intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Cho vay Doanh nghiệp

Chia sẻ: Hgnvh Hgnvh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

61
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Cho vay Doanh nghiệp nêu lý thuyết về cho vay doanh nghiệp. Cho vay doanh nghiệp là một hình thức mà tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho doanh nghiệp để thực hiện sản xuất kinh doanh trong một thời hạn nhất định theo như thỏa thuận trong hợp đồng, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Cho vay Doanh nghiệp

  1. Cho vay Doanh nghiệp Tiểu luận CHO VAY DOANH NGHIỆP Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 1
  2. Cho vay Doanh nghiệp Chương I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY DOANH NGHIỆP 1. KHÁI NIỆM CHO VAY DOANH NGHIỆP : Cho vay doanh nghiệp là một hình thức mà tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho doanh nghiệp để thực hiện sản xuất kinh doanh trong một thời hạn nhất định theo như thỏa thuận trong hợp đồng, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi Thời hạn cho vay tính từ lúc doanh nghiệp nhận được số tiền vay cho đến thời đ iểm doanh nghiệp trả hết cả nợ gốc lẫn lãi. Điều 8 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN nêu rõ : Cho vay doanh nghiệp bao gồm các hình thức cho vay ngắn hạn (thời hạn vay thấp hơn 1 năm), trung hạn (thời hạn vay từ 1 năm đến 5 năm), và dài hạn (thời hạn vay lớn hơn 5 năm) Cho vay doanh nghiệp là loại hình cho vay có tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của đại đa số các ngân hàng 2. NGUYÊN TẮC VAY VỐ N : Doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo 2 nguyên tắc :  Phải hoàn trả cả nợ gốc lẫn lãi theo đúng thời hạn đã thỏa thuận  Sử dụng vốn vay đúng mục đích vay ban đầu 3. ĐIỀU KI ỆN VAY VỐN : Nhìn chung, doanh nghiệp muốn vay được vay vốn phải chứng minh được khả năng tài chính của mình, chứng minh được tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, có tài sản thế chấp hoặc được một tổ chức khác đứng ra bảo lãnh. Tùy theo điều kiện thực tế của mình mà các tổ chức tín dụng, các ngân hàng có thể đặt ra những qui định về cho vay doanh nghiệp khác nhau Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 2
  3. Cho vay Doanh nghiệp 4. NHỮNG HẠN CHẾ CHO VAY : Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN qui định rõ những giới hạn vay sau :  Mức lãi suất áp dụng đố i v ới khoản n ợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định vầ thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng  Tổng dư nợ cho vay đối v ới một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có cuả tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định tại Khoản 1 điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể  Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các trường hợp sau đây : + Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc) (phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; + Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay; + Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)  Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đôi tượng sau đây: + Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay; + Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng; + Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điểu 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó  Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định ở điểm trên không được vượt qúa 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 3
  4. Cho vay Doanh nghiệp 5. CÁC HÌNH THỨC CHO VAY DOANH NGHI ỆP : Nhìn chung, hiện nay thường có các hình thức cho vay sau :  Cho vay từng lần : Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng  Cho vay theo hạn mức tín dụng : Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất đình  Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn dự phòng trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.  Cho vay theo dự án đầu tư : Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống  Cho vay hợp vốn : Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.  Cho vay trả góp; Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác đ ịnh và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.  Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng : Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng  Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán Ngoài ra, tùy theo điều kiện riêng của mình mà các tổ chức tín dụng, các ngân hàng có thể thực hiên thêm những hình thức cho vay đa dạng khác Chương 2 : Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 4
  5. Cho vay Doanh nghiệp THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHO VAY KÍCH CẦU DOANH NGHIỆP NĂM 2008 1. GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ CHO VAY : 1.1 Khó khăn chung của nền kinh tế : Những tháng đầu năm 2008, thế giới phải đương đầu với nguy cơ khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực. Giá cả hầu hết các mặt hàng tăng cao, đặc biệt là lương thực và dầu mỏ, gây ra lạm phát chi phí đẩy trên phạm vi toàn thế giới Chính tình hình thế giới cộng với những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế đã khiến nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khó khăn Liên tục “vọt” cao trong nửa đầu của năm rồi lại về âm vào những tháng cuối năm, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2008 tạo thành hai nỗi lo “trái dấu”: lạm phát (+) và suy giảm (-). Trong khoảng 8 tháng đầu năm, biểu đồ CPI tạo thành những đường dốc đứng, trồi lên, sụt xuống kế tiếp nhau. Nhịp đ iệu tăng CPI tạo thành những đợt sóng, vượt lên một tháng lại giảm tốc hai tháng mà đỉnh của những “con sóng” CPI rơi vào các tháng 2, 5 và 8. Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 với mức tăng “ấn tượng” 2,38%, đã báo hiệu một năm đầy sóng gió với lạm phát cao. Nỗi lo lạm phát thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2, thời đ iểm Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá t iêu dùng tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với tháng trước. Ở đỉnh “sóng” CPI thứ nhất, mặt hàng gạo có ảnh hưởng khá lớn. Chỉ trong một thời gian ngắn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mạnh mẽ, gây hiện tượng tư thương tranh mua và đẩy giá lên cao. Dù xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới và lượng tồn kho đủ tiêu dùng trong nước, nhưng nạn đầu cơ, tung tin sai lệch đã thắng thế hệ thống phân phối yếu, khiến gạo tại thị trường Việt Nam bị “làm giá”. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 5
  6. Cho vay Doanh nghiệp hai đã tăng 3,2%, riêng lương thực tăng tới 3,7%. Quyền số trên 42% của nhóm này đã tác động mạnh đến chỉ số giá. Tương ứng với ba vòng tác động: trực tiếp, gián tiếp và lan tỏa, CPI đã kéo dài ảnh hưởng lên hai tháng 3 và 4 sau đó, dù có thể hiện sự giảm tốc. Ba tháng này đã hoàn thành một chu kỳ với CPI tháng Ba tăng 2,99%; tháng Tư khiêm tốn hơn với mức 2,2%. Với “đợt sóng” kế tiếp, đỉnh sóng cao hơn, nhưng sức lan tỏa lại kém mạnh mẽ. Ở mức tăng cao nhất, tháng Năm đạt đỉnh tăng của năm 2008 và “soán ngôi” của tháng Hai với 3,91%. Trong khi đó, tháng Sáu tăng 2,14% và tháng Bảy còn 1,13%. Ở chu kỳ tăng giá này, tại nhiều thời điểm, lương thực là nguyên nhân duy nhất tác động đến chỉ số giá. Tính đến tháng 6/2008, giá lương thực đã tăng 57,22% so với tháng 12/2007. Với những lực đẩy mạnh mẽ như trên, CPI tháng 6/2008 so với tháng 12/2007 đã tăng 19,01%. Tháng 7/2007, quá trình “hãm phanh” giá xăng trong nước đã quá dài và đến lúc không thể kiềm chế thêm nữa. Tiếp theo diễn biến giá dầu thế giới đạt mốc kỷ lục mọi thời đại ở 147 USD vào ngày 11/7, 10 ngày sau đó, giá xăng A92 đã nhảy vọt với bước tăng 30%, lên mức 19.000 đồng/lít vào ngày 21/7. Mức tăng gây “sốc” của nhiên liệu quan trọng này đã kéo theo hàng loạt sản phẩm, dịch vụ tăng giá theo, trong đó phải kể đến những đợt tăng giá cước vận tải không “hẹn” ngày giảm, hay kể cả những mặt hàng không liên quan nhiều như rau xanh, thực phẩm chưa chế biến...Nhìn lại g iai đoạn này, những vòng tác động gián tiếp và tâm lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giá bất hợp lý như : sắt, thép, xi măng, lương thực, nhu yếu phẩm … 1.2 Tình trạng hạn chế cho vay doanh nghiệp : Khó khăn chung của nền kinh tế đã tác động khiến các ngân hàng gặp phải nhiều khó khăn CPI tăng cao đã đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời đ iểm vượt trên 18- 19%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho vay. Đầu năm 2008, trước khi có gói giải pháp 8 điểm của Chính phủ nhằm đối phó với lạm phát, các ngân hàng đã nhanh chóng đưa ra những giải pháp rút bớt tiền trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất (lãi suất tái chiết khấu, huy động, tiền vay, lãi suất cơ bản) sát với giá thị trường. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 6
  7. Cho vay Doanh nghiệp thương mại và qui định các ngân hàng mua trái phiếu ngân hàng Nhà nước. Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30%. Với mức suy giảm của thị trường bất động sản, các khoản nợ nghi ngờ tăng mạnh với nợ xấu trong toàn ngành ngân hàng cuối năm ở 43.500 tỉ đồng, chiếm khoảng 3,5% tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, có thể đó chưa phải là con số chính xác cuối cùng, khi nhiều ngân hàng đã cơ cấu lại n ợ, gia hạn nợ… để giảm những khoản nợ xấu xuống. Hơn nữa, doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khó khăn từ năm 2008, dẫn đến chất lượng tín dụng g iảm sút. Khả năng nợ xấu gia tăng trong năm 2009 là có thể tính đến. Thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử kinh tế Việt Nam, vốn VNĐ khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Thời điểm này hàng loạt ngân hàng thương mại đều hạn chế cho khách hàng vay vốn. Thậm chí do lo vấn đề thanh khoản, một số ngân hàng đã tạm dừng cho vay mà chỉ tập trung thu nợ. Trên thị trường tiền tệ các ngân hàng thương mại liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Điển hình là có khi chỉ trong có 1 tuần một số ngân hàng điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần Một số ngân hàng chỉ cho khách hàng truyền thống, còn không cho vay đối với khách hàng mới. Có tháng nhiều ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn VNĐ với lãi suất 1,35-1,45%/tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn 1,5 - 1,65%/tháng, có trường hợp chào lãi suất cho vay lên tới 2,0%/tháng, nhưng không phải khách hàng nào cũng vay được. Theo TS Cao Sĩ Kiêm - Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia, giai đoạn này điều hành chính sách tiền tệ có hai khiếm khuyết lớn:  Định hướng thực hiện các giải pháp là đúng nhưng liều lượng, thời gian tiến hành chưa thích hợp, nhuần nhuyễn. Liều lượng quá nhiều, căng thẳng cùng một lúc, trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng đang ở mức thấp vì cho vay dễ dãi từ các năm trước dồn cho bất động sản, chứng khoán.  Các ngân hàng thương mại lại phải mua trái phiếu Ngân hàng Nhà nước, tăng dữ trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu… đã tạo một áp lực lớn, làm tình hình hơi rối và lãi suất tiền gửi cứ đua nhau lên. Có thể thấy là cả quý III, tốc độ tăng trưởng tín dụng gần như bằng không. Nhiều lý do giải thích cho chuyện này, lớn nhất phải kể đến các ngân Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 7
  8. Cho vay Doanh nghiệp hàng thận trọng hơn khi nhìn vào bối cảnh kinh tế chung, về phía khách hàng thì lãi suất 21%/năm là rào cản quá lớn với bài toán vay - trả … Tình hình này rõ ràng là ảnh hưởng hết sức đáng lo ngại đến tăng trưởng kinh tế. Bởi vì nhiều dự án sản xuất kinh doanh không thể triển khai được do không vay được vốn, hoặc nếu vay được vốn thì lãi suất lại tăng cao, chi phí lớn, không có lãi. Do đó nh iều chủ dự án quyết định cho dừng chưa triển khai dự án vì lãi suất quá cao so với tính toán ban đầu, hoặc do ngân hàng thương mại cam kết tài trợ vốn nhưng nay ngân hàng đó không giải ngân cho vay. Có thể kể ra một số nguyên nhân của tình trạng trên như sau :  Nước ta phải đối mặt với tình trạng lạm phát tăng cao (theo tính tóan mức lạm phát là 19,89% - nếu so với tháng 12/2007, và xấp xỉ 23% - nếu so với g iá tiêu dùng bình quân của năm 2007). Do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Họ đã phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng.  Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng  Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng. Về mặt thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam, tác động của việc thực hiện chính sách tiền tệ có độ trễ ít nhất là 6 tháng. Các chuyên gia của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trong một báo cáo gần đây về nền kinh tế Việt Nam cũng tính toán rằng độ trễ trong tác động của chính sách tiền tệ là từ 15 đến 18 tháng. Do đó tình trạng thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế do các ngân hàng thương mại hạn chế cho vay đã tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nửa cuối năm 2008. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 là 9% là không thể đạt được. Thay vào đó là 1 con số khiêm tốn hơn nhiều : chỉ 6,23%. Ngoài ra, ngay trong bản thân ngành ngân hàng cũng đã vấp phải những nhược điểm như : Có thời đ iểm chưa dự báo lường trước hết diễn b iến tiêu cực của thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối; Công tác thống kê tiền tệ, tín dụng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành của NHNN; Việc chuyển từ phương pháp thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro còn chậm, không đủ và thiếu chính xác; Nguồn nhân lực thanh tra tại chỗ còn yếu, thiếu và các công cụ hỗ trợ còn nhiều bất cập; Việc nâng cao chất lượng dịch vụ ngân Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 8
  9. Cho vay Doanh nghiệp hàng chưa được các tổ chức tín dụng chú trọng đầu tư đồng đều, chất lượng thấp, gây bức xúc cho người sử dụng… 2. GIAI ĐOẠN THÚC ĐẨY CHO VAY KÍCH CẦU : 2.1 Tình trạng giảm phát của nền kinh tế : Từ tháng 9 năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã lan rộng sang hầu hết các nước và mang tính toàn cầu. Khủng hoảng có xu hướng ngày càng trầm trọng và lan truyền từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực. Từ tình trạng lạm phát cao, thế giới phải đối đầu với nguy cơ suy giảm tăng trưởng sâu đi cùng với tình trạng giảm mạnh giá dầu, giá lương thực và các loại nguyên liệu thô khác Ở 4 tháng cuối năm 2008, đường đồ thị biểu diễn giá trị CPI của Việt Nam tạo thành dốc, trượt xuống mạnh mẽ, vượt qua mức âm cho đến tháng tận cùng của năm, khép lại một năm 2008 đầy biến động bằng việc xóa sạch xu hướng tăng của lạm phát, nhưng lại làm gia tăng nỗi lo suy giảm. Trái với giai đoạn 8 tháng đầu năm, khi “gánh nặng” giá cả đè lên vai đa số người dân phần nhiều, thì ở 4 tháng còn lại của năm, doanh nghiệp lại “chịu trận” giảm phát. Điển hình là giá gạo đã có những tháng giảm âm, tạo lực kéo mạnh lên CPI, đẩy chỉ số này giảm liên tiếp trong 3 tháng cuối của năm. Sự sụt giảm giá cả nhiều loại hàng hóa trên thị trường thế giới cũng tác động mạnh đến giá hàng hóa trong nước. Chỉ trong vòng 4 tháng cuối năm, giá xăng đã giảm liên tiếp 10 lần. Tiếp theo là giá dầu, giá gas cũng giảm mạnh nhiều lần trong cùng thời gian này. Giá phôi thép trên thị trường thế giới đã “mò” đáy ở 270-280 USD/tấn, kéo giá sắt thép xây dựng trong nước có thời điểm chỉ còn ở quanh mức 10 triệu đồng/tấn. Vẫn còn những đột biến nhỏ lẻ, mang tính khu vực như trận lụt lịch sử đẩy chỉ số giá tại Hà Nội tăng trở lại trong tháng 11. Tuy nhiên, đây không phải là diễn biến chung trên diện rộng và xu hướng giảm giá là khó cưỡng. Ba vòng tác động trong giai đoạn này đã “áp đặt” ảnh hưởng lên thói quen tiêu dùng, tác động mạnh mẽ đến thị trường hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Tâm lý chờ giá xuống đã “thắng” tâm lý cầm cự của doanh nghiệp sản xuất và phân phối. Nhiều loại hàng hóa đã giảm giá mạnh, tạo sức lôi cuốn đến hầu hết các hàng hóa trên thị trường. Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 9
  10. Cho vay Doanh nghiệp Sau tháng 9 với chỉ số g iá tăng nhẹ 0,18%, ba tháng của quý 4/2008, chỉ số giá giảm liên tiếp: tháng 10 g iảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%; và tháng 12 giảm 0.68%. Tính cả 11 tháng của năm 2008, CPI tăng 23,25% so với 11 tháng của năm 2007. Sự “co rút” của thị trường hàng hóa làm tăng lượng tồn kho của doanh nghiệp, dẫn tới sản xuất đình đốn. Những quan điểm bi quan nhất tại thời đ iểm này cho rằng có đến 20% doanh nghiệp đang đặc biệt khó kh ăn. Một số doanh nghiệp ngành thép đã phải g iãn công lao động. Một số nhà máy phải cho công nhân nghỉ việc tạm thời. Đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp lớn, kể cả doanh nghiệp FDI, sa thải lao động số lượng lớn. Đất nước đã chuyển từ ưu tiên đối phó với lạm phát cao sang đương đầu với suy g iảm tăng trưởng kinh tế mà hậu quả và việc xử lý nó cũng không kém phần phức tạp so với lạm phát, thậm chí còn khó khăn hơn do nguồn lực của ta còn rất hạn chế trong khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới vẫn chưa rõ điểm dừng. 2.2 Tình hình cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng : 2.2.1 Giai đoạn giảm lãi suất ban đầu : Tại Việt Nam trong 3 quý đầu năm 2008, khi Ngân hàng Nhà nước siết chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát, các ngân hàng hạn chế cho vay ra. Đến khi các chính sách thắt chặt tín dụng dần được nới lỏng, vốn khả dụng dư thừa thì ngân hàng bắt đầu mở cửa tái cho vay Giai đoạn này Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất huy động để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất, nhưng các ngân hàng vẫn nhìn nhau và chưa chịu hạ ngay trần lãi suất huy động xuống mức cơ bản. Mặc dù theo ước tính thì lượng vốn thừa nằm lại trong các ngân hàng thương mại hiện nay lên đến khoảng 50.000 tỷ. Doanh nghiệp vì thế lại chịu thiệt thòi Tháng 9/2008, Ngân hàng Nhà nước ra quyết định lãi suất cơ bản trong điều hành, lãi suất cho vay ra không được vượt quá là 21%/năm. Nhưng với lãi suất huy động bình quân lúc đó là 18%/năm cộng với các khoản chi phí khác thì lãi suất đầu vào ở các ngân hàng đang ở mức lớn hơn 21%/năm. Với đầu ra là 21%/năm và đầu vào lớn hơn 21%/năm, nếu cứ tiếp tục huy động và cho vay ra Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 10
  11. Cho vay Doanh nghiệp thì các ngân hàng sẽ bị lỗ. Vì lẽ đó, các ngân hàng loay hoay tìm cách để giảm lãi suất sao cho đầu vào nhỏ hơn hoặc bằng 21%/năm Mở đầu cuộc hạ lãi suất cho vay chính là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), giảm lãi suất cho vay đối với VNĐ là 0,2%/năm, một số lĩnh vực ưu tiên có mức giảm 0,6%/năm; lãi suất cho vay USD giảm 1% - 2%/năm. Sau đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát tr iển nông thôn (Agribank) giảm lãi suất cho vay tiền đồng 0,5%/năm và ngoại tệ 2%/năm với đố i tượng được vay với lãi suất ưu đãi cũng được giới hạn. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) giảm 1%/năm đối với VND và 0,5%/năm đối với USD. Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) công bố giảm lãi suất cho vay 0,5%/năm đối với VND; giảm 2%/năm đối với USD. Cú sốc thực sự đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng lại đến từ một ngân hàng cổ phần Eximbank khi đưa ra quyết định sẽ giảm lãi suất cho vay VND 1%/năm đối với tất cả các khách hàng vay vốn tại Eximbank kể từ 19/07… Thế nhưng, nhìn vào những con số đó mới thấy, mức hạ lãi suất của các ngân hàng chưa cao và nếu chia ra tháng thì những con số này quá nhỏ bé và không đáng kể! Hẳn rằng, khi quyết định cắt giảm lãi suất ở mức này đã là nằm trong sự tính toán của các ngân hàng! “Động tác” hạ lãi suất của các ngân hàng chỉ phần nào với mục đích hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nhưng mục đích quan trọng hơn chính là phương thức PR của ngân hàng nhằm giữ chân khách hàng quen cũ và thu hút thêm một lượng khách hàng mới sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do nền kinh tế đang rơi vào tình trạng giảm phát, dẫn đến một số ngân hàng có tiền nhưng vẫn cho vay dè dặt, trong khi có những doanh nghiệp thiếu vốn, sản xuất đình trệ. Cũng có một số ngân hàng khác muốn bung vốn cho vay thì lại gặp các doanh nghiệp không vay mà tìm đến những nguồn khác có chi phí rẻ hơn. Đây là hệ quả tất yếu của nhiều tháng, nhiều năm trước, khi các ngân hàng thương mại cho vay vượt định mức huy động mà Ngân hàng Nhà nước quy định. Tình trạng này xảy ra do một số nguyên nhân chính yếu sau :  Có một thực tế là ngân hàng không dám cho vay khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Hơn nữa, lãi suất cho vay chỉ mới g iảm nhẹ, chi phí vay vẫn còn cao khiến nhiều doanh nghiệp e ngại.  Để bảo đảm an toàn, các ngân hàng thương mại thường giữ một tỷ lệ vốn dự trữ rất lớn. Do đó nảy sinh mâu thuẫn giữa lãi suất và hệ số an toàn. Nếu ngân hàng giảm mạnh lãi suất huy động thì không huy động được vốn, nhưng Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 11
  12. Cho vay Doanh nghiệp nếu giảm lãi suất cho vay xuống thì lại lỗ. Lãi suất huy động không g iảm được nên lãi suất cho vay cũng không thể giảm  Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng trong cơn bão tài chính Mỹ, các ngân hàng Việt Nam đã suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ thận trọng hơn với các khoản cho vay, tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao;  Sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài ngày càng gay gắt hơn. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nh iều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý, thủ tục nhanh chóng, tiện lợi, lãi suất lại thường mềm hơn các ngân hàng thương mại trong nước nên thu hút được các doanh nghiệp nhiều hơn  Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Cách huy động vốn này thường có chi phí rẻ hơn so với lãi suất ngân hàng 2.2.2 Giai đoạn mở rộng cho vay : 2.2.2.1 Doanh nghiệp chần chừ đi vay: Vietcombank đi đầu khi quyết định dành thêm 3.000 tỷ đồng trong kế hoạch phát triển tín dụng năm 2008 để cho vay với nhóm khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vietinbank tiếp nối khi từ cuối tháng 9, ngân hàng này tiếp tục bơm thêm 10.000 tỷ đồng cho nhóm khách hàng này. Không chịu kém cạnh các bậc đàn anh, các ngân hàng cổ phần cũng niềm nở hơn với khách hàng doanh nghiệp. Chẳng hạn như, tính đến cuối tháng 9, sau nhiều lần thắt chặt để đảm bảo an toàn và góp sức chống lạm phát, dư nợ tín dụng của Ngân hàng Ngoài quốc doanh VP Bank đạt 14.000 tỷ đồng. Từ tháng 9 đến cuối năm, ngân hàng VP dành thêm 2.000 tỷ đồng để đẩy mạnh cung cấp tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng cổ phần Kỹ thương - Techcombank hướng sự quan tâm vào nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ - các hộ kinh doanh cá thể, cho phép các hộ kinh doanh vay tới 300 triệu đồng, riêng trường hợp vay tín chấp hạn mức tối đa 30 triệu đồng. Nếu thuận lợi, khoản vay có thể được giải ngân trong vòng 24h Cùng với việc gia tăng tín dụng, các ngân hàng thay nhau công bố hạ lãi suất cho vay. Từ chỗ áp lãi suất cao vượt trần 21%, thậm chí cộng thêm phí và xét duyệt kỹ lưỡng các khoản vay, nay ngân hàng liên tục giảm, có nơi lãi suất ưu đãi chỉ còn 17,5%. Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 12
  13. Cho vay Doanh nghiệp Đến ngày 03/11/08, khi Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất cơ bản xuống mốc 12%/năm, tức trần lãi suất cho vay là 16,5%/năm, một con số mà so với thời đ iểm những tháng đầu năm, doanh nghiệp có nằm mơ cũng không thấy thì Vietcombank đã tái khởi động việc mời vay vốn với mức lãi suất 14%/năm, thấp hơn 2,5 điểm phần trăm so với mức trần. Nhiều ngân hàng lớn khác như BIDV, Agribank cũng có những động tác đi trước thị trường tương tự. Ngày 20/11, Ngân hàng Nhà nước chính thức cắt giảm thêm 1 điểm phần trăm lãi suất cơ bản, từ 12%/năm xuống 11%/năm. Lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng cũng giảm lần lượt còn 12%/năm, 10%/năm và 12%/năm. Bên cạnh đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND cũng cắt giảm thêm 2%, còn 8%. Như vậy, trần lãi suất cho vay của các ngân hàng chỉ còn 16,5%/năm. Từ ngày 01/12, BIDV áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn với mức lãi suất thấp nhất còn 11,4%. Nhiều ngân hàng khác cũng tính toán hạ lãi suất cho vay hơn nữa. Các ngân hàng thương mại Nhà nước như BIDV, Vietinbank, Agribank, Vietcombank…tiếp tục hạ lãi suất cho vay xuống dưới mức trần cho phép. Cụ thể, BIDV cho vay mức thấp nhất là 11,4%, áp dụng đối với các khách hàng: sản xuất kinh doanh các mặt hàng, sản phẩm có thị trường tiêu thụ ổn định, trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế như : năng lượng, xăng dầu, sắt thép, xi- măng, phân bón, thuốc chữa bệnh; khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; vay tài trợ xuất khẩu; thu mua lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đ a là 13%/năm áp dụng đồng loạt đối với tất cả các khách hàng. Lãi suất cho vay trung, dài hạn bằng lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau cộng phí tối thiểu là 3%/năm (tối đa không vượt quá 150% lãi suất cơ bản hiện hành). Agribank cho vay lãi suất thấp nhất là 12 % đối với các hộ nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Vietinbank cho vay các doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp thu mua nông sản xuất khẩu, các dự án có hiệu quả, vay mua hàng hoá tiêu dùng phục vụ Tết…đối với khách hàng sử dụng mọi dịch vụ thanh toán của ngân hàng ở mức lãi suất 12-13%/năm. Các ngân hàng thương mại cổ phần cũng hạ lãi suất cho vay. Để có thể hạ lãi suất cho vay, biện pháp chung của các ngân hàng là hạ lãi suất huy động tiết kiệm. Lãi suất huy động của hầu hết ngân hàng ở mức 11- 12%/năm đối với kỳ hạn dài khoảng 1 năm trở lên. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay chênh lệnh không nhiều, chưa đủ bù đắp chi phí, đó là chưa kể một số ngân hàng cho khách hàng “ruột” vay vốn với lãi suất thậm chí chỉ bằng Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 13
  14. Cho vay Doanh nghiệp 10,8%/năm. Để làm được như vậy, ngân hàng phải chịu lỗ tín dụng và bù đắp bằng các khoản kinh doanh dịch vụ khác. Đến ngày 04/12/08 Vietcombank đã quyết định giảm mạnh lãi suất cho vay xuống 10,5%/năm, thậm chí có mức 5,4%/năm, sau khi vừa áp dụng mức lãi suất mới chưa đến 3 ngày. Theo thông báo đăng trên website ngân hàng, kể từ ngày 05/12/2008, Vietcombank quyết định giảm mạnh lãi suất cho vay ưu đãi và lãi suất cho vay thông thường bằng VND. Lãi suất cho vay ưu đãi chỉ còn ở mức rất thấp là 0.875%/tháng (tương đương 10,5%/năm), lãi suất cho vay thông thường là 1.04%/tháng (tương đương 12,48%/năm). Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cam kết bán lại ngoại tệ cho Vietcombank thì lãi suất cho vay chỉ còn ở mức 0.42%/tháng (5,4%/năm). Với động thái điều chỉnh giảm lãi suất lần này, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hướng tới mục tiêu tập trung tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Đây là lần điều chỉnh giảm thứ hai chỉ trong vòng 5 ngày đầu tháng 12/2008 của Vietcombank. Trước đó, VCB đã giảm mạnh lãi suất cho vay ưu đãi bằng VND từ mức 12%/năm xuống còn 11%/năm, lãi suất thông thường giảm từ mức 13.5%/năm xuống 13%/năm. Nhưng mức lãi suất ngày đã bị gỡ bỏ chỉ trong vòng chưa đến 3 ngày, ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước quyết định cắt giảm lãi suất cơ bản từ 11%/năm xuống 10%/năm kể từ ngày 05/12/2008. Đến ngày từ 1/1/2009, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Agribank) thực hiện giảm lãi suất cho vay đối với tất cả các hợp đồng cho vay theo lãi suất cố định trước đây và đang còn số dư xuống còn 1,06% (12,72%/năm). Đối với các khoản cho vay mới, lãi suất giảm xuống chỉ còn 0,9%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1%/tháng đối v ới cho vay trung, dài h ạn. Đối tượng áp dụng là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp tại toàn bộ 2.200 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc. Thực hiện việc giảm lãi suất này, Agribank chấp nhận giảm doanh thu khoảng 2.000 tỷ đồng. Cùng giảm lãi suất cho vay, Agribank cho biết cũng đang triển khai một loạt các giải pháp nhằm cơ cấu lại danh mục đầu tư nhằm tập trung và ưu tiên vốn cho nông nghiệp, nông thôn và thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ. Nhìn chung, không chỉ các ngân hàng thương mại quốc doanh ra sức hạ mức lãi suất mà các ngân hàng thương mại cổ phần cũng tranh thủ đưa mức lãi suất chung xuống theo mức bình quân chung để thu hút doanh nghiệp vay vốn. Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 14
  15. Cho vay Doanh nghiệp Lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng giảm mạnh, từ đỉnh cao 23-24% hồi giữa năm về mức 12,75% vào những tháng cuối năm. Tính chung cả năm, lượng vốn ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế vẫn tăng 21-22% so với cuối năm ngoái. Vốn đầu tư vào khu vực dân doanh, xuất khẩu và sản xuất vẫn tăng khá mạnh, trên dưới 35%. Riêng mảng đầu tư cho khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng thấp, 12-14% so với năm ngoái. tổng phương tiện thanh toán ngành ngân hàng năm 2008 tăng 16 - 17%; dư nợ tín dụng tăng 21 - 22% so với năm 2007; tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,4% và tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại tăng 8 - 9% so với cuối năm 2007. Trong năm 2008, vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35 - 37%; khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12 - 14%; lĩnh vực xuất khẩu tăng 35 - 37%; khu vực sản xuất tăng 43 - 46%; khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%; cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác tăng 40 - 42% 2.2.2.2 Doanh nghiệp chần chừ đi vay : Một nghịch lý đã xảy ra trong nền kinh tế nước ta. Nếu như trước đây, các doanh nghiệp có đi gõ cửa hết ngân hàng này đến ngân hàng khác để xin vay vốn thì cũng đều nhận được cái lắc đầu phũ phàng, thì đến lúc này mặc cho các ngân hàng sốt sắng mời mọc, nhiều doanh nghiệp vẫn tỏ ra chậm chạp, lừng khừng, thậm chí khước từ Vốn nhiều, giải ngân thấp. Nguồn vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại vẫn được khẳng định đang tiếp tục dư cung. Cho đến hết tháng 9/2008, dư nợ tín dụng tiêu dùng toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 79.700 tỉ đồng và chiếm khoảng 6,54% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Chỉ tính đến cuối tháng 10/2008, vốn khả dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại thừa khoảng 90.000 tỉ đồng. Bà Nguyễn Thị Tâm, phó tổng giám đốc Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), thì bức xúc: “Tín dụng của ngân hàng vẫn sụt hàng ngày và hiện đã sụt hơn 5.000 tỉ đồng so với thời điểm tín dụng tăng cao nhất trong năm nay”. Tình hình của Vietcombank cũng không khá hơn. Ông Huỳnh Song Hào, phó giám đốc Vietcombank chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, nhận định các doanh nghiệp đang thu hẹp sản xuất và không muốn vay nhiều từ ngân hàng, do đó tăng trưởng dư nợ của ngân hàng vẫn không có gì đột biến dù lãi suất cho vay giảm mạnh. Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 15
  16. Cho vay Doanh nghiệp Rất nhiều bản hợp đồng mời vay vốn đã được để trên bàn lãnh đạo các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay cho việc họ phải tới ngân hàng năn nỉ như trước kia. Từ tháng 11 tới nay, không ít ngân hàng hầu như không thể tăng trưởng tín dụng, dù đã nhiều lần giảm lãi suất cho vay. Ngân hàng vẫn có thêm hợp đồng vay vốn mới, nhưng nếu tính cả những trường hợp đến hạn thanh toán, hoặc trả trước hạn vì không kham nổi lãi suất cao, thì mức tăng trưởng gần như bằng 0%. “Nhưng chúng tôi không vay vì thời điểm này không nhìn thấy đơn hàng mới cho những tháng đầu năm tới trong khi các đơn hàng đang thực hiện còn “vắt chân lên cổ” để trả lãi suất vay cao trước đó, nhằm chốt lại doanh thu và lợi nhuận thực tế", giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ cho biết. Và đây cũng chính là tâm trạng chung của nhiều doanh nghiệp sản xuất khác Ông Nguyễn Thái Học, Phó chủ tịch Hiệp hội Điều, báo cáo với Bộ Công Thương 80% đến 90% doanh nghiệp điều không bán được hàng, giá thế giới liên tục giảm và lượng hàng tồn kho ngay thời đ iểm giữa tháng 11 còn trên 100 triệu đô la Mỹ, chưa kể đến 40% lượng hàng vào thị trường Mỹ và 20% lượng hàng vào châu Âu hiện đang chững lại hoặc rơi tự do. Nhiều đơn hàng đã giao rồi lại thanh toán chậm hoặc đề nghị lùi thời gian giao hàng nên các doanh nghiệp không muốn sản xuất nữa. Ngành dệt may, nơi 90% các doanh nghiệp thường xuyên dùng đến nguồn vay ngắn hạn từ các ngân hàng cho các hợp đồng kéo dài, chừng ba tháng nay cũng có nhiều lý do để lưỡng lự trước luồng tiền từ các ngân hàng đang trở nên dễ tiếp cận. Ông Vũ Đức Giang, Tổng giám đốc tập đoàn Dệt may, cho biết, khó khăn hàng đầu của doanh nghiệp dệt may không còn là nguồn vốn nữa mà là đòi hỏi quá khắt khe từ các đơn vị đặt hàng, ví dụ như trước đây thời gian giao và trả hàng là từ 30 ngày, nay chỉ còn lại một nửa, nghĩa là chỉ còn 7 ngày sản xuất. “Với thời hạn như thế, doanh nghiệp không thực hiện nổi nên nhiều khi đành từ chối đơn hàng”. Tình hình trên cho thấy , tuy rằng nguồn vốn vay từ ngân hàng luôn có vị trí rất quan trọng trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng ở thời đ iểm cuối 2008, nó không còn giữ vị trí hàng đầu nữa. Nguyên nhân lớn nhất là sản xuất đã đình trệ trong nhiều tháng qua do đầu ra cho sản xuất bị ảnh hưởng nặng. Ngoài ra còn có những lý do lớn khác khiến nguồn vốn vẫn nằm trong két thay vì tìm được dòng chảy đến khách hàng. Nhiều hợp đồng các doanh Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 16
  17. Cho vay Doanh nghiệp nghiệp đã ký nay bị trì hoãn. Sức tiêu dùng ở thị trường quốc tế và trong nước thời điểm này đáng lẽ tăng theo thông lệ nay theo chiều đi xuống. Cầu không tăng, vì thế, cung cũng chưa có lý do để tăng, bất kể lãi suất ngân hàng hay hạn mức tín dụng từ ngân hàng cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Đến hết tháng 11, dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tăng 36,5% so với cuối năm ngoái. Trong khi đó, đối với cả nước, đến cuối tháng 10/2008, tín dụng chỉ tăng trưởng khoảng 20%. Với lãi suất huy động vốn được hạ xuống, nguồn tiền đổ về ngân hàng có thể giảm. Tuy nhiên, với lượng vốn lớn huy động từ trước với lãi suất khá cao, nếu kỳ hạn dài, ngân hàng sẽ tiếp tục phải trả lãi với mức cao, nếu không tìm đầu ra sẽ bị lỗ nhiều hơn. 2.2.2.3 Doanh nghiệp vẫn khó khăn khi đi vay : Tổ công tác đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước vừa có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quan hệ tín dụng với ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Theo báo cáo của Tổ công tác, việc cho vay của ngân hàng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó khăn do một số nguyên nhân chính như : doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn; trần lãi suất cho vay ngày càng hạ thấp dẫn đến chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại ngày càng thu hẹp, vì vậy nhiều ngân hàng e ngại không muốn tăng dư nợ. Ngoài ra, tổ công tác cũng nhận thấy cơ chế pháp lý để hỗ trợ cho ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm (đặc biệt là nhà, đất) chưa đồng bộ, nên cũng làm các ngân hàng e ngại khi cho vay vì khó xử lý tài sản đảm bảo khi khách hàng không trả nợ đúng hạn. Theo phản ánh gần đây, nhiều doanh nghiệp khát vốn vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng. Các chi nhánh của một số ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn một số thành phố lớn chủ trương “tiền dư…gửi về hội sở”, nên không tích cực cho vay. 2.2.3 Những khó khăn đối với các ngân hàng : 2.2.3.1 Lãi suất được điều chỉnh giảm : Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 17
  18. Cho vay Doanh nghiệp Trước mắt, với việc lãi suất đã được Thủ tướng chỉ đạo sẽ giảm trong sắp tới, bài toán cho vay và huy động sẽ trở nên khó khăn hơn. Với lãi suất huy động kém hấp dẫn hơn so với cơ hội đầu tư vào thị trường chứng khoán, sàn giao dịch vàng, cơ hội khai thác biến động tỷ giá, ngân hàng phải đảm bảo những giá trị gia tăng khác để giữ chân và thu hút khách. Còn với chính sách cho vay trở lại nhằm thúc đẩy phát tr iển nền kinh tế, những ngân hàng tăng trưởng tín dụng nhanh sẽ phải xem lại đủ cơ chế sàng lọc khoản vay liệu đã đủ mạnh và an toàn. Các ngân hàng đa phần đều dự đoán lãi suất sẽ giảm, song ít ai có thể ngờ nó xuống thấp và nhanh như vậy. Những ngân hàng huy động dài hạn và cho vay ngắn hạn với tỷ lệ lớn bị ảnh hưởng nặng khi lãi suất xuống mạnh và nhanh. Điều các ngân hàng lo nhất hiện nay là nếu lãi suất giảm nhanh và xuống sâu, sẽ rất khó khăn để huy động vốn từ các tổ chức kinh tế cũng như người dân. Có 3 cái bẫy với các ngân hàng :  Bẫy thứ nhất xảy ra hồi đầu năm khi lãi suất tăng mạnh, ngân hàng thiếu thanh khoản.  Bẫy thứ hai diễn ra khi lãi suất giảm liên tục, ngân hàng khó cân đối chi phí đầu vào, dẫn tới nguy cơ thừa vốn mà không thể cho vay.  Bẫy thứ ba có thể xảy ra nếu lãi suất xuống sâu quá, tiền không thể giữ được trong ngân hàng 2.2.3.2 Khó khăn từ lãi suất trần : Ngày 16/5/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN, chính thức đưa cơ chế điều hành lãi suất theo trần. Cụ thể, từ ngày 19/5/2008, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản (như quy định tại Bộ luật Dân sự) Quyết định này, dù có chủ ý hay không, cũng có hiệu lực đối với cho vay tiêu dùng và tín dụng bán lẻ. Và theo đánh giá của Tiểu ban Tín dụng tiêu dùng thuộc Nhóm công tác ngân hàng tại Hội nghị Nhóm tư vấn Các nhà tài trợ 2008: “nếu mức trần được áp dụng như vậy sẽ gây tác hại nặng nề tới tín dụng bán lẻ ở Việt Nam” “Quyết định 16 sẽ làm thui chột ngành tín dụng tiêu dùng còn non trẻ của Việt Nam trước khi nó đạt đến một khối lượng đủ lớn” Ông Ashok Sud, Tổng giám đốc Standard Chartered tại Việt Nam, Trưởng nhóm Ngân hàng tại hội nghị, khuyến nghị rằng: trong điều kiện cần Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 18
  19. Cho vay Doanh nghiệp lấp khoảng trống khi nhu cầu trên các thị trường xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần phải kích thích tiêu dùng trong nước, trong đó cần có quy định riêng biệt cho dịch vụ cho vay cá nhân, khác với cho vay doanh nghiệp. “Tiêu dùng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng GDP ở Việt Nam. Chính vì vậy dịch vụ ngân hàng bán lẻ cần được khuyến khích mở rộng và phát triển thay vì áp đặt trần lãi suất như hiện nay”, ông Ashok Sud nói Phân tích cho thấy, trần lãi suất này sẽ ngăn cản tất cả các khoản cho vay có lãi suất xác đ ịnh dựa trên thống kê yếu tố rủi ro đối với người vay cao hơn mức trần này. Ngay với cho vay doanh nghiệp, cho vay tiêu dùng thường có rủi ro và chi phí cao hơn nhưng vẫn chịu chung một “trần”. Hậu quả của quyết định trên có thể là ngân hàng ngừng hoặc hạn chế cho vay loại này, đẩy một phần lớn khách vay ra khỏi thị trường tín dụng chính thức/có điều tiết để gia nhập thị trường phi chính thức/chợ đen; làm giảm sự phát triển của việc cho vay dựa trên những đánh giá khách hàng kỹ càng và quản lý rủi ro chặt chẽ, và do vậy bộ phận có rủi ro cao hơn sẽ không được phục vụ đúng mức. Điều đó xảy ra không chỉ đúng với các tổ chức tín dụng nước ngoài mà cả với các ngân hàng trong nước. Sản phẩm mới như cho vay không có bảo đảm dưới hình thức vay trả góp hay thẻ tín dụng sẽ bị cắt giảm hay chuyển thành khoản vay “có bảo đảm”, và do đó sẽ làm giảm khả năng thâm nhập và tác động tích cực của lĩnh vực dịch vụ tài chính còn mới mẻ này. Trên thực tế, sau thời kỳ bùng nổ cuối năm 2007, từ đầu năm 2008, hầu hết các ngân hàng thương mại đã khép cửa hoặc giải ngân hạn chế đối với tín dụng tiêu dùng. Gần đây, hoạt động này đang có xu hướng dần nối lại. Đáng chú ý là trước đó hầu hết các ngân hàng đã đầu tư vốn lớn cho việc phát triển hệ thống, hạ tầng, nhân lực dựa trên cơ sở dự báo tăng trưởng của lĩnh vực này trong điều kiện bình thường. Và chính trần lãi suất đã làm đổ vỡ phần lớn các kế hoạch này, dẫn đến phải cắt giảm quy mô hay có những trường hợp phải đóng cửa tạm thời những bộ phận tín dụng bán lẻ, theo xác định của các chuyên gia. Ngoài ra, phía sau sự cản trở đối với tín dụng tiêu dùng, trần lãi suất còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của ngành bán lẻ do nhu cầu tín Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 19
  20. Cho vay Doanh nghiệp dụng sẽ giảm, hoặc hoạt động kinh tế liên quan bị ngừng trệ do không vay được vốn… 2.2.3.3 Vướng từ cơ chế : Một số vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng (trong đó có lãi suất) đã được Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo nhưng lại chưa có những văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để thi hành/ hoặc nếu có thì lại bất lợi cho các tổ chức tín dụng hoặc không có nhiều ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Nghị quyết số 23/2008/QH12 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 có nêu: " Các Tổ chức tín dụng điều h ành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hagng Nhà nước theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với một số dự án sản xuất-kinh doanh có hiệu quả cao...". Nhưng thế nào là dự án hiệu quả cao thì không có tiêu chí để xác định. Mặt khác, lãi suất thỏa thuận mà các tổ chức mong muốn là không bị ràng buộc bởi trần 150%, còn đã là dự án hiệu quả cao thì ngân hàng nào cũng sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp hơn trần khá nhiều. Chính phủ chỉ đạo các ngân hàng thương mại dãn nợ, gia hạn nợ để giúp các doanh nghiệp có vốn phục vụ sản xuất và kinh doanh, nhằm ổn định nền kinh tế. Nhưng theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng thì các khoản vay khi đến hạn mà doanh nghiệp không trả được nợ thì phải chuyển nợ quá hạn, trích dự phòng rủi ro, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, xếp loại, đánh giá tổ chức tín dụng. Nếu không có những hướng dẫn để tháo gỡ khó khăn thì ngân hàng khó có thể chủ động dãn nợ, gia hạn nợ được... 2.2.3.4 Cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài : Năm 2008-2009, các ngân hàng trong nước còn phải chính thức đối mặt cạnh tranh với năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài theo lộ trình mở cửa của WTO. Các ngân hàng nước ngoài với trình độ công nghệ tiên tiến, qui cách làm việc hiện đại, qui mô vốn và tiềm lực tài chính lớn gấp nhiều lần các ngân hàng Việt Nam, thực sự gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn đáng lo ngại Với những áp lực mở rộng mạng lưới, nâng cao công nghệ, gia tăng giá trị dịch vụ, đối mặt với biến động của thị trường tiền tệ, tỷ giá..., năm 2008 được xem là mở đầu cho năm 2009 - được xem là một năm “sàng lọc” các ngân hàng trong nước Sinh viên thực hiện : Vũ Thanh Tùng Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2