành nhóm nhỏ từ 30 đến 50 cá thể và có biểu hiện cố ý ngăn cách với các nhóm khác. Thường các nhóm khác nhau cố tránh những cuộc va chạm, và đi đến thiết lập sở hữu lãnh thổ riêng do đất còn rộng. Tuy nhiên giữa các nhóm đã hình thành "ngôn ngữ" để có thể thông tin, giao tiếp với nhau, và như thế bắt đầu hình thành các "bộ lạc" sơ khai. Họ đã biết phối hợp nhau trong hoạt động săn bắt, tìm kiếm thức ăn và dự trữ thức ăn. Các loại dụng cụ đồ đá khác nhau đã được chế tạo để dùng cho săn b ắt , mổ xẻ con mồi hay chế biến thức ăn,... Đa số các công cụ được làm bằng gỗ. Người cận đại Homo sapiens đã bắt đầu có tín ngưỡng, có lễ nghi mai táng khi có người bị chết. Tất cả những tập tính ho ạt động đó chứng tỏ họ đã bắt đầu có đời sống văn hoá tinh thần. Tóm lại, trong thời gian khá dài, chúng ta vẫn hiểu người Neanderthal là tổ tiên trực tiếp của người hiện đại H. sapiens sapiens, song những dẫn liệu xác đáng gần đây lại chứng tỏ cá hai loài cùng tồn tại song song trong một thời gian, rồi người cận đại Neanderthal biến mất. Những nguyên nhân nào đã tác động để dẫn tới tình trạng đó, đến nay vẫn chưa có lời giải đáp mạch lạc. + Người hiện đại (Homo sapiens sapiens): Cần nhắc lại rằng mẫu người Neanderthal cuối cùng tìm thấy ở Palestine có niên đ ại cách đây 45 000 năm và người hiện đại H. sapiens sapiens mà đại diện là người Cro-Magnon đã xuất hiện và thay thế vị trí người cận đại trong khoảng 40 000 - 35000 năm gần đây. Năm 1868, tại làng Cro- Magnon thuộc vùng Dordogne (nước Pháp), phát hiện được bộ xương hoá thạch người Cro-Magnon rất giống người hiện nay và được xếp vào loài H. sapiens sapiens. Người Cro-Magnon đã thay thế người Neanderthal và đã biết chế tạo các công cụ ngày càng đa dạng và hoàn thiện hơn. Các công cụ có niên đại 20 000 năm trước đây đ ã có các dấu hiệu nghệ thuật thẩm mĩ, thể hiện tính truyền thống và huyền bí. Đã biết trồng trọt và chăn nuôi cách nay khoảng 10000 năm, cũng từ thời gian đó, nền văn minh loài người phát triển và hoàn thiện với tốc độ càng nhanh. Tóm tắt: Tốc độ tiến hoá của loài người diễn ra ngày càng nhanh, đặc biệt do tác động của các nhân tố xã hội. Trong khoảng 10 000 năm trở lại đây, những tiến bộ của xã hội loài người đã tác động trở lại làm biến đổi và chinh phục thiên nhiên, còn sự biến đổi của con người về mặt sinh học là không đáng kể. Điều đó nói lên rằng tiềm năng trí tuệ của bộ óc con người hiện đại từ khi xuất hiện đã rất lớn, mà đến nay chính con người vẫn còn chưa biết hết.
  11. Nói về sự vận động của các lục địa, vài chục triệu năm trước đây châu Phi còn nối liền với Nam và Bắc Mĩ , trong khi đó vùng Địa Trung Hải chưa xuất hiện nên sự liên hệ từ châu Phi sang châu Á qua Cận Đông cũng dễ dàng. Do vậy quan điểm cho rằng loài người được hình thành ở châu Phi là có cơ sở, để từ đó những người cổ đại trong quá trình phát triển, tiến hoá đ ã đi đến phân bố khắp nơi trên thế giới. Quá trình phát triển của con người từ cách đây 4 triệu năm có thể mô tả như sau: Bốn triệu năm trước đây (có thể 5-10 triệu năm), tổ tiên của loài người là người vượn australopithecus, đã biết đi bằng 2 chân nhưng còn lom khom, thể tích bộ não khoảng 450-750 cm3. Đến thời gian cách đây khoảng 1,5 triệu năm đã xuất hiện người Homo erectus có thể tích bộ não khoảng 850-1100 cm3, gần với não người ngày nay, có dáng đứng thẳng. Và khoảng 100 000 năm trước đây, xuất hiện người cận đại Homo sapiens, đ ại diện là Neanderthal có bộ não gần như người ngày nay (1400 cm3). Còn người hiện đại Homo sapiens sapiens đã xuất hiện khoảng 35 000-40 000 năm gần đây.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
29=>2