intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiết kiệm là quốc sách

Chia sẻ: Hà Nguyễn Thúy Quỳnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

90
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chơng 1 Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “ 1.1. Khái niệm về tiết kiệm Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đa ra khái niệm khác nhau. Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiết kiệm là quốc sách

  1. Tiết kiệm là quốc sách Chơng 1 Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “ 1.1. Khái niệm về tiết kiệm Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đa ra khái niệm khác nhau. Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tăng tiết kiệm. Nhng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “ Sang đến thế kỷ 19, C.Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất t liệu sản xuất và khu vực II sản xuất t liệu tiêu dùng. Để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu t, một mặt phải tăng cờng sản xuất t liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiêt kiệm t liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cờng sản xuất t liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Nh vậy, con đờng cơ bản và quan trọng về lâu dài để táI sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học khác nhau, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào điều kiện cụ thể của nớc ta và đa ra khái niệm về tiết kiệm: “ Tiết kiệm là một quy
  2. luật, một phơng pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ tiết kiệm khi đất nớc còn nghèo, mà ngay cả khi giàu có và càng giàu có càng phải thực hành tiết kiệm “. Bác luôn nhấn mạnh “ tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 vấn đề mấu chốt để xây dựng, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, để cải thiện đời sống nhân dân “. T tởng quan điểm của Bác là “ làm ra nhiều, chi dùng nhiều. Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế của nớc ta “. Tiết kiệm - theo Bác “ cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân! “ Nh vậy, tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhng vẫn đạt đợc mục tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định ( Pháp lệnh của UBTVQH số 02/1998/PL - UBTVQH10 ) 1.2. Bản chất của tiết kiệm Tiết kiệm trong mọi thời điểm rất dễ bị hiểu sai lệch, chúng ta cần phải tìm hiểu cặn kẽ và đúng đắn bản chất của tiết kiệm để trong quá trình thực hành và vận dụng trong thực tiễn có thể đúng hớng. Tiết kiệm là với chi phí thấp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn “ không phải xem đồng tiền to bằng cái nống, gặp việc đáng làm không làm, đáng tiêu không tiêu. Tiết kiệm phải đợc thực hiện một cách toàn diện, hoàn chỉnh bao gồm cả tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu không biết tiết kiệm của riêng thì không thể tiết kiệm của công đợc. Nhng nếu chỉ lo tiết kiệm của riêng mà phung phí của công là không đúng. Tiết kiệm không chỉ lao động và tiền mà cả thời giờ “, Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc thận trọng, khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhng việc đáng làm vì ích nớc, đồng bào thì tiêu bao nhiêu, tốn bao nhiêu chúng ta cũng sẵn sàng thực hiện “. Trong thời điểm hiện nay, với chủ trơng “ kích cầu “ của Nhà nớc, tuy nhiên chúng ta phải xem xét và khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc khuyến khích tiêu dùng và thực hành tiết kiệm. Tiết kiệm và kích cầu là hai vấn đề gắn bó với
  3. nhau nhng hoàn toàn khác nhau. Tiết kiệm không có nghĩa là chi ít mà chi đúng và chi có hiệu quả. Thực hành tiết kiệm đồng thời với việc không chấp nhận việc tiêu dùng xa hoa, lãng phí, cần tiêu 1 mà tiêu 3, cần tiêu 3 lại tiêu 7. Bản thân từng ngời lao động, từng doanh nghiệp đợc Nhà nớc ta khuyến khích tiêu dùng để thúc đẩy sản xuất bởi tiêu dùng là một khâu trong vòng tròn khép kín: sản xuất - lu thông - phân phối - tiêu dùng. Đây chính là bản chất của tiết kiệm. Chúng ta hiểu và biết kết hợp hai vấn đề “ kích cầu “ và tiết kiệm để phát triển sản xuất. Nh vậy mới có thể phát triển kinh tế đợc. 1.3. Các nguồn tiết kiệm 1.3.1. Tiết kiệm trong khu vực Nhà nớc - Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nớc ( NSNN ) : Khoản này còn đợc gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết kiệm của ngân sách đợc xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thờng xuyên. Tiết kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lợng đầu t của chính phủ. Trong trờng hợp bội chi ngân sách, Nhà nớc sẽ phải đi vay hoặc xin viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. Ở nớc ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân sách chủ yếu đợc thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh này sẽ đợc bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ yếu đợc hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nớc của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thờng xuyên, dự phòng hoặc trả nợ. - Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nớc ( DNNN ) : Để tiến hành đầu t sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nớc tự đầu t bằng vốn huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghi ệp, bên cạnh các nguồn vốn khác nh vay trực tiếp từ dân c, vay nớc ngoài hoặc nhận từ NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi. 1.3.2. Tiết kiệm trong khu vực t nhân
  4. - Tích luỹ của các doanh nghiệp t nhân ( DNTN ): Mặc dù là một khu vực kinh tế tơng đối non trẻ so với khu vực Nhà nớc, nhng khu vực t nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vơn lên mạnh mẽ và đầy hứa hẹn trong tơng lai. Khu vực t nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân, các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tơng đối lớn. - Tiết kiệm của các tầng lớp dân c : Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng cờng huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này chính là tiết kiệm trong dân c. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dới dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối với một đất nớc còn đang rất khát vốn đầu t nh chúng ta. Có đợc vốn huy động rồi , nếu mu ốn biến chúng thành vốn đầu t thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trờng đầu t thuận lợi đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng cờng thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu t thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng nh tình hình của Việt Nam trong những năm 1996 - 1997. 1.4. Kinh nghi ệm của một số nớc về vấn đề: “ tiết kiệm là quốc sách “ - Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới đã đợc chứng kiến hình ảnh cảm động ngời dân Thái lũ lợt đi quyên góp để cứu ngân khố nớc nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi Chính phủ thực hiện chủ trơng tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã hội của đất nớc.
  5. Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thờng, mà phải là sự kết hợp vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực Nhà nớc lẫn khu vực t nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn d lại sau khi chi tiêu nhng có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng nh trong ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức t nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu t theo mong mu ốn của ngành mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu t từ bên ngoài một cách triền mi ên. Do vậy, tiền tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trờng thu hút thích hợp để hạn chế việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu t ở mức thích hợp với lợng tiền tiết kiệm theo tốc độ tăng trởng kinh tế hợp tình hợp lý. Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực t nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( ngời lãnh đạo không tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm ( bao gồm cả phần d của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông đợc hởng ) một cách có hiệu quả. Đối với khu vực Nhà nớc, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nớc để tạo ra đợc số d tiết kiệm. Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết đơn thuần bằng biện pháp kinh tế nh tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nớc, khu vực t nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết đợc vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn cũng nh dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, ngời ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện pháp cần chứ cha đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan tuy đã đợc đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhng còn có những điều khác biến doanh
  6. nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển vọng lu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán. - Chilê và Singapore: Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu đợc áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tơng tự để tạo ngân quỹ và đem đi đầu t khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống nhân dân lúc đang làm việc cũng nh khi về hu. Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở sinh sống cho không ít ngời lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hớng dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách lừa gạt hoặc ép buộc ngời tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu nh các khó khăn kinh tế có thể giải quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng đợc tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần tợng của đông đảo công chúng. Nhng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định. Tức là, sẽ phải có ngời mất việc làm, có ngời bị thiệt hại, mất mát địa vị trong doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát sinh nghiêm trọng khác.
  7. Chơng 2 Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua 2.1. Tiết kiệm trong khu vực Nhà nớc 2.1.1. Tiết kiệm của NSNN Nh đã nói ở trên, vốn NSNN đợc huy động nhờ tiết kiệm chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách quốc gia. Tình hình hoạt động ngân sách có thể thấy rõ qua bảng sau: Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003 1 1 1 1 2 2 2 2 9 9 9 9 0 0 0 0 Chỉ 9 9 9 9 0 0 0 0 tiêu 6 7 8 9 0 1 2 3 Thực tính ( tỷ đồng ) Tổng nguồn thu và viện trợ 21 30.7 42.1 53.4 62.4 66.3 68.6 69.5 từ Thu thuế 5.5 11.4 16.8 23.4 28.1 28.1 32.1 33.9 Đóng góp của DNNN 11.9 15.3 20.6 21.9 25.9 27.6 27.3 27.3 Nguồn thu ngoài thuế khác 2.8 3 3.5 6.5 6.9 8 7.3 6.4 Viện trợ 0.8 1 1.2 1.6 1.5 2.6 1.9 1.9 Tổng chi 22.9 36.9 43.9 54.6 62.9 40.8 72.5 74.5 Chi thờng xuyên 15.5 25.6 31.1 39.6 44.6 49.4 49.5 48.5 Chi đầu t ( không kể 6.4 9.6 11.7 12.1 15.6 19.5 19.8 23
  8. cho vay lại ) Trả lãi 1 1.7 1.1 2.9 2.7 1.9 2 2.5 Dự phòng 0 0 0 0 0 0 1.2 0.5 Cán cân chung ( cơ sở tiền mặt ) -1.9 -6.2 -1.8 -1.2 -0.5 -4.5 -3.9 -5 Tỷ lệ phần trăm trong GDP 2 2 2 2 2 1 2. 4. 3. 2. 1. 1 Tổng nguồn thu và viện trợ 9 5 7 9 9 1 9 17.8 1 1 8. 9. 0. 0. 8. Thu từ thuế 5 3 .9 5 3 9 9 8.7 1 1 1 Đóng c ủa g óp 0. 1. 2. 9. 9. 8. 7. DNNN 8 2 1 8 5 8 5 7 Nguồn thu ngoài 2. 2. 2. 2. 2. 2. thuế khác 5 2 1 9 5 6 2 1.6 0. 0. 0. 0. 0. 0. 0. Viện trợ 8 7 7 7 6 8 5 0.5 2 2 2 2 2 2 2 Tổng 0. 7. 5. 4. 3. 2. 0. chi 7 1 8 4 1 6 1 19.1 1 1 1 1 1 1 1 8. 8. 7. 6. 5. 3. Chi thờng xuyên 4 8 3 8 4 7 7 12.4 Chi đầu t ( không kể cho 5. 6. 5. 5. 6. 5. vay lại ) 8 7 9 4 7 2 5 5.9 1. 0. 1. 0. 0. Trả lãi 1 3 6 3 1 6 6 0.6 0. Dự phòng 000 0 0 0 3 0.1 - - - - - - - 1. 4. 1. 0. 0. 1. 1. Cán cân chung ( sơ sở tiền mặt ) 761 5 2 4 1 -1.3 111 2 2 3 3 137 2 7 1 6 Ghi chú: GDP ( nghìn tỷ đồng ) 170 9 2 4 2 391 Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Số liệu của Tổng cục Thống kê. Qua bảng trên, có thể thấy tỷ trọng thu ngân sách đã giảm liên tục từ kể từ năm 1999. Mặc dù so với kế hoạch mà chính phủ đặt ra thì con số đạt đợc nêu trên gần sát, nhng việc đa ra các con số kế hoạch thấp về mục tiêu thu ngân sách cũng kéo theo sự
  9. sụt giảm tơng ứng trong các khoản chi. Tuy vậy, chi cho đầu t vẫn đợc duy trì ở khoảng trên dới 5.5% ngân sách hàng năm, trong đó tập trung chủ yếu vào chi cho hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp. Mức thâm hụt ngân sách vẫn dừng ở mức tơng đối ổn định, khoảng dới 1.5% GDP. Tỷ trọng thu ngân sách giảm gần một phần t so với năm 2000, theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chủ yếu bắt nguồn từ sự giảm sút nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu. Thu thuế doanh nghiệp giảm là do hoạt động kém hiệu quả của các DNNN, trong khi các DNTN tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong những năm kể từ năm 2001 trở lại đây. Còn doanh thu thuế nhập khẩu giảm là do sự chuyển hớng cơ cấu nhập khẩu theo hớng hạn chế nhập hàng tiêu dùng, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu trong GDP cũng giảm dần trong những năm qua. Điều này cho thấy, để giữ vững nguồn thu cho ngân sách thì việc cải cách hệ thống thuế, nhất là thành công của thuế VAT sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trong khi nguồn thu ngân sách giảm mạnh từ 23% GDP năm 2000 xuống dới mức 18% năm 2003, chính phủ đã theo đuổi một chính sách thận trọng, không cho phép sự giảm sút nguồn thu ngân sách gây ra sự bất ổn định về ngân sách quốc gia, mà đã có sự cắt giảm chi tiêu một cách tơng ứng. Tuy nhiên, phần lớn sự cắt giảm là các khoản chi cho dịch vụ kinh tế và chi hành chính. Còn chi đầu t xây dựng cơ bản vẫn đợc duy trì và có sự gia tăng chút ít. Năm 2002 - 2003 cũng là giai đoạn chính phủ mở rộng hình thức đầu t tín dụng Nhà nớc - một loại u đãi tài chính của chính phủ đối với các dự án đầu t. Mặc dù loại tài trợ này hoạt động trên nguyên tắc tự bù đắp nhng ngân sách vẫn phải trợ cấp phần chênh lệch giữa lãi suất huy động của tổ chức cho vay và lãi suất cho vay u đãi mà các tổ chức này áp dụng theo địa chỉ mà Nhà nớc hớng dẫn. Nếu những năm trớc 1998, tỷ trọng vốn đầu t bằng hình thức tín dụng Nhà nớc trong tổng vốn đầu t xã hội đều chỉ giữ ở mức khiêm tốn dới 10% thì từ năm 1998 đến nay, tỷ trọng này đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2002, nguồn đầu t này đã chiếm đến hơn 15% tổng vốn đầu t xã hội. Vì thế, việc tăng mạnh các loại hình cho vay này sẽ áp đặt một gánh nặng đáng kể lên ngân sách trong những năm tiếp theo.
  10. Tóm lại, có thể nêu một số điểm chính nh sau về thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn đầu t qua NSNN: - Vốn đầu t từ NSNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đầu t vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhng khả năng thu hồi vốn thấp khiến các nhà đầu t t nhân không thấy hấp ( nh đầu t vào cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ). Trong những năm qua đã có sự chuyển hớng mạnh về định hớng đầu t công cộng. Nhờ đó, đã có tác động tích cực đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu t nói chung và cơ cấu kinh tế. - Công tác thu chi ngân sách cha thật vững chắc, khiến cho nguồn đầu t từ tiết kiệm ngân sách cũng cha bền vững. Việc chống buôn lậu, chống thất thu thuế cho Nhà nớc cũng cha có nhiều chuyển biến tích cực. Ngân sách thờng xuyên căng thẳng, vốn đầu t quốc gia cha đợc quản lý chặt chẽ, vẫn còn nhiều sơ hở, gây thất thoát lãng phí. 2.1.2. Tích luỹ của các DNNN Nh đã nói ở trên, nguồn vốn đầu t của các DNNN chủ yếu dựa vào phần lợi nhuận để lại, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh ( tái đầu t ) của các doanh nghi ệp. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nớc vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Số lợng các doanh nghiệp quốc doanh còn nhiều, tài sản của thành phần kinh tế này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia. Hoạt động kinh doanh của chúng vẫn nhận đợc nhiều sự u đãi của chính phủ về cấp phát vốn, cho vay u đãi, u đãi về thuế . . . Đáng tiếc, hoạt động của các doanh nghiệp này lại rất kém hiệu quả, do đó tiết kiệm của các doanh nghiệp này để bổ sung vào nguồn vốn đầu t toàn xã hội cha tơng xứng với tầm vóc của chúng. Nguồn: Bộ Tài chính và Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp Trung ơng Từ bảng trên có thể thấy, các DNNN “ yếu kém nhất “ và “ hoạt động không có hiệu quả “ đợc phân loại trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận và nợ, lần lợt có mức nợ gần 20
  11. nghìn tỷ và 43 nghìn tỷ đồng ( tơng ứng với khoảng 1400 và 3000 triệu đôla ) vào cuối năm 2001. Sự kém cỏi trong hoạt động của các DNNN nói chung đã làm giảm sức mạnh của nền kinh tế xét về ba khía cạnh. Thứ nhất, nó gây ra sự phân bổ sai, không hiệu quả các nguồn lực vốn còn rất khan hiếm của xã hội. Nếu khu vực t nhân nói chung hoạt động hiệu quả hơn các DNNN thì việc nâng đỡ các DNNN này bằng ngân sách quốc gia đã làm lãng phí nguồn lực xã hội mà đáng lẽ phải hớng sang phục vụ các DNTN. Thứ hai, nếu các ngân hàng quốc doanh bị ép phải tiếp tục cho các DNNN thua lỗ này vay thì sẽ làm tăng lợng vốn khê đọng, và nguy hiểm hơn có thể làm mất khả năng chi trả của các ngân hàng. Thứ ba, những vấn đề nêu trên nếu không đợc giải quyết triệt để thì sẽ ngày càng làm tăng thêm chi phí cho các cuộc cải cách ngân hàng và DNNN. Theo ớc tính, nếu không có các chính sách thích hợp, chi phí cho việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ( xoá các khoản nợ không có khả năng thanh toán của các DNNN và tái cấp vốn cho các ngân hàng ) có thể sẽ tăng thêm hàng năm 1-2% GDP, trong khi mức dự kiến hiện nay đã vào khoảng 8 - 10% GDP. Nh vậy, tình hình hoạt động bi quan của đa số các DNNN cho thấy không thể dự kiến gì nhiều về nguồn vốn do các DNNN này tự đầu t trong thời gian tới so với những gì họ đã làm đợc trong những năm qua, nếu không muốn nói là tình hình còn có thể xấu hơn nữa. Cải cách mạnh khu vực này theo hớng sắp xếp lại DNNN, xúc tiến cổ phần hoá, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả là hớng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách quốc gia, đồng thời từng bớc tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đợc tích luỹ thực sự từ lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh hiệu quả của chính họ. 2.2. Tiết kiệm trong khu vực t nhân 2.2.1. Tích luỹ của các DNTN Tỷ trọng đóng góp của khu vực t nhân trong GDP năm 2000 vào khoảng 51%, trong đó riêng khu vực t nhân trong nớc ( không kể khu vực t nhân nớc ngoài ) là 41%
  12. ( xem bảng dới ). Trong giai đoạn 1999 - 2002, tuy gặp nhiều trở ngại nhng khu vực t nhân Việt Nam vẫn tăng trởng 9% một năm, chỉ kém khu vực Nhà nớc có 1%. Tình hình tài chính của các DNNN yếu kém Loại doanh nghiệp Y ế u ké m Không hiệu quả Số lợng DNNN 711 1989 Số lao động ( nghìn ngời ) 183 583 Tổng nợ ( nghìn tỷ đồng ) 19.5 42.5 Nợ ngân hàng ( nghìn tỷ đồng ) 14 29 Vốn Nhà nớc ( nghìn tỷ đồng ) 10.2 52.5 Lợi nhuận trớc thuế ( nghìn tỷ đồng ) -0.25 5 Nguồn: Niên giám Thống kê, 2003. Khu vực t nhân đang tạo ra gần một nửa GDP trong các ngành chế tạo, trong đó khu vực t nhân vẫn chiếm u thế, và tỷ trọng này còn tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp gia đình và DNTN vừa và nhỏ chiếm 28% GDP của ngành công nghiệp chế tạo. Tiếp tục những cải cách trong việc khuyến khích đầu t t nhân từ những năm trớc, năm 1999, chính phủ đã tiến hành các biện pháp nh: . Cho phép các công ty t nhân Việt Nam góp quyền sử dụng đất của mình dới dạng vốn sở hữu trong các liên doanh, khi họ đã trả đầy đủ tiền thuê đất. . Thành lập Diễn đàn Khu vực T nhân và gặp gỡ hàng quý để trao đổi các vấn đề liên quan đến quyền lợi của khu vực t nhân trong nớc và ngoài nớc. . Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng chiến lợc 5 năm phát triển khu vực t nhân. . Công bố danh sách các khuyến khích mới dành cho các nhà đầu t nớc ngoài. . Thông qua Luật Doanh nghiệp, bãi bỏ sự hạn chế có tính chất phân biệt về quyền thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh của bất kỳ một pháp nhân hoặc thể nhân nào, đơn giản hoá đáng kể các quy định thủ tục về đăng ký, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp cổ phần hoá.
  13. . Công bố cụ thể về chơng trình hành động về khu vực t nhân theo Kế hoạch Myazawa. Chơng trình này không chỉ đề cập đến các vấn đề giảm bớt khó khăn trong quá trình lập DNTN và tạo sân chơi bình đẳng, mà còn nêu lên các định chế tín dụng và các cơ quan hỗ trợ cho khu vực t nhân. Tuy nhiên, các doanh nhân đều cho rằng, chính sách mới còn cha đợc tự do hoá đầy đủ và qua trình thực hiện các chính sách hiện hành còn rất chậm chạp. Một số điểm cụ thể về những trở ngại này là: . Về sự tham gia của khu vực t nhân. Luật Doanh nghiệp vẫn cha củng cố thêm tính chất tự do hoá. . Về khuôn khổ pháp lý của khu vực t nhân. Vẫn cha có một hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất dành cho toàn bộ các doanh nghiệp t nhân. . Chính sách đất đai. Vẫn có sự phân biệt về quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đối với đất thuê và các bất động sản khác sẽ không đợc chuyển nhợng nếu không đợc sự đồng ý của chính phủ trong từng trờng hợp. Cha có một hệ thống pháp lý thống nhất về đăng ký đất đai. Do đó, dễ gây ra sự tranh chấp về đất đai và gây khó khăn cho tổ chức tín dụng khi muốn xác định chủ sở hữu đích thực có quyền sử dụng đất. . Khả năng tiếp cận yếu đối với các nguồn nhập khẩu và mạng lới xuất khẩu. Về xuất khẩu, thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu còn rất rờm rà. Về nhập khẩu, các công ty bị hạn chế quyền nhập khẩu các mặt hàng không đăng ký trong giấy phép, và để xin đợc các giấy phép kinh doanh mới có liệt kê mặt hàng nhập khẩu thích hợp thì rất khó khăn. Thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu cũng tốn thời gian và chi phí không kém, nhiều mặt hàng nhập khẩu vẫn chịu hạn chế của các hàng rào phi thuế quan. . Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng còn hạn chế. Một nguyên nhân chính là các DNTN gặp rất nhiều khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu thế chấp. . Các tổ chức hỗ trợ thị trờng kém. Do đó, DNTN thiếu những kênh quan trọng để trao đổi, thu thập thông tin. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cũng còn hạn chế, do đó
  14. cha tranh thủ đợc kinh nghiệm và trình độ thực hiện các công việc chuyên môn của những chuyên gia giỏi. Tất cả những trở ngại trên đây đang từng bớc đợc chính phủ Việt Nam tích cực tìm cách tháo gỡ. Mặc dù đây không phải là công việc một sớm một chiều, nhng với triển vọng ngày một thuận lợi của khu vực t nhân, có thể dự kiến tỷ trọng vốn đầu t của DNTN trong tổng vốn đầu t xã hội trong những năm tới sẽ gia tăng mạnh mẽ. 2.2.2. Tiết kiệm của các tầng lớp dân c Ở nớc ta, ngời dân có tiền thờng đa vào những cách sử dụng chủ yếu sau: - Mua ngoại tệ, vàng cất trữ. Cách làm này thờng đợc áp dụng khi có sự biến động cao về tỷ giá hoặc tỷ lệ lạm phát. - Đầu t kinh doanh, kể cả việc mua đất đai, xây dựng khách sạn. . . Đây là hiện tợng phổ biến trong các năm 1989 - 1996. Theo một thống kê của các chuyên gia tài chính, đến cuối năm 1996, vốn của dân đầu t vào sản xuất kinh doanh là 4.350 tỷ đồng. - Mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, ngân hàng thơng mại cổ phần hay các công ty tài chính cổ phần. Hình thức này hiện nay cha phổ biến, do số lợng các công ty cổ phần ở nớc ta còn ít, thị trờng chứng khoán cha thành lập. Phổ biến nhất là việc các cán bộ công nhân viên chức trong các DNNN đứng ra mua cổ phần khi các doanh nghiệp này đợc cổ phần hoá. - Mua trái phiếu Kho bạc Nhà nớc. Hình thức này mới xuất hiện ở nớc ta từ năm 1992 đến nay. Do lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng cùng kỳ hạn, lại là cách đảm bảo nhất nên hình thức trái phiếu Kho bạc đã hấp dẫn đợc rất nhiều tầng lớp dân c trong những năm qua. - Gửi tiền tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là hình thức đợc ngời dân lựa chọn nhiều nhất và cũng là kênh thu hút đợc khối lợng tiền nhàn rỗi của dân c lớn nhất.
  15. - Hùn vốn kinh doanh hoặc cho nhau vay trên thị trờng phi chính thức dới nhiều hình thức nh chơi bụi, chơi họ . . . - Giữ tiền mặt trong nhà cho tiện việc chi tiêu sử dụng. Khác với các nớc khác, hình thức này cũng tơng đối phổ biến ở nớc ta, nhất là khi tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế còn rất cao nh hiện nay. Cơ cấu sử dụng nguồn tiết kiệm của dân c đợc thể hiện rõ nét thông qua kết quả Điều tra Mức sống Dân c vừa đợc Tổng cục Thống kê kết hợp với Ngân hàng Thế giới thực hiện trong năm 2001 - 2002, nh bảng dới đây. Tỷ trọng của khu vực t nhân trong GDP năm 2000 ( % ) Tổng GDP GDP của ngành chế tạo Khu vực Nhà nớ c Các doanh nghiệp Nhà nớc 49 54 Khu vực t nhân Khu vực đầu t nớc ngoài 10 18 Khu vực đầu t trong nớc 41 28 Các doanh nghiệp gia trong đó: đình 34 18 DNTN vừa và nhỏ 7 10 Nguồn: Điều tra Mức sống Dân c lần II, năm 2001 - 2002. Qua bảng trên, có thể thấy hình thức tiết kiệm phổ biến nhất hiện nay là tích trữ vàng bạc, đá quý chiếm 28.82% các hình thức tiết kiệm. Sau đó là hình thức giữ tiền mặt chiếm 26.27%, hình thức thứ ba là đồ trang sức chiếm 18.65%. Nếu tính gộp các hình thức này, cộng với hình thức giữ ngoại tệ mạnh thì có đến 76% nguồn tiết kiệm của dân c vẫn tồn đọng trong khu vực dân c, và không đợc huy động vào phục vụ sản xuất. Còn nếu giả định lợng tiền mặt mà cá nhân giữ sẽ đợc huy động vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ thì tỷ lệ vốn “ nằm chết “ trong dân cũng vào khoảng 50% tổng tiết kiệm dân c. Những con số này tuy mới chỉ là sơ bộ, nhng nó cũng tơng xứng với ớc tính của nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng có đến 60% tiết kiệm của dân c vẫn tồn đọng trong khu vực này.
  16. Tính đến nay, hệ thống ngân hàng mới chỉ huy động đợc 18.5% tiết kiệm của dân c. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của vốn huy động qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính giai đoạn 1996 - 2001 là 37,1%, trong đó huy động bằng nội tệ tăng 50.9%, bằng ngoại tệ tăng 22.95%. Tuy nhiên, trong năm 2003, xu hớng này đã đảo ngợc. Vốn huy động bằng ngoại tệ đã tăng nhanh hơn vốn huy động bằng nội tệ. Tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, tốc độ tăng vốn huy động bằng ngoại tệ đã gấp từ 1.5 đến 2 lần tốc độ tăng vốn huy động bằng nội tệ. Nguyên nhân chính là do tỷ giá trong năm qua đã ổn định. Tỷ trọng vốn tín dụng trong tổng vốn đầu t toàn xã hội năm 1995 chiếm 8.3%, năm 2000 là 10.6%, năm 2001 là 9.9% và năm 2002 là 10.5%. 2.3. Đánh giá chung và nguyên nhân 2.3.1. Về mặt đợc Hoạt động huy động vốn có nhi ều tiến bộ, lợng vốn huy động đợc trong dân c ngày càng tăng với mạng lới các kênh huy động ngày càng mở rộng. Trong vòng một thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có bớc phát triển khá, bao gồm 4 ngân hàng thơng mại quốc doanh ( Ngân hàng Ngoại thơng, Ngân hàng Công thơng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Đầu t Phát triển ), giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra còn có nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh nh 33 ngân hàng thơng mại cổ phần đô thị, 21 ngân hàng thơng mại cổ phần nông thôn, 2 công ty tài chính cổ phần, 23 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nớc ngoài, 40 văn phòng đại diện các ngân hàng nớc ngoài và trên 950 Quỹ tín dụng nhân dân. Tuy nhiên, do tâm lý ngời dân vẫn tin tởng vào các ngân hàng quốc doanh hơn nên hệ thống ngân hàng thơng mại quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn huy động từ dân c. Tốc độ tăng vốn huy động của các ngân hàng này đạt 18% - 19% trong năm 1999 so với năm 1998, một tốc độ tăng nhanh nhất trong thời gian trở lại đây. Bên cạnh những kênh huy động trực tiếp truyền thống đó, chính phủ cũng đã hình thành những kênh huy động mới rất có triển vọng nh phát hành trái phiếu Kho bạc Nhà nớc hay cho phép một số tổng công ty huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ( ví dụ, Tổng công ty Vàng bạc Đá quý Việt Nam đã huy động kỳ phiếu bằng
  17. vàng đạt kết quả tốt ). Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong năm 1999, kể cả khối lợng trái phiếu do Kho bạc Nhà nớc trực tiếp bán lẻ và khối lợng công trái mà ngời dân mua thì tổng giá trị của hai loại này chỉ mới bằng 50% khối lợng trái phiếu Kho bạc Nhà nớc bán lẻ trong năm 1998, lại diễn ra không thờng xuyên, nên kênh huy động vốn qua các hình thức phát hành công trái, trái phiếu này trong những năm gần đây cha phải là kênh chủ lực, mà gửi tiền vào ngân hàng vẫn là hình thức chính, ngoài việc cất trữ tài sản, hàng hoá của ngời dân. Từ tháng 11 năm 1998, Tổng cục Bu điện đã khai thác dịch vụ tiết kiệm qua Bu điện. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia nh Đài Loan, Nhật Bản cho thấy đây là một kênh huy động vốn rất quan trọng, bởi đặc thù ngành Bu điện là có chi nhánh vơn ra khắp mọi miền đất nớc, vì thế chi phí huy động vốn của ngành sẽ thấp hơn rất nhiều so với những kênh huy động truyền thống khác. Trong thời gian sau đại chiến Thế giới Lần thứ 2, chính tiết kiệm qua Bu điện là kênh huy động vốn dân c quan trọng nhất, góp phần làm nên sự thần kỳ của Nhật Bản. Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, phong phú với công nghệ tiên tiến. Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã mở ra nhiều hình thức thu hút tiền gửi của ngời dân nh cho phép gửi tiền một nơi và rút tiền nhiều nơi, phát hành thẻ điện tử, séc cá nhân để thanh toán thay cho việc phải sử dụng tiền mặt, huy động cả tiền gửi bằng đồng nội tệ và ngoại tệ, ngời dân có thể mở tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ và đợc rút ra bằng ngoại tệ . . . Tháng 4 năm 1998, lần đầu tiên, ngân hàng đã thí điểm cho ra đời hình thức “ trái phiếu Ngân hàng trung ơng và dài hạn “, đã thu đợc kết quả khả quan. Chỉ sau 25 ngày đã huy động đợc 1.100 tỷ đồng, vợt kế hoạch 100 tỷ. Cùng với việc đa dạng hoá hình thức huy động, ngành ngân hàng cũng đã có nhiều cải tiến về thủ tục gửi và rút tiền, từng bớc máy tính hoá các công đoạn khác nhau trong nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo nhanh, gọn, chính xác, đa dạng hoá các hình thức phục vụ nh giúp gửi tiền và chi trả tại nhà . . . Nhờ đó, uy tín của ngành đã đợc nâng cao. Chính sách huy động luôn đảm bảo lãi suất thực dơng cho ngời gửi tiền. Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nớc đã có chính sách lãi suất tích cực, đảm bảo lãi suất thực luôn dơng để tạo tâm lý yên tâm cho ngời gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền vào ngân hàng. Điều này có thể đợc chứng tỏ qua bảng sau:
  18. Tiền tiết kiệm, theo hình thức tiết kiệm của khu vực thành thị - nông thôn ( Đơn vị: phần trăm ) Khu vực Chung Thành thị Nông thôn Tổng số 100 100 100 Sổ tiết kiệm ngân hàng quốc doanh 14.2 17.8 9.31 Sổ tiết kiệm các ngân hàng khác, 4.29 7.1 0.46 HTX tín dụng, tín phiếu, kỳ phiếu Đôla Mỹ và ngoại tệ khác 2.26 3.83 0.13 Cổ phiếu, cổ phần, góp họ 3.2 3.09 3.35 Tiền mặt 26.27 23.71 29.76 Vàng, bạc, kim loại quý và đá quý khác 28.82 26.35 32.17 Đồ trang sức 18.65 15.84 22.46 Thóc gạo, sản phẩm cây trồng khác 0.22 0.06 0.44 Các hình thức khác 2.09 2.22 1.92 Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc. 2.3.2. Về mặt cha đợc Tiềm lực vốn trong dân còn lớn, mà ngân hàng và các tổ chức tài chính cha huy động đợc. Nh đã sơ bộ ớc tính ở trên, tỷ lệ vốn nhàn rỗi của dân c đợc huy động qua hệ thống ngân hàng và các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của chính phủ vẫn còn rất khiêm tốn ( chiếm cha đến 20% tổng mức tiết kiệm của dân c ). Đó là cha kể một lợng kiều hối khá lớn hàng năm vẫn đợc kiều bào ta ở nớc ngoài gửi về cho thân nhân trong nớc. Theo một ớc tính không chính thức, con số này hàng năm có thể lên tới 1 tỷ đôla, trong đó lợng kiều hối chuyển về nớc năm 1999 đã tăng từ 1,5 đến 1,8 lần so với năm 1988. Vốn dân c huy động đợc chủ yếu là vốn ngắn hạn. Năm 1996, trong tổng số d tiền gửi tiết kiệm trị giá 7.500 tỷ đồng thì có đến 90% là tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn.
  19. Còn theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới ớc tính thì trong tổng tiền gửi tiết kiệm, trung bình có đến 70% - 80% là loại tiết kiệm ngắn hạn ( dới 1 năm ) và không thời hạn. Các trung gian tài chính còn gặp khó khăn và một số hình thức huy động cha phát huy đợc hiệu quả. Nh đã phân tích ở phần trên, muốn thu hút đợc vốn nhàn rỗi trong dân c, không những ngân hàng cần có một chính sách huy động tiền gửi hấp dẫn, mà cần có khả năng cho vay đợc. Tuy vậy, một hiện tợng nổi cộm trong thời gian qua là nhiều lúc ngân hàng gặp tình trạng “ ứ đọng vốn “ không cho vay đợc. Điều đó đã khiến nhiều ngân hàng thơng mại và tổ choc tín dụng phải xử lý bằng cách dùng vốn ứ đọng mua lại công trái mà nhân dân bán ra để hởng chênh lệch về lãi suất. Thực tế này đã làm mất tác dụng thực sự của công trái xây dựng đất nớc, còn vốn dân c vẫn không huy động đợc thêm vào các kênh tín dụng chính thức của đất nớc. 2.3.3. Nguyên nhân của những mặt cha đợc Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Có những nguyên nhân mang tính khách quan, và có nhiều nguyên nhân mang tính chủ quan về mặt cơ chế, chính sách, môi trờng đầu t cũng nh những yếu kém của bản thân hệ thống ngân hàng. Về nguyên nhân khách quan - Trình độ phát triển của đất nớc và mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế còn thấp. Mặc dù 10 năm qua, nớc ta đã có những bớc phát triển mạnh mẽ nhng nhìn tổng thể, chúng ta cha thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Thu nhập quốc dân tính theo đầu ngời còn thấp, tỷ lệ đói nghèo cao và nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. Ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa vẫn còn tình trạng trao đổi bằng hiện vật. Còn phổ biến là ngời dân vẫn còn thói quen trao giao dịch chính bằng tiền mặt. Những phơng tiện thanh toán hiện đại nh séc, thẻ điện tử vẫn còn xa lạ. Điều này đã hạn chế tốc độ chu chuyển tiền tệ trong lu thông, gây tâm lý thích dự trữ tiền mặt trong dân c thay vì gửi vào ngân hàng hay các tổ chức tín dụng. - Cơ cấu sản xuất kém hiệu quả, không đủ sức cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân này có thể gây ra nhiều hậu quả khác nhau, nhng chủ yếu là sức sản xuất yếu kém, mức
  20. lợi nhuận thấp đã không khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu t, gây ra tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng không cho vay đợc. - Việt Nam cha có thị trờng chứng khoán, và các hình thức trung gian tài chính phi ngân hàng cha phát triển. Đây là những kênh quan trọng để ngời có nhu cầu vay hoặc đầu t vốn nhàn rỗi của mình gặp gỡ nhau, tránh đợc những thủ tục phiền hà gây chi phí giao dịch lớn. Thiếu vắng một thị trờng và những tổ chức tài chính nh vậy, ngời dân mất đi những cơ hội có thể trực tiếp bỏ tiền đầu t vào những dự án hay doanh nghiệp có triển vọng. - Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng đã góp phần làm các doanh nghiệp điêu đứng, không còn khả năng sinh lời, chứ cha nói gì đến việc đầu t mở rộng sản xuất. Tính đến cuối năm 1997, nợ quá hạn đã lên đến 12,3% tổng tín dụng so với 6% năm 1994. Con số này trong năm 1998 còn cao hơn nữa, đạt 13%. - Một lý do không kém phần quan trọng là cơ hội đầu t của dân c rất thấp, sức mua thấp nên khả năng phát triển khó khăn. Về nguyên nhân chủ quan - Chất lợng hệ thống tài chính ngân hàng của nớc ta còn thấp, cha theo kịp yêu cầu hiện đại hoá, do đó đã gây nhiều phiền toái cho nhân dân trong việc gửi và rút tiền. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển mạng lới thu hút vốn nhàn rỗi của dân c, nhng so với yêu cầu của một số quốc gia hơn 75 triệu dân hiện nay thì con số đó còn thấp cả về số lợng và chất lợng. Theo Ngân hàng Thế giới đánh giá thì nớc ta, bình quân 30.000 ngời có một chi nhánh ngân hàng phục vụ, trong khi con số này ở Indonesia là 22.000, ở Thái Lan là 12.000, ở Hàn Quốc và Đài Loan là 5.500 ngời và ở Nhật Bản là 2.200 ngời. Chất lợng của hệ thống ngân hàng cũng còn rất yếu kém. Mức độ tin học hoá cha cao, trình độ của cán bộ ngân hàng còn non kém, nhất là trong khâu thẩm định, đánh giá và quản lý vốn vay. Vì thế, nhiều ngân hàng đã để thất thoát khối lợng vốn rất lớn của Nhà nớc, gây mất uy tín cho hệ thống ngân hàng nói chung. Sau những tình huống nh vậy, ngân hàng lại có xu hớng chuyển sang một thái cực khác là thắt chặt quá mức việc cho vay, khiến nhiều dự án có khả năng sinh lời cũng không thể tiếp cận đợc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2