intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: AFTA và tác động của nó đến Việt Nam

Chia sẻ: Phan Lê Kim Minh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:20

127
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: AFTA và tác động của nó đến Việt Nam với mục tiêu chính là thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: AFTA và tác động của nó đến Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN: SƯ PHẠM LỊCH SỬ ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN SV: PHAN LÊ KIM MINH LỚP: DH19SU MSSV: DSU180344 GVHD: LÊ THANH TÙNG
  2. An Giang, ngày 23 tháng 10 năm 2021 PHẦN I: TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ AFTA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM I­ GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ AFTA 1. Quá trình hình thành AFTA ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế  tăng trưởng với   tốc độ  nhanh nhất thế  giới (tốc độ  tăng trưởng kinh tế  của ASEAN giai   đoạn 1981­1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của   thế  giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ  lực hợp tác kinh tế  của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các   kế hoạch hợp tác kinh tế  như:  ­     Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA). ­  Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP). ­    Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ  trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). ­  Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong   thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả  năng ảnh hưỏng đến đầu tư  trong khối.  1.1. Sự ra đời của AFTA  Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi  trong môi trường chính trị, kinh tế  quốc tế  và khu vực đã đặt kinh tế  các  nước ASEAN đứng   trước những thách thức lớn không dễ  vượt qua nếu  không có sự  liên kết chặt chẽ  hơn và những nỗ  lực chung của toàn Hiệp  hội, những thách thức đó là :
  3. ­ Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh   mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ  nghĩa bảo hộ  truyền thống  trong ASEAN dần mất đi sự   ủng hộ  của các nhà hoạch định chính   sách   trong nước cũng như quốc tế.  ­ Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt   như  EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở  ngại  cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này. ­ Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu  đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh  về  tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực   của các nước Trung Quốc,  Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư  hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở  rộng về  thành viên,  vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để  đối phó với những thách thức trên, tháng 01/1992 , theo sáng kiến   của Thái Lan,  Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV họp tại Singapo   đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự  do ASEAN (ASEAN   Free Trade Area, gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác   kinh tế ASEAN ở một tầm mới. 1.2. Mục tiêu của AFTA AFTA  đưa ra  nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: ­ Tự do hoá thương mại  trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào  thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.  Điều này sẽ  khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải  có hiệu quả  và   khả  năng cạnh tranh hơn trên thị  trường thế  giới. Đồng  thời, người tiêu dùng  sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất  
  4. có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương   mại nội khối. ­ Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một   khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. ­ Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế  quốc tế  đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại   khu vực (RTA) trên thế giới.  2. Nội dung cơ bản của AFTA Theo kế  hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với  mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một  cơ sở  quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy nhiên,   trước sự  phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ  của các liên kết kinh tế  toàn  cầu khác, cũng như  do sự  tiến bộ  của chính các quốc gia ASEAN, năm  1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003. Sau đó, từ  năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành   viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.  Cơ  chế  chính để  thực hiện AFTA là Hiệp định thuế  quan  ưu đãi có  hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff ­ CEPT). Về  thực   chất, CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về  việc  giảm thuế  quan trong nội bộ  khối xuống còn 0­5% thông qua những kế  hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi   cuối cùng, các nước thành viên sẽ  tiến hành xóa bỏ  các hạn ngạch nhập   khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác. Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là: Với  Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003; Với  
  5. Việt Nam: từ  1996 đến 2006; Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ  1998  đến 2008. * Để  thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải   phân loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau: Danh   mục giảm thuế (IL); Danh mục loại trừ tạm thời (TEL); Danh mục loại trừ  hoàn toàn (GEL); Danh mục nhạy cảm (SL); Danh mục nhạy cảm cao. ­ Danh mục giảm thuế  (IL): bao gồm những mặt hàng sẽ  được cắt  giảm thuế  quan để  đến khi hoàn thành CEPT sẽ  có thuế  suất 0­5%. Ngay   sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để  bắt đầu  giảm thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong   IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng trước khi đưa   vào IL đã có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%. ­ Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): bao gồm những mặt hàng chưa   đưa vào giảm thuế  quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành  thêm   thời   gian   để   điều   chỉnh   sản   xuất   trong   nước   thích   nghi   với   môi  trường cạnh tranh quốc tế. Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu  chuyển dần các mặt hàng từ  TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế  quan  đối với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ  TEL sang IL được phép  kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó  có nghĩa là đến hết năm thứ  tám thì IL đã mở  rộng bao trùm toàn bộ  TEL,  và TEL không còn tồn tại. Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng  thời phải chỉ  ra lịch trình giảm thuế  quan của mặt hàng đó cho đến khi   hoàn thành CEPT. Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm 50   mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996, nước A phải  bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1996,  
  6. IL của nước này có 50 + (100*20%) = 70 mặt hàng và TEL giảm đi còn 100  ­ (100*20%) = 80 mặt hàng. Năm 1997, IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm  tiếp sau đó, các con số tương  ứng sẽ  là 110/40, 130/20 và 150/0. Đến năm   2000, IL của nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt  hàng nào nữa. ­ Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): bao gồm những mặt hàng không  có nghĩa vụ  phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền  đưa ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức  xã hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị  văn   hóa, lịch sử, khảo cổ... GEL không phải là danh mục các mặt hàng Chính  phủ cấm nhập khẩu. Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được nhập khẩu   bình thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng trong  danh mục giảm thuế. ­ Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế  biến nhạy cảm (SL):  bao gồm 26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu   thuế  nhập khẩu và là những mặt hàng cụ  thể  như: thịt, trứng gia cầm,  động vật sống, thóc, gạo lứt,..., được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ  cao của sản xuất trong nước đối với một số  mặt hàng nông sản chưa chế  biến và theo đề  nghị  của Bộ  Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng  thời trên cơ  sở  tham khảo danh mục này của các nước ASEAN khác. Các  mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý  theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành. Ngoài cơ  chế  này, để  hiện thực hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký  kết hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng  hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ  hàng hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ 
  7. quyền sở  hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư  ASEAN (ASEAN Investment Area ­ AIA). II­ QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA VIỆT NAM Ngày 28/07/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của  ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt  Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham  gia AFTA từ ngày 01/01/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện   CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0­5%. Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện  AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng  (chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được  vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới   20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002­2006. Trong số đó, 65% đã   ở mức thuế 0­5%. Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức  thuế suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang  là nước có mức thuế  suất trung bình thấp thứ  3 ASEAN, sau Singapore và  Brunei. Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp  dụng   chính   thức   tại   Việt   Nam   từ   ngày   01/01/2003.   Tuy   nhiên,   ngày  10/01/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện   lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7. Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được   chuyển sang IL. Đa số  đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ  với  mức thuế suất rất cao (30­100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch   như xi măng, giấy, hàng điện tử, điện gia dụng,… III­ TÁC ĐỘNG CỦA AFTA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
  8. 1.  Những   cơ   hội   và   thách   thức   chung   khi   Việt   Nam   gia   nhập   AFTA: 1.1. Thuận lợi: ­ Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ  được hưởng thuế  suất ưu đãi  thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành  cho các nước thành viên WTO, từ  đó có điều kiện thuận lợi hơn để  hàng  hoá Việt nam có thể  thâm nhập thị  trường của tất cả các nước thành viên  ASEAN. ­ Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong  nội bộ khối, khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán  thương   mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như  các tổ  chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU hay WTO… ­ Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có  nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như  VN có thế  mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta   cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ  các nước ASEAN với giá thấp  hơn từ các khu vực khác trên thế giới. ­ Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả  năng cạnh tranh  so với các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được   hưởng lợi do giá cả  rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn. ­ Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử  dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực 1.2. Khó khăn: ­ Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về  thuế  xuất   nhập khẩu giảm. ­ Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan   thuế, nghĩa là xoá bỏ  sự  bảo hộ  của chính phủ  đối với các doanh nghiệp, 
  9. buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự  vào cuộc chới cạnh tranh  khốc liệt trên thị trường khu vực: cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển,   nhưng đồng thời có thể  làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh  nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành; dẫn tới việc thay đổi cơ  cấu kinh tế.   Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam. Như vậy có thể nói, gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho  nền kinh tế  và các doanh nghiệp VN  để  chuẩn bị  cho sự  gia nhập thị  trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn. 2. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như  những tác động có thể  có  của nó đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ  thể và tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể có những tác  động trên các mặt chính sau: 2.1. Thương mại   ập khẩu:   a) Nh Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm  khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng  cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã   có thuế  suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có  tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng này. Ngoài ra, một số  hàng NK có kim ngạch đáng kể   ở  Việt Nam như  xăng dầu, xe máy... chưa  được  đưa vào danh sách giảm thuế  ngay nên  trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA. Về  lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ  danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay,   và loại trừ  dần các hàng rào phi thuế  quan (nhất là những hạn chế  về  số  lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể  NK, nhất là những mặt hàng tiêu 
  10. dùng từ  các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ  tăng lên nếu những mặt hàng  cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh được. b) Xuất khẩu: * Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác: Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh   của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại   bỏ các hàng rào phi thuế quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm  tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang các nước này không  lớn do các nguyên nhân sau: ­ Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu: Những năm   gần  đây,  ASEAN  thường  chiếm khoảng  20­23%  kim   ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những   mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch  XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt  Nam năm 2001. Và mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước  ASEAN khác cũng không lớn. Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và   ASEAN khá tương đồng. Với trình độ thấp hơn,Việt Nam chỉ có thể cạnh  tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã, do  đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác. ­ Xét về bạn hàng: 2/3 doanh số  buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện  với Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ  được tái  xuất sang các nước khác. Nhưng  ở  nước này, hệ  thống thuế  xuất nhập   khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như  bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện   CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của  Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt   Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
  11. Có   thể   kết   luận   rằng:   Chỉ   khi   nào   Việt   Nam   tạo   được   sự   dịch   chuyển cơ  cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại   hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT,   các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về  yếu tố  giá cả  khi   muốn XK sang ASEAN. * Xuất khẩu sang các nước ngoài ASEAN: Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của   Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản   xuất XK với giá rẻ  hơn từ  các nước ASEAN. Mặt khác, với tư  cách một   thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện để  khai thác những lợi thế  mới trong quan hệ thương mại với nước lớn. Ví dụ: Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập   của  Mỹ  (General System of Preference ­ GSP). Bởi GSP quy định "giá trị  một sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của một hiệp hội   kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì được coi là sản phẩm  của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu "giá trị  nguyên liệu NK để  sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị  sản phẩm sau  khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ".  Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các  nước thành viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được  hưởng GSP nếu giá trị  nguyên liệu dưới 65% giá trị  sản phẩm. Và do đó,   AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và thâm nhập thị  trường Mỹ  ­  đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm. Tuy vậy, như  trên đã nói, cơ  cấu sản phẩm của các nước ASEAN   xuất ra thị  trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ  cũng  được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp 
  12. tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong  hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực. Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ  chức  Hợp tác Kinh tế  châu Á ­ Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/1998 là  những sự chứng minh, là bước chuẩn bị, tập dượt để gia nhập WTO. 2.2. Đầu tư nước ngoài * Đầu tư từ các nước ASEAN: AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo  hướng hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số  ngành công nghiệp của   một số  nước sẽ  bộc lộ  sự  thua kém về  khả  năng cạnh tranh, để  tồn tại,   hoặc để  thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh doanh trong những  ngành này sẽ  đầu tư  sang các nước ASEAN khác có các yếu tố  thuận lợi   hơn, trong đó có Việt Nam.  Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA),   các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ  có nhiều thuận lợi về  thủ  tục hành chính và tâm lý khi đầu tư  vào Việt  Nam. * Đầu tư nước ngoài từ các nước khác ngoài ASEAN: Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư  từ  ngoài khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư  có thể sản xuất hàng hóa tại một  hay một số  nước và đưa ra tiêu thụ  ở  tất cả các nước thành viên với mức  thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước  ngoài đầu tư  vào một nước, họ  sẽ  có một thị  trường tiềm năng rộng lớn  hơn nhiều lần nước đó. Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư  nước ngoài khi đầu tư  vào Việt Nam, họ  sẽ  không chỉ  nghĩ đến một thị 
  13. trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500   triệu người. Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem   xét để đi đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ  mất đi ý nghĩa thu hút đầu  tư  nước ngoài nếu không đi kèm với sự  ổn định chính trị, xã hội, luật đầu   tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao... Có  thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành   AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư  nước ngoài như  Sony, Matsushita... đã  và đang rời bỏ  nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo  ngại và thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất  ổn quyền   lực và tham nhũng... Đó cũng thách thức chung cho tất cả  các thành viên  của AFTA. Vì nếu như  trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là   thành viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế NK  vào thị  trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư  nước ngoài buộc   phải đầu tư  tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA,  nếu môi trường đầu tư  vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư  Việt Nam, các nhà  đầu tư  nước ngoài có  thể  sẽ   đầu tư  vào các nước   ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ  cần mở  rộng hoặc tăng thêm công   suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA, đặc biệt là đối với các  dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ  đó bán hàng sang Việt Nam. Như  vậy, để  tận dụng được những cơ  hội thu hút đầu tư  từ  các   nước khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một   cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư. 2.3. Công nghiệp: Về  lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên   không còn được bảo hộ, AFTA sẽ  làm thay đổi cơ  cấu công nghiệp khu 
  14. vực theo hướng chuyên môn hóa và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý  hơn. Nhưng đây là sự  thay đổi và phân bổ  mang tính động và phụ  thuộc  chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của từng nước. Singapore sẽ  đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị vận tải và linh kiện   điện tử, trong khi đó sẽ  bỏ  ngỏ  các ngành cần nhiều lao động và khoáng   sản. Malaysia thì có sự sắp xếp ngược lại. Các ngành công nghiệp sử dụng  nhiều lao động và nguyên liệu như  công nghiệp giấy, chế  biến gỗ, may  mặc và dệt sẽ  tăng nhanh. Trong khi đó, các ngành thiết bị  vận tải, hóa   chất, đồ  gỗ, thực phẩm đã qua chế  biến sẽ  giảm mạnh. Cũng giống như  tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu  công nghiệp của Việt Nam. Trong đó, một số  ngành sẽ  phát triển, một số  ngành sẽ  bị  thu hẹp. Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và   thời gian để chuẩn bị và vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì: ­ Thứ  nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối  với Việt Nam được cộng thêm 3 năm. ­ Thứ  hai, cũng như  các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần  phải đưa ngay một lúc tất cả  các danh mục hàng hóa vào chương trình   giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ  trọng NK cao và có khối lượng giá   trị  tiêu thụ  lớn trên thị  trường nội địa có thể  sẽ  đưa vào giảm thuế  chậm  hơn. ­ Thứ  ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi   thuế quan (nếu có đối với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ. ­ Thứ  tư, việc cắt giảm thuế  NK đối với một số  nguyên liệu, sản  phẩm đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao  khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp. Vấn đề  đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như  các  nhà kinh doanh là làm thế nào để tận dụng được những cơ hội và thời gian  
  15. một cách có hiệu quả, định hướng cơ  cấu công nghiệp và mặt hàng kinh  doanh như thế nào để  có thể phát huy được lợi thế  so sánh của Việt Nam  trong phân công lao động khu vực. Trên cơ  sở  định hướng phát triển công  nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi và   đầu tư  thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ  hợp lý trong   thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh  không những trên thị  trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế  giới. Tuy nhiên, mọi sự  bảo hộ  của Nhà nước đều có giới hạn. Để  đứng  vững và phát triển, các doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên cứu nhu   cầu thị  trường trong nước và khu vực, khả  năng cạnh tranh của các nước  ASEAN trong cùng lĩnh vực để  kịp thời điều chỉnh cơ  cấu sản xuất, đổi  mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng lực quản lý khi sự  bảo hộ  không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam về cơ bản   sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2005. 2.4. Ngân sách nhà nước: Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo   CEPT chắc chắn sẽ  tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong  giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự  cắt giảm thuế  quan. Theo số  liệu   những năm trước đây, NK từ các nước ASEAN chiếm khoảng 20­23% kim   ngạch NK của Việt Nam, trong khi đó, thuế  NK (trừ  dầu thô) đóng góp  khoảng 25% tổng số  thu ngân sách. Như  vậy, về  mặt số  học đơn thuần,  khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm. Về  dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả  sản xuất trong nước. Như  vậy, cơ sở để tính toán rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực   hiện CEPT sẽ  được bù lại bằng tăng thu do kim ngạch buôn bán tăng và  tăng thu từ  các loại thuế  khác như  thuế  giá trị  gia tăng, thuế  tiêu thụ  đặc   biệt, thuế  thu nhập công ty... Tuy nhiên, đây cũng chỉ  là lý thuyết, thực tế 
  16. còn phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất trong nước, hiệu quả của hệ  thống thuế và bộ máy thu thuế. IV­ KẾT LUẬN Tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt  Nam trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra  cho Việt Nam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội   và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để  khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu  cực do các thách thức đưa đến. Ông Lê Đăng Doanh, chuyên viên cao cấp, cố vấn Bộ trưởng Bộ Kế  hoạch ­   Đầu tư, đã từng ví von: "Khu vực thương mại tự  do ASEAN   (AFTA) là một cái sân tập. Còn Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sân   thi đấu. Không có sân tập để  luyện rèn, không ai có thể  thi đấu tốt". Do   vậy, chúng ta không nên coi việc thực hiện AFTA như  một quá trình hay   hành động riêng biệt, mà phải đặt nó trong lộ  trình hội nhập và tự  do hóa   thương mại  tổng thể, trong  đó, mục tiêu nhất quán  được xác  định bởi   khuôn khổ  WTO. Có  như  vậy, những thuận lợi mà AFTA đem lại cho   chúng ta mới được tận dụng một cách hiệu quả nhất, giúp đưa nền kinh tế  Việt Nam vươn lên tầm châu lục.
  17. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009. 2. “Tài liệu giới thiệu tổng quan AFTA”, Vụ  Quan hệ  quốc tế ­ Bộ  Tài   chính, năm 2000. 3. Một số trang web: ­  http://vietbao.vn/The­gioi/Tac­dong­cua­afta­doi­voi­nen­kinh­te­viet­ nam/20020350/162/ ­ http://www.nciec.gov.vn/index.nciec?1351 ­ http://tim.vietbao.vn/afta/ ­ http://vietbao.vn/Van­hoa/Tong­luan/40166335/184/ ­ http://www.baomoi.com/Info/Thuc­hien­AFTA­vao­ngay­ 112010/122/3396863.epi
  18. PHẦN II: CÂU HỎI PHỤ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP BẢN THÂN  VÀ KIẾN NGHỊ MÔN HỌC I­ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP BẢN THÂN Trong   vòng   10   năm   nữa,   em   muốn   trở   thành   Giám   đốc   PR   của  Unilever. Đây là mục tiêu mà em mới đề ra trong thời gian gần đây. Khi còn  học trên ghế  nhà trường, em đã từng mong muốn trở  thành một nữ  doanh  nhân thành công, tự mình mở  một doanh nghiệp và kinh doanh. Nhưng sau   này, em thấy rằng mình không có khả  năng trong kinh doanh và cũng sẽ  không có đủ can đảm để tự mình mở  một công ty riêng. Do vậy em quyết   định sẽ  phấn đấu trở  thành một người làm trong ngành PR, để  quảng bá  cho sản phẩm cũng như hình ảnh của một công ty nào đó. Những điều em sẽ làm để thực hiện mục tiêu: ­ Phải là một nhân viên PR giỏi trong vòng ít nhất 5 năm tới. ­ Trau dồi kiến thức mỗi ngày để  có hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh   vực. Tất cả những gì học được bây giờ sẽ giúp ích rất nhiều cho mình sau  này. ­ Rèn luyện khả năng thuyết trình và khả  năng viết. Đây là những kỹ  năng cần thiết để  trở  thành một nhân viên PR. Muốn làm được điều này,  trước hết phải học thật tốt môn Presenting in English và Writing. Ngoài ra,  phải rèn luyện cách ứng xử của bản thân hàng ngày, cần phải xử sự điềm   tĩnh, lịch sự và luôn tạo cảm giác thoải mái cho người đối diện. ­ Kinh nghiệm là một điều rất quan trọng khi đi xin việc. Do vậy trong   năm nay, em sẽ  kiếm một công việc làm thêm, vừa làm vừa tiếp thu kinh   nghiệm giao tiếp và viết lách.
  19. ­ Sau khi tốt nghiệp trường Ngoại thương, em sẽ  học thêm để  lấy  một  tấm bằng thuộc chuyên ngành truyền thông. Sau đó em sẽ  đi làm và  học tiếp lên Thạc sỹ về truyền thông. ­ Trước khi ứng cử để trở thành một giám đốc PR cho Unilever, em sẽ  đi làm  ở  một số  nơi để  lấy kinh nghiệm, rồi sau đó xin vào Unilever làm  nhân viên. Với những hiểu biết trong lĩnh vực kinh tế cũng như  trong lĩnh  vực truyền thông, cộng với sự  tự  tin của bản thân, em tin mình sẽ  trúng  tuyển. Trong quá trình làm việc, với hiểu biết của mình, em sẽ  cố  gắng   hoàn thành tốt những việc được đề ra. Có một nguyên tắc khi làm việc đó   là không được “đứng núi này, trông núi nọ”, do vậy, em sẽ bám trụ và phấn   đấu làm việc hết mình cho Unilever. Nếu có cơ hội, em sẽ ra nước ngoài tu   nghiệp để  học hỏi thêm. Trong thời gian làm việc, em tin với những gì  mình cống hiến, cơ hội thăng tiến của em là hoàn toàn có thể xảy ra.  Tuy vậy, với phái nữ, công việc không phải là điều quan trọng duy   nhất. Bên cạnh công việc còn có gia đình. Vì thế, ngoài việc phấn đấu cho   ước mơ của mình, em cũng sẽ phấn đấu trở thành một người phụ nữ giỏi   trong gia đình.  II­ KIẾN NGHỊ MÔN HỌC ­ Về  nội dung giảng dạy: Do bọn em học theo tín chỉ  nên chỉ  có 45  tiết trên lớp. Với thời lượng như  vậy thì việc học hết cả  một quyển giáo   trình to như bây giờ  là hoàn toàn không thể. Do vậy em nghĩ, môn này nên  được giảm tải và có một quyển giáo trình ngắn gọn hơn. ­ Về hình thức giảng dạy: Thầy nên kết hợp sử dụng thêm slide, để  bọn em có thể  nắm được ý chính của bài tốt hơn. Trong những buổi học,   thầy nên phát huy việc kể những câu chuyện gắn với nội dung học tập để  bọn em tiếp thu bài dễ hơn.
  20. ­ Trong một số giờ dạy, thầy có thể giao cho bọn em một đề tài nào  đó rồi lên thuyết trình, hoặc giảng thay thầy về nội dung đó trong tiết học. ­ Nội dung môn học rất rộng nên cần có một buổi ôn tập, củng cố  kiến thức. ­ Do số  tiết học rất ít nên bài kiểm tra giữa kỳ, thầy có thể  cho về  nhà làm, hoặc nếu có làm trên lớp thì cũng được phép sử dụng tài liệu.  Em xin chân thành cảm ơn!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1