intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Đặc điểm của nền kinh tế tri thức và cơ hội phát triển của Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Hữu Phúc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

575
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu đặc điểm và sự phát triển của nền kinh tế tri thức, dựa vào những đặc điểm này nghiên cứu và đề ra các giải pháp cho sự phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Đặc điểm của nền kinh tế tri thức và cơ hội phát triển của Việt Nam

  1. 3 MỞ ĐẦU ­ Lý do chọn đề tài: Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay,  chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ  ba ­văn   minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ  phận quan trọng nhất là nền   kinh tế tri thức­có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin. Đặc  biệt là trong thập niên 90 của thế  kỷ  trước các thành tựu về  công nghệ  thông tin như: công nghệ  Web, Internet, thương mại tin học.... Cùng với   những thành tựu về  công nghệ  sinh học: công nghệ  gen, nhân bản vô  tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế  thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh  tế tri thức. Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri  thức. Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và phát triển  kém so với khu vực và trên thế  giới. Do đó phát triển kinh tế  là chiến   lược cấp bách hàng đầu. Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến  hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể  không đặt   mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp  và phát triển cùng thế giới.     Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, tiến nhanh trên con đường   công nghiệp hoa, hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức, tìm  hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn  cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng   thể các mối liên hệ, trong sự phát triển vận động không ngừng của nền   kinh tế tri thức.
  2. 4 ­ Mục đích nghiên cứu:  nghiên cứu đặc điểm và sự  phát triển của nền  kinh tế  tri thức. Dựa vào những đặc điểm này nghiên cứu và đề  ra các  giải pháp cho sự phát triển kinh tế tri thức củaViệt Nam. ­ Phương pháp nghiên cứu: phương pháp biện chứng duy vật, phương  pháp phân tích tổng hợp ­ Phạm vi nghiên cứu: kinh tế Việt Nam ­ Kết cấu của Tiểu luận: ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham  khảo, tiểu luận chia thành 2 chương, chương 1 gồm 5 tiết, chương 2  gồm 4 tiết.
  3. 5 Chương 1:  Nền kinh tế tri thức và những đặc trưng cơ bản của nó 1.1. Sự ra đời của nền kinh tế Tri thức Từ những năm 80 trở lại đây, do tác động mạnh mẽ của khoa học  và công nghệ  hiện đại, đặc biệt công nghệ  thông tin, sinh học, vật liệu  mới, năng lượng...nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện,  chuyển từ  kinh tế  công nghiệp sang kinh tế  tri thức. Đây là một bước   ngoặt có ý nghĩa lịch sử  trọng đại đối với quá trình phát triển của nhân  loại. Lịch sử  xã hội loài người đã trải qua là nền kinh tế  nông nghiệp,  nền kinh tế công nghiệp và đang bước vào nền kinh tế tri thức.  1.2. Khái niệm Khái niệm nền kinh tế  tri thức ra đời từ  năm 1995 do Tổ  chức   OPDC nêu ra "Nền kinh tế  tri thức là nền kinh tế  trong đó sự  sản sinh,  truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự  phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống". Theo định nghĩa của WBI, kinh tế tri thức là: "Nền kinh tế dựa vào  tri thức như  động lực chính cho sự  tăng trưởng kinh tế. Có người cho   rằng: Kinh tế  tri thức là hình thức phát triển cao nhất hiện nay của nền  
  4. 6 kinh tế  hàng hoá, trong đó công thức cơ  bản Tiền ­ Hàng ­ Tiền được  thay thế bằng Tiền ­ Tri thức ­ Tiền và vai trò quyết định của tri thức. Trong nền kinh tế  tri thức, của cải làm ra chủ  yếu dựa vào cái   chưa biết, cái đã biết không có giá trị. Tìm cái chưa biết tức là tạo ra giá   trị mới. Khi phát hiện ra cái chưa biết, thì cũng tức là loại trừ cái đã biết,   cái cũ mất đi thay thế bằng cái mới; phát triển từ cái mới, không phải từ  số lượng lớn dần lên, nền kinh tế xã hội luôn đổi mới. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự  sản sinh ra, phổ cập và   giữ vai trò quyết định nhất đối với sự  phát triển kinh tế, tạo ra của cải,   nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế  tri thức là biểu hiện hay xu  hướng của nền kinh tế  hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám  được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn   lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông ­ lâm ­ ngư nghiệp   và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ  sở  tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử  dụng tri thức, phản ánh  sự  phát triển củalực lượng sản xuất  ở  trình độ  cao. Hoặc cũng được  hiểu, là một loại môi trường kinh tế­ kỹ  thuật, văn hoá­xã hội mới, có  những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới   và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ  tất yếu trở  thành nhân tố  sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội. 1.3. Công nghệ của nền kinh tế tri thức Sức mạnh của nền kinh tế tri thức dựa vào ba loại hình công nghệ,   được xem như là ba thành quả điển hình:
  5. 7 1.3.1. Công nghệ sinh học, bao gồm cả công nghệ gen. Bằng   công nghệ sinh học, con người có thể cải tạo được những yếu tố cơ bản   của thế giới hữu cơ, trong đó có cả bản thân sự sống của loài người. 1.3.2. Công nghệ  nano, dựa trên những thành quả  của việc  sắp sếp lại cấu trúc nguyên tử, thông qua đó con người có thể  tác động  cả vào bản chất của thế giới vô cơ. 1.3.3. Công nghệ  tin học, thông tin (ICT) với các siêu máy  tính. Công nghệ  tin học chính là công nghệ  trí tuệ  điển hình. Con người  nhờ vào đó mà tổ chức quản lý, điều hành và thực hiện các quy trình sản  xuất hết sức tinh vi, phức tạp mà con người không thể nào thực hiện nổi,   thậm chí không nghĩ tới quá khứ  tồn tại của mình. Cũng nhờ  có công   nghệ  tin học mà con người có thể  làm phong phú lên gấp nhiều lần các  mối quan hệ trong đời sống xã hội, giữa con người với con người. 1.4. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức Kinh tế  tri thức là một khái niệm mà nó không có trong chủ  nghĩa   Mác Lê nin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nó ra đời trong  bối cảnh nền công nghệ  thông tin toàn cầu phát triển mạnh mẽ  với tốc   độ  chưa từng có. Đặc trưng cơ  bản của nền kinh tế tri thức là ở  đó con  người sử dụng các loại hình công cụ chủ yếu là để thực hiện các thao tác  trí tuệ. Nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ yếu: 1.4.1. Sự  chuyển đổi cơ  cấu kinh tế. ý tưởng đổi mới và  phát triển công nghệ  mới trở  thành chìa khoá cho việc tạo ra việc làm 
  6. 8 mới   và nâng  cao  chất  lượng  cuộc  sống. Nền kinh  tế  có  tốc   độ  tăng  trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh 1.4.2. ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi  trong mọi lĩnh vực; mạng thông tin đa phương tiện phủ  khắp, kết nối   hầu hết các tổ  chức, gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng.   Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin. 1.4.3. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan  trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các   doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có doanh nghiệp  chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi đó là doanh nghiệp tri thức, trong   đó khoa học sản xuất được thể chế hoá, không còn phân biệt giữa phòng  thí nghiệm và công xưởng, những người làm việc trong đó họ vừa là nhà  nghiên cứu vừa là nhà sản xuất, họ là những công nhân trí thức... 1.4.4. Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư  cho giáo  dục khoa học chiếm tỷ lệ cao. Đầu tư vô hình (con người, giáo dục, khoa   học...) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất). Phát triển con người trở  thành nhiệm vụ  trọng tâm. Hệ  thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi  người có thể  học tập  ở  bất cứ  lúc nào. Mạng thông tin có ý nghĩa quan   trọng, đảm bảo cho việc học tập suốt đời. 1.4.5. Tri thức trở  thành vốn quý nhất trong nền kinh tế  tri   thức. Tri thức là nguồnlực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông  tin được tăng lên khi sử dụng, không mất đi khi sử dụng (các nguồn vốn  khác bị mất đi khi sử dụng).
  7. 9 1.4.6. Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận.  Đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi  mới nhanh, vòng đời công nghệ  rút ngắn, có khi chỉ  mấy năm, thậm chí  mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi  mới công nghệ và sản phẩm. 1.4.7. Dân chủ hoá, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá.   Mọi người đều dễ  dàng truy cập thông tin mình cần. Điều này dẫn đến  dân chủ  hoá các hoạt động và tổ  chức điều hành xã hội. Người dân nào  cũng có thể được thông tin kịp thời về các chính sách của Nhà nước, các  tổ chức và có ý kiến ngay khi thấy không phù hợp. 1.4.8. Các doanh nghiệp vừa hợp tác vừa cạnh tranh để  phát  triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh lên  thì các công ty khác phải tìm cách sáp nhập hoặc chuyển hướng hoạt  động. 1.4.9. Nền kinh tế  toàn cầu hoá. Thị  trường và sản phẩm  mang tính toàn cầu, một sản phẩm được sản xuất từ bất kỳ nơi nào cũng  có thể  nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế  giới hoặc sản phẩm phần   lớn được thực hiện từ  nhiều nơi trên thế  giới, kết quả  cao của công ty   ảo, làm việc từ xa. 1.4.10. Sự  thách đó văn hoá. Trong nền kinh tế  tri thức­ xã  hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động   lực thúc đẩy sự  phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ,   trình độ  văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá  phong ohú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người dân cũng tăng cao, 
  8. 10 giao lưu văn hoá thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá giao thoa,  đễ  tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại để  phát triển. Nhưng các   nền văn hoá cũng đứng trước nguy cơ rủi ro cao, dễ bị pha tạp, lai căng,   dễ mất bản sắc văn hoá dân tộc. 1.5. Tiêu chí xác định nền kinh tế tri thức: 1.5.1. GDP, trên 70% là do các ngành sản xuất và dịch vụ  ứng dụng công nghệ cao mang lại. 1.5.2. Cơ  cấu giá trị  gia tăng, trên 70 % là kết quả  của lao  động trí óc 1.5.3. Lao động xã hội, trên 70% lực lượng lao động là lao   động trí thức 1.5.4. Vốn sản xuất, trên 70% là vốn về con người. Chương 2: Những cơ  hội và thách thức đối với nền kinh tế  Việt  Nam Ở  Việt Nam, ngay từ  những năm 90 của thế  kỷ  XX, Đảng Cộng   sản Việt Nam đã xác định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ   hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả  các nước khác nhau”.   Gần đây nhất, Đảng ta đã xác định gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa   với phát triển kinh tế  tri thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại   hóa với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường” (Văn kiện Đại 
  9. 11 hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam), trong đó Đảng ta khẳng định, phát  triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình  phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có thể thấy ngay từ thời kỳ đầu,  Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho việc hình thành và phát  triển kinh tế  tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về  cơ  bản nền kinh tế  Việt   Nam vẫn là nền kinh tế  mang những dấu  ấn của kinh tế  nông nghiệp,  đang chuyển dần sang kinh tế  công nghiệp. Vị  trí của Việt Nam trong  nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức   của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt   Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ  số  sáng tạo chỉ  là 2,72, trong khi đó  chỉ số  KEI của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44;  Malaysia là 6,07; Thái Lan là 5,52. 2.1 Cơ hội đối với Việt nam Việt nam đang đứng trước cơ  hội tiếp cận nền kinh tế  tri thức,   nếu bỏ  lỡ không biết tận dụng cơ  hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt   kịp tri thức mới của thời đại, đi tắt vào những ngành kinh tế  dựa vào  công nghệ  cao, dựa vào tri thức thì sẽ  tụt hậu. Đại hội VIII đã khẳng  định phải: "đi tắt đón đầu" nếu không làm được thế thì sự tụt hậu là rất   dễ xảy ra. Có ý kiến cho rằng nền kinh tế  nước ta phải phát triển theo mô  hình hai tốc độ: ­ Vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất  những ngành công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và  bức xúc của người dân.
  10. 12 ­ Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế  dựa vào tri  thức và công nghệ  cao, nhất là công nghệ  thông tin để  hiện đại hoá và  nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc   làm mới, đạt tốc độ cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. ­ Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mô  hình công nghiệp hoá của các nước khác. Và cũng không nên hiểu công  nghiệp hoá là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự  chuyển nền  kinh tế  từ  tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng thấp kém, phương   pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ  công là chính sang nền kinh tế  có   năng   suất   chất   lượng   hiệu   quả   cao,   phương   pháp   sản   xuất   công  nghiệp dựa vào tiến bộ  khoa học và công nghệ  mới nhất. Vì vậy công   nghiệp hoá phải đi đôi với cơ giới hoá. Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế  tri   thức, nước ta không thể  bỏ  lỡ  cơ  hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền   kinh tế  tri thức, rút ngắn khoảng cách với các nước, như  vậy nền công  nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền kinh  tế  từ  kinh tế  nông nghiệp sang công nghiệp và từ  công nghiệp sang tri   thức. Cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời các tri thức và công  nghệ  mới nhất để  hiện đại hoá nông nghiệp, đồng thời phát triển các   ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất. Về  công nghệ  thông tin thì Việt nam, công nghệ  thông tin cũng là  một trong các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri  thức và xã hội thông tin. Công nghệ thông tin phát triển không những góp  phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ của cả dân tộc mà còn có trình  độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
  11. 13 Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu  hoá, toàn cầu hoá lại tạo ra các cơ hội giúp các nước tận dụng được vốn   đầu tư nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu vốn từ nội bộ nền kinh   tế: Ở Việt nam trong 13 năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đã   có gần 3000 dự   án được  đăng ký với số  vốn  đã được  giải ngân vào  khoảng 20 tỷ USD. Mặc dù còn ít về  số  lượng, nhỏ  bé về  quy mô, nhưng chúng ta   cũng có được khoảng vài chục dự án và khoảng nửa tỷ USD được đầu tư  nước ngoài. Điều này thúc đẩy quá trình hội nhập của chúng ta vào khu  vực toàn cầu.   2.2  Những thách thức Chúng ta đang sống trong một thời  đại bùng nổ  thông tin và tri  thức. Nói về  tri thức khoa học kỹ  thuật trong thế  kỷ  19, cứ  50 năm thì  tăng gấp đôi, giữa thế kỷ 20: 10 năm, hiện nay là 3­5 năm. Một số nước   phát triển sớm bước vào xây dựng kinh tế  tri thức đã đặt ra các nước  đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài nguyên và sức lao động bị  giảm rõ  rệt dẫn đến làm giảm thu nhập quốc dân.              Một vấn đề  đáng lo ngại nữa là nạn chất xám đã làm cho các  nước đã nghèo lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi  cái nghèo. Trên thế  giới khoảng 20% dân số  giàu  ở  các nước phát triển  chiếm tới 86% GDP, trong khi 20% dân số  nghèo nhất chỉ  chiếm 1%   GDP, tương tự   ở  công nghiệp là  44, 5% và 8%. Qua đó có thể  thấy sự  giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang là một thách thức đối với các nhà  hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.
  12. 14 Trong lĩnh vực thông tin thì ở  Việt Nam công nghệ thông tin được coi là  một trong những động lực quan trọng nhất của sự  phát triển kinh tế  tri   thức, tuy nhiên công nghệ  thông tin của nước ta vẫn còn đang  ở  tình  trạng lạc hậu kém hơn nhiều các nước trong khu vực.                    Để  hội nhập thành công Việt nam cần tiếp tục chính sách đối  ngoại đa phương, giảm và tiến tới hàng rào bảo hộ và nâng cao năng lực  cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cần đổi mới tư  duy về  công tác  cán bộ  có khả  năng thích  ứng với cơ  chế  thị  trường và hội nhập ngày  nay. 2.3  Tình hình khoa học công nghệ ở Việt Nam 2.3.1 Những yếu kém:              Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung   KH&CN nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so   với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động  lực phát triển kinh tế ­ xã hội. Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém: Đội ngũ cán bộ  KH&CN còn thiếu cán bộ  đầu đàn giỏi, các "tổng công  trình sư", đặc biệt là thiếu cán bộ  KH&CN trẻ  kế  cận có trình độ  cao.  Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp   lý. Đầu tư  của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư  từ  khu  vực doanh nghiệp. Trang thiết bị  của các viện nghiên cứu, trường đại  học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở  sản xuất tiên tiến cùng ngành.
  13. 15 Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn   nhân   lực   KH&CN   chất   lượng   cao,   đặc   biệt   đối   với   những   lĩnh   vực   KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự  nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hệ  thống dịch vụ  KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư  vấn  chuyển giao công nghệ, sở  hữu trí tuệ, tiêu chuẩn ­  đo lường ­ chất  lượng còn yếu kém cả  về  cơ  sở  vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ  đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế. Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục ­ đào  tạo và sản xuất ­ kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức  nghiên cứu ­ phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp. So với các  nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách rất lớn  về  tiềm lực và kết quả  hoạt động KH&CN: tỷ  lệ  cán bộ  nghiên cứu   KH&CN trong dân số và mức đầu tư  cho nghiên cứu khoa học theo đầu  người thấp; các kết quả nghiên cứu ­ phát triển theo chuẩn mực quốc tế  còn   rất   ít. Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được  kịp thời nhiều vấn đề  của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ  và   đáp   ứng   được   yêu   cầu   của   phát   triển   kinh   tế   ­   xã   hội.  Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu: Ngoài những công nghệ  tiên tiến được đầu tư  mới trong một số  ngành,  lĩnh vực như bưu chính ­ viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản  xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ  công nghệ  của các ngành sản   xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 ­ 3 thế  h ệ  công nghệ  so với các   nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các 
  14. 16 doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và  khu vực. Cơ  chế  quản lý khoa học và công nghệ  chậm được đổi mới, còn mang  nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ  yếu vào các yếu tố  đầu   vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra  và  ứng dụng kết quả  nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ  KH&CN   chưa thực sự  gắn kết chặt chẽ  với nhu cầu phát triển kinh tế  ­ xã hội.  Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả  nghiên cứu chưa tương hợp với   chuẩn mực quốc tế. Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao   động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  Các tổ  chức KH&CN chưa có được đầy đủ  quyền tự  chủ  về  kế  hoạch,   tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế  để  phát huy tính năng động, sáng   tạo. Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với   hoạt động KH&CN, làm hạn chế  khả  năng lưu chuyển và đổi mới cán  bộ. Thiếu cơ  chế  đảm bảo để  cán bộ  KH&CN được tự  do chính kiến,  phát huy khả  năng sáng tạo, tự  chịu trách nhiệm trong khuôn khổ  pháp  luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ  KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế  độ  tiền lương   còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ  KH&CN toàn tâm với   sự   nghiệp   KH&CN. Cơ  chế  quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi   cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách 
  15. 17 nhà nước; cơ  chế  tự  chủ  về  tài chính của các tổ  chức KH&CN chưa đi   liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế. Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ  và  lưu thông kết quả  nghiên cứu KH&CN còn bị  hạn chế  do thiếu các tổ  chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ  thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.            Tóm lại, công tác quản lý nhà nước về KH&CN còn chưa đổi mới  kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường. 2.3.2 Những nguyên nhân chủ yếu Đường lối chính sách phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước  chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn: Quan điểm KH&CN là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được  khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa được  các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ  và triển khai trong   thực tiễn phát triển kinh tế  ­ xã hội.Nhiều chủ  trương, chính sách của  Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN chậm được thể chế  hoá bằng   các văn bản quy phạm pháp luật; việc tổ  chức, chỉ  đạo thực hiện chính  sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn chế. Năng lực của các cơ  quan tham mưu, quản lý KH&CN các cấp còn yếu  kém: Cơ  chế  kế  hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói   quen của không ít cán bộ  KH&CN và quản lý KH&CN đã tạo ra sức  ỳ  không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về  đổi mới quản lý KH&CN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội  chủ nghĩa, bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
  16. 18 Chưa   làm   rõ   trách   nhiệm   của   Nhà   nước   đối   với   những   hoạt   động   KH&CN mà Nhà nước cần đầu tư  phát triển như: các lĩnh vực KH&CN   trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển; nghiên  cứu cơ  bản; nghiên cứu mang tính công ích, v.v...; cũng như  chưa có cơ  chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động KH&CN cần và có thể  vận dụng cơ chế thị trường, như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công  nghệ, dịch vụ KH&CN.                Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự  nghiệp trong hệ  thống KH&CN chưa  được tách biệt rõ ràng, làm cho  công tác quản lý các tổ  chức KH&CN còn mang nặng tính hành chính. Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến về gắn kết   giữa nghiên cứu KH&CN với giáo dục ­ đào tạo và sản xuất ­ kinh doanh. Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp: Đầu tư  xây dựng tiềm lực KH&CN trong thời gian dài còn chưa được  chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm,  ưu tiên,   dẫn   đến   cơ   sở   hạ   tầng   KH&CN   lạc   hậu,   hiệu   quả   đầu   tư   thấp. Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh   vực KH&CN  ưu tiên, đặc biệt là cán bộ  KH&CN đầu ngành, các "tổng  công trình sư".              Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát   triển khoa học và công nghệ: Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì  sự  bao cấp gián tiếp của Nhà nước, độc quyền của doanh nghiệp trong  nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp nhà nước  có tư tưởng  ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng các kết quả  nghiên cứu  KH&CN và đổi mới công nghệ. Thiếu cơ  chế, chính sách hữu hiệu để 
  17. 19 gắn kết giữa KH&CN với sản xuất ­ kinh doanh và khuyến khích doanh  nghiệp  ứng dụng kết quả  nghiên cứu KH&CN. Hệ  thống tài chính, tiền   tệ  kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự  huy  động được nguồn vốn để đầu tư cho KH&CN. 2.4 Những giải pháp cần thiết và cấp bách cho nền kinh tế  Việt Nam hiện nay. Việt Nam là nước đi sau có nhiều khả năng tiếp nhận những thành  tựu Khoa học­Công nghệ  của thế  giới. Do đó có thể  rút ngắn được quá  trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước  ở  các nước công nghiệp   phát triển, kinh tế  tri thức đang có những bước phát triển mạnh. Việt   Nam không chỉ  phải tích cực chuẩn bị  cho bước phát triển này, mà cần  phải tiếp nhận kinh tế  tri thức  ở  những ngành, lĩnh vực mà ta có khả  năng,  ưu thế. Hội nhập kinh tế  quốc tế  và khu vực vừa đặt ra những   thách thức song cũng cho ta nhiều cơ hội để nâng cao trình độ Khoa học ­  Công  nghệ  vàxây  dựng  tiềm  lực  khoa  học.  Đứng   trước  tình hình  đó,  Đảng và Nhà nước đã vạch ra chiến lược: Phát triển đồng bộ  các ngành khoa học, gắn nghiên cứu khoa học  với sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để Khoa học­Công nghệ thực sự  là động lực phát triển, vừa đảm bảo thực hiện công nghiệp hoá hiện đại   hoá vừa tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đồng thời xây dựng tiềm  lực Khoa học­Công nghệ, xây dựng cơsở để từng bước phát triển kinh tế  tri thức ở Việt Nam. cụ thể là một số giải pháp sau: ­ Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ  biến nghị  quyết đại hội IX của Đảng, nâng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các  
  18. 20 ngành về vai trò nền tảng và động lực của Khoa học­Công nghệ trong sự  nghiệp công nghiệp hoá­hiện đại hoá đất nước. ­ Hai là, đổi mới mạnh mẽ  hơn nữa cơ  chế quản lí kinh tế  nhằm   tạo lập môi trường kinh tế­xã hội theo hướng tạo điều kiện, vừa khuyến   khích, vừa ràng buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu   tư  vào nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao tính cạnh   tranh thị trường trong nước và nước ngoài. ­ Ba là, đưa luật Khoa học­Công nghệ vào cuộc sống rộng rãi hơn.  Tiến hành tổng kết thực tiễn hoạt động Khoa học­Công nghệ những năm  qua và kịp thời thể  chế  hoá những mô hình tốt, cách làm hay đã được  thực tiễn thử thách và chứng minh. Đồng thời tích cực đổi mới về cơ bản  cơ  chế  quản lí Khoa học­Công nghệ  theo tinh thần luật Khoa học­Công  nghệ  để  nhanh chongs nâng cao hiệu quả  sử  dụng các nguồn lực Khoa   học­Công nghệ. ­ Bốn là, tháo gỡ  các khó khăn, các ách tắc để  mở  rộng và phát  triển khai thông thị  trường Khoa học­Công nghệ. đây là nhiệm vụ  hết  sức cấp bách, cơ  bản và lâu dài, để  phát huy hết vai trò động lực của   Khoa học­Công nghệ  trong sự nghiệp công nghiệp hoá­hiện đại hoá đất   nước. ­ Năm là, chú trọng và ưu tiên cho nghiên cứu và thực thi các chính   sách sử  dụng và đãi ngộ  nhân tài tri thức khoa học bên cạnh các biện   pháp chăm lo đào tạo nhân lực Khoa học­Công nghệ. ­ Sáu là, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng Khoa học­Công nghệ  để  nhanhchóng hội nhập với thế  giới và khu vực, đặc biệt là cơ  sở  hạ 
  19. 21 tầng về thông tin Khoa học ­ Công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu cho các  phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Đó là những giải pháp cho nền kinh tế nước ta hiện nay. Kết luận: Kinh tế tri thức là con đường ta cần đi và đi càng sớm càng tốt. Có những  nghiên cứu chỉ ra kinh tế tri thức đã xuất hiện ở Việt Nam qua sự phát  triển CNTT&TT. Theo đuổi khoa học hiện đại và công nghệ cao là một  cách ta cần làm trong kinh tế tri thức, nhưng không phải duy nhất. Để  một đất nước còn hạn chế về khoa học và công nghệ như ta có được sản  phẩm công nghệ cao cạnh tranh với thiên hạ là vô cùng gian truân.
  20. 22 Cần nghĩ về  tính đa dạng của kinh tế tri thức khi ta hướng tới nền kinh   tế  này, phải đầu tư  toàn diện và cơ  bản tất cả  các lĩnh vực giáo dục và   đào tạo, khoa học và công nghệ; lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ  Chí Minh  làm kim chỉ nam cho mọi vấn đề thực tiễn. Kinh tế tri thức là là động lực, là nền tảng để phát triển con đường cách   mạng đi lên Chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra cho dân  tộc ta. Tài liệu tham khảo chính 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đảng lần IX. 2. Đặng Hữu(2005), Kinh tế tri thức: Thời cơ và thách thức đối với sự  phát triển của Việt Nam, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia. 3.   PGS­TS   Trần   Đình   Thiên   (2014),  Diễn   đàn   kinh   tế   mùa   thu,   Viện  trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0