intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

Chia sẻ: Nguyên Khê | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

153
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận với đề tài "Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta" có nội dung gồm 3 chương: chương 1 cái riêng và cái chung dưới cái nhìn của triết học Macxit, chương 2 cái chung và cái riêng nhìn dưới vấn đề kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới, chương 3 những giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trên cơ sở nguyên lý về cái chung và cái riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

  1. LỜI NÓI ĐẦU Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại ph ải trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta v ốn đã l ạc h ậu lại càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng t ạo, sự thách th ức đua tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại h ội Đảng VI, Đ ảng ta k ịp th ời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghi ệm c ủa nhân lo ại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc bi ệt là ph ạm trù triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường. Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và nhà nước ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề " Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta" làm công trình nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này, tôi hi vọng có th ể góp m ột ph ần nh ỏ c ủa mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đ ổi mới của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với m ột n ền kinh t ế 1
  2. mới được áp dụng ở Việt Nam- nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện thế giới hiện nay. 2
  3. CHƯƠNG 1 CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI NHÌN CỦA TRIẾT HỌC MACXIT 1.1. Các khái niệm: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một s ố s ự vật hiện tuợng quá trình khác nhau.Mỗi sự vật hiện tuợng đó được gọi là một cái riêng ,đồng thời chúng ta cũng thấy giữa chung lại có mặt giống nhau tưc là tồn tại cái chung giữa chúng . Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, m ột hi ện t ượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ: Một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật n ào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một s ự ki ện riêng lẻ nào đó, như là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con người nào đó: Huệ, Trang,... cũng là cái riêng. Cái riêng còn có th ể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng h ơn, ph ổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc s ự vật khác. Tính ch ất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân n ặng, vóc dáng... của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác. Cần phân biệt “cái riêng” với cái “đơn nhất”. Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đ ặc đi ểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định ,mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ như qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng dư là nh ững đ ặc đi ểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. 3
  4. 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất th ượng đế với cái chung và cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản sinh ra cái riêng. Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết h ọc duy danh như P. Abơla (1079- 1142), Đumxcot (1265- 1308) cho rằng ch ỉ những sự v ật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên h ệ biện chứng m ật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà bi ểu hi ện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ qui luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không th ế thì không phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được th ể hiện ra ngoài dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái Riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập ,Thí dụ:Mỗi con người là m ột cái riêng nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoàI mối liên h ệ với tự nhiên và xã hội. Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu,quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX,dó là cái chung .Nh ư v ậy sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung Cái chung là bộ phận,nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn bộ nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài đặc điểm chung ,cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản ánh những thuộc tính ,nh ững m ối liên h ệ ổn định,tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại .Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất,quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái chung. Có thể khái quát một công thức như sau: Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác 4
  5. quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ ph ần b ản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn b ộ vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng th ời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách bi ệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự " va ch ạm" gi ữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. V ề điểm này, Lênin nói: "... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung". Ví dụ, nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái " riêng", chúng có trọng lượng nguyên tử của mình, có hoá trị của mình, có điện tích h ạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình... Nhưng tất cả những nguyên tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đ ều có những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên t ử của một nguyên tố khác. Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến. Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là c ơ ch ế bao c ấp; nhưng từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế th ị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nh ất, ch ỉ còn t ồn t ại trong một số ngành như an ninh quốc phòng... Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng… nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối ch ỉ là một đ ặc đi ểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví dụ khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn 5
  6. nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa h ồng là hoa”, “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan h ệ bao trùm c ủa cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên nh ững định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra kh ỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ nh ững đặc tính c ủa s ự vật. Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất” ,nên trong hoạt động thực ti ễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nh ất” có l ợi cho con người trở thành”cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”. Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đ ưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt nam một cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 6
  7. CHƯƠNG 2: CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ KINH TẾ VIỆT NAM VÀ KINH TẾ THẾ GIỚI Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh t ế n ước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho s ự v ận động c ủa n ền kinh t ế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. Thị trường trong nước gắn liền với thị trương thế giới . Nền Kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Chính điều này tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh của nền kinh tế thế giới Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát tri ển kinh t ế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nh ập qu ốc t ế, s ự c ạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về ch ất, không còn là dân s ố đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh t ế. Mục đích c ủa các chính sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật ch ất trong qu ốc gia c ủa mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân đ ược c ải thi ện, th ất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì s ức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì vi ệc tiếp thu những đặc trưng cơ bản những nét chung trong tổng thể đó để hoàn thiện nền kinh tế Việt Nam là tất yếu . Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu một cách hình thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù h ợp với đièu ki ện đất nước .Phải giữ dược nhưng nét đặc trưng riêng tưc là ph ải bảo t ồn cái đơn nhất của kinh tế Việt Nam từ đó còn phải xây dựng một n ền kinh t ế th ị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với n ền kinh tế thị trường TBCN. 7
  8. CHƯƠNG 3 NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 3.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: 3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường: Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn t ại m ột cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và l ưu thông hàng hoá. ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường. "Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu s ắc h ơn" (1). Theo David Begg, thị trường "là sự biểu hiện thu g ọn c ủa quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các m ặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cái quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả". Ta cũng có thể định nghĩa th ị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều ch ỉnh nền kinh t ế, b ảo đ ảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá c ả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu... 3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kin h tế nước ta là kinh tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá n ặng nề. Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao c ấp, k ế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Trong th ời gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính 8
  9. ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công c ụ k ế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật ch ất quan tr ọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến. Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các n ền kinh t ế và s ự chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, n ước ta đ ồng th ời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, th ậm chí ở một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là t ừ những sai lầm cơ bản như: • Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ ph ận tài sản vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang r ất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2, 2%. • Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong đi ều ki ện ch ưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình th ức v ừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xu ất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã h ội đ ạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người 9
  10. nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá t ập trung nh ư tr ước. V ới tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đ ại h ội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và th ực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ ch ế kế hoạch hoá sang cơ ch ế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác đ ịnh vi ệc đ ổi m ới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên th ực t ế đang di ễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là m ột sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng nh ư trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ bản, cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà không còn đơn thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng có của CNTB; nước ta không đi theo CNTB thị cũng không th ể áp dụng kinh t ế th ị trường trong phát triển kinh tế). Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế th ị trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh t ế và với xu thế của thời đại: • Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu nh ư không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. • Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất c ứng nh ắc nên nó ch ỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh t ế ch ỉ huy ở n ước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. 10
  11. • Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhi ều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được nh ững mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thi ệp c ủa nhà nước còn rất thấp. • Xu hướng chung phát triển kinh tế của th ế giới là s ự phát tri ển kinh t ế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc t ế chính là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Kinh tế đã trở thành thước đo ch ủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không th ể thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép ch ỉ ti ếp thu hình thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn ph ải xây d ựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, ph ủ định bi ện chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN. 3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: 3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới: Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ... Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân công lao động thành nhiều ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận (không còn chỉ chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và lợi nhuận 11
  12. trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành m ột lớp ng ười m ới năng động hơn, bám sát thị trường hơn và "biết làm kinh tế hơn". ở nước ta hiện nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị trường: tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực giàu nghèo quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối…. Kinh tế thị trường nước ta cũng có sự quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó cùng những tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn t ồn t ại âm ỉ trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người. Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không th ể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nh ập thành một th ị trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các lo ại hàng hoá trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá qu ốc tế. 3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường đ ịnh h ướng XHCN ở Việt nam: Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không giản đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quy ết đồng b ộ t ừ v ấn đ ề s ở hữu, quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghi ệp hoá, hi ện đ ại hoá, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta ch ỉ rõ: Xây d ựng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định v ề mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà ch ỉ là m ột công cụ, giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nh ằm m ục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với việc s ử dụng động lực 12
  13. của kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển l ực l ượng sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là nh ững y ếu kém về quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ con người với con ng ười, một xã hội giàu tình thương và lòng nhân ái; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn. Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nh ưng v ẫn gi ữ gìn đ ược đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại, khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những m ạch máu ch ủ y ếu làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng. Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai h ợp pháp, đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ trương ch ống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đ ạo đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với m ục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có động lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng ki ến cá nhân, chấp nhận phân hoá do lao động sáng t ạo (nh ưng kiên quy ết xoá b ỏ phân hoá do bất công). Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc h ậu, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả là hiện nay, trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự túc là ch ủ yếu, cơ sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/ người, trình độ quản lý kinh t ế 13
  14. còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có th ời gian làm quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế. Không chỉ có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chi ến tranh khốc liệt, kéo dài. Do hai cuộc chiến tranh đó mà c ơ s ở h ạ t ầng v ốn đã thấp lại còn bị tàn phá nặng nề. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế th ị trường th ực s ự hi ện đ ại, với các công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản v ốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ. Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối lo ạn và nhi ều yếu tố tự phát. Ngoài ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình thức thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng manh nha nh ư th ị trường ti ền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động..., nên chưa th ể thực sự hoà nh ập với thị trường thế giới. Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo cao như trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành ph ần kinh t ế truy ền thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm trai... Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát tri ển kinh t ế, trong vốn từ truyền thông dường như rất xa lạ với thuật ngữ "làm kinh tế". Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thu ộc "th ế h ệ cũ"- thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị ứng" với kinh tế th ị trường, coi kinh tế thị trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình không thể ch ấp nhận, và làm theo được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với t ốc đ ộ phát triển của kinh tế thị trường. Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã h ội, bù đắp nh ững tổn th ất cho những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những làng tình thương giúp đỡ nhiều người không nơi nương tựa..., kiểm soát, giảm thiểu những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra; đó là nh ững bi ện pháp gi ảm khuyết tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ đó, nhà nước không còn là "kẻ gác cổng trung thành cho sở hữu tư nhân" mà đã 14
  15. trở thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã h ội, kh ống ch ế khuyết tật xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế, h ội nh ập với kinh t ế th ị tr ường th ế gi ới, ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc. 3.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại: Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã th ể hi ện s ự năng động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị trường) hơn h ẳn so với nh ững năm tám mươi. Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh t ế th ị trường theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) củaViệt nam mà nền kinh t ế cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể: • So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập kh ẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi th ế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. •Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo l ớn nh ất th ế giới. •Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt nam đã tăng đáng kể sau vài năm đổi mới: Chỉ tiêu 1971 1983 1986 1996 Thu nhập quốc dân (tỷ đô la) 4,97 5,14 5,78 12,46 Trên đầu người 101 94 101 175 Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới ( Nhà xuất bản thống kê 1996) Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang ki ểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc l ợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội... 15
  16. 3.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng củaViệt Nam Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở v ật chất nghèo nàn. Mặt khác, có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là l ịch s ử của những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không ph ải là lịch sử của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm với cơ ch ế bao cấp nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh t ế n ước ta vốn đã bị tàn phá nặng nề còn "chây lười", ỷ lại vào nguồn tài trợ của nước ngoài. Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người. Xuất phát từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu qu ả đó, nền kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển th ấp, c ơ c ấu qu ản lý còn non yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các nước phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh t ế th ị tr ường tự do sang kinh tế thị trường hiện đại như là hướng phát tri ển kinh t ế th ị trường chung của toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh t ế th ị trường hiện đại. Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta ph ải ch ấp nhận những thách thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải đào tạo được "lớp người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm thấy lạ lẫm với những máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động ph ải có trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát tri ển khoa học, giáo dục đào tạo, cũng như có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ gìn nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. Nước ta có vị trí vô cùng thuận lợi, đồng th ời l ại có nhi ều danh lam thắng cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ "thèm" được có điều kiện như Việt nam về vị trí địa lý, và nếu có được thì h ọ s ẽ thu v ề m ột doanh thu khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du l ịch ở nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: ph ải đ ẩy m ạnh phát triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu ngoại 16
  17. tệ từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành ngh ề khác trong nền kinh tế. Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng ngh ề th ủ công mỹ nghệ nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ chẳng hạn. Nhiều nước tỏ ra ưa chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nh ưng do hàng rào thuế quan, phong cách quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp d ụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng s ản xu ất ra ít, không đủ trang trải cho những lệ phí phải chịu do thuế quan nên ta đã mất nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng ngh ề th ủ công như Đảng ta đã dự kiến đòi hỏi một sự đổi mới toàn diện trong cách làm việc của những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong s ản xu ất, không chỉ đơn thuần làm bằng tay như trước; đồng thời phải làm giảm sự rối rắm trong hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước ngoài vào Việ nam. Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành ph ần kinh t ế, về hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN n ền kinh t ế th ị trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN th ực s ự thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta v ẫn còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh c ủa đ ơn v ị. Điều này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Theo thống kê, hàng năm tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ có 25% dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang l ại của hai thành phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư. Trong những điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường h ơn và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có th ể ti ếp t ục giữ vai trò chủ đạo, định hướng như trước. Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu c ầu đ ặt ra là ph ải thi ết 17
  18. lập luật pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật, sông văn minh, có văn hóa, và t ạo một môi tr ường c ạnh tranh công bằng, lạnh mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh. Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự quản lý của nhà nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát tri ển xã hội và con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế th ị trường mang lại. 18
  19. KẾT LUẬN Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhi ều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó ch ặt ch ẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng đ ể th ể hiện s ự tồn tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định h ướng XHCN ở Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản ch ất của kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt nam. Chủ trương lãnh đạo của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt trong nh ận thức nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót khiến cho kinh tế thị trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng nh ư kh ắc phục hoàn toàn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và ch ưa thể hiện được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc c ủa Việt nam. Trong việc quản lý vẫn còn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc làm ăn. Vì th ế mà nhi ều doanh nghi ệp n ước ngoài không muốn đầu tư vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị trường rộng mở, có nhiều tiềm năng để phát triển. 19
  20. TÀI LIỆU THAM KHẢO Mai Ngọc Cường Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường Nguyễn Sinh Cúc Kinh tế thị trường định hướng XHCN NXBTK Phạm Việt Đài Mặt trái của cơ chế thị trường Giáo trình triết học Mác- Lênin NXBCTQG Lê Trần Hảo Thống kê thương mại trong nền kinh tế thị NXBTK trường Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội V. I. Lênin Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường Đặng Kim Nhung Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế th ị trường và vận dụng vào Việt nam Những vấn đề: Tổ chức và điều tiết thị trường. Một số kinh nghiệm nước ngoài Tạp chí cộng sản số 9/ 1998 Tạp chí kinh tế và phát triển số 13/ 1996 Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4/ 1996 Tạp chí phát triển kinh tế số 68/ 1996 Tạp chí thương mại số 5/ 1996 Đỗ Đức Thịnh Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển ở châu á Tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay Phan Quang Tuệ Một số học thuyết kinh tế tiền tệ của các nhà kinh tế thị trường Vũ Huy Từ Doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường ở Việt nam 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2