
Tiểu luận: Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244
lượt xem 17
download

Tiểu luận: Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244 trình bày các nội dung như sau: nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng nhu cầu vốn kinh doanh tại công ty cổ phần ACC-244 và các giải pháp tăng huy động vốn cho doanh nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN SAU ĐẠI HỌC ------------------------- Tiểu luận “Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244” Nhóm học viên thực hiện: 1. Tống Quốc Tuấn MSHV: CH210535 2. Phạm Văn Tùng MSHV: CH210537 3. Anousith Phoutthavong MSHV: CH211010 Lớp: Tài chính - Ngân hàng/CHK21E Hà Nội 2013
- LỜI MỞ ĐẦU Quá trình cung ứng các nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp được gọi là sự tài trợ, bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo nguồn và đảm bảo các nguồn lực tài chính để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Như vậy tài trợ ở đây khác với hoạt động tài trợ mang tính trợ cấp, trợ giúp hoặc cho không. Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong điièu kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp đựoc đa dạng hóa. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài chính của một quốc gia, tùy theo loại hình của doanh nghiệp và các đặc điểm hoạt động kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Vì vậy để lựa chọn được nguồn vốn và phương thức huy động vốn phù hợp có ý nghĩa rất quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn đó nhóm tôi đã chọn đề tài: “Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244” Đề tài gồm có ba chương: Chương I: Nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng nhu cầu vốn kinh doanh tại công ty cổ phần ACC-244 Chương III: Giải pháp tăng huy động vốn cho doanh nghiệp
- CHƯƠNG I NHU CẦU TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1. Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) 1.1. Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ Thực tế trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này là tiêu thức dùng để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu thức phân loại đó có hai tiêu thức được sử dụng ở phần lớn các nước là quy mô vốn và số lượng lao động. M ặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp còn tuỳ thuộc vào những yếu tố như: Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau. Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng sau: Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam – NXB CTQG, tr2
- Tại Việt Nam tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện trong nghị định 90/2001/NĐ ngày 23-11-2001 của Chính Phủ. Theo quy định này doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 30 người”. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn một trong hai điều kiện trên đều được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo cách phân loại này ở Việt Nam có khoảng 88% trong tổng số doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể là 76% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khu vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 93% xét về vốn và 95% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước. 1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh 1.2.1. Tính chất hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến và dịch vụ, tức là gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn với tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh tế như các dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hoá, dịch vụ sinh hoạt và giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ. Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng với tư cách là nhà sản xuất toàn bộ. Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế về tính linh hoạt. Có thể nói tính linh hoạt là đặc tính trội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhờ cấu trúc và quy mô nhỏ nên khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh thậm chí cả địa điểm kinh doanh được coi là mặt mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.2.2. Về nguồn lực vật chất Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất đai và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này là do tôn chỉ và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp. M ặt khác còn do sự hạn hẹp trong các quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ, quá trình tự tích luỹ thường đóng vai trò quyết định của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhận thức về vấn đề này các quốc gia đang tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ có thể tham gia tốt hơn trong các tổ chức hỗ trợ để khắc phục sự hạn hẹp này.
- 1.2.3. Về năng lực quản lý điều hành Xuất phát từ nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mô... các quản trị gia doanh nghiệp vừa và nhỏ thường nắm bắt, bao quát và quán xuyến hầu hết các mặt của hoạt động kinh doanh. Thông thường họ được coi là nhà quản trị doanh nghiệp hơn là nhà quản lý chuyên sâu. Chính vì vậy mà nhiều kỹ năng, nghiệp vụ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất thấp so với yêu cầu. 1.2.4. Về tính phụ thuộc hay bị động Do các đặc trưng kể trên nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thụ động nhiều hơn ở thị trường. Cơ hội đánh thức, dẫn dắt thị trường của họ rất nhỏ. Nguy cơ bị phá sản, phó mặc được minh chứng bằng con số doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Chẳng hạn ở M ỹ, bình quân mỗi ngày có tới 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản (đương nhiên lại có số doanh nghiệp tương ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới xuất hiện), nói cách khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tuổi đời hoạt động trung bình thấp. 1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam DNV&N ở Việt Nam nói riêng cũng như nhiều nước trên thế giới đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Theo thống kê tại Việt Nam, trong tổng số khoảng 200.000 doanh nghiệp thì khối các DNV&N chiếm khoảng 88%, với những đặc điểm riêng có, khu vực DNV&N thể hiện qua một số vai trò chủ yếu sau: Một là, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Ở mỗi nước, tỷ lệ phát triển hợp lý giữa các doanh nghiệp lớn và DNV&N là tuỳ thuộc vào thực trạng kinh tế xã hội ở từng thời kỳ. Thông thường các doanh nghiệp lớn hoạt động trong một số ngành nòng cốt với kỹ thuật hiện đại, vốn lớn. Còn các DNV&N hoạt động trong những ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động như các ngành công nghiệp nhẹ hoặc các ngành giữ vai trò bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Hai khu vực doanh nghiệp này luôn có tác động tương hỗ nhằm phát huy thế mạnh của nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương trong những năm qua khối DNV&N đã đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước. Ngoài ra, các DNV&N của nước ta còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành, đặc biệt là những ngành công nghiệp thủ công truyền thống như chiếu cói, giầy dép. Ngày nay, khối các DNV&N đang ngày càng lớn mạnh, với sự phát triển này chắc chắn nó đang và sẽ góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hai là, góp phần làm năng động, linh hoạt, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế Các DNV&N hoạt động với quy mô vốn không lớn nên có ưu thế nổi bật là có thể chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang những ngành nghề
- hiệu quả hơn nhằm thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư. Do lợi thế là linh hoạt và sáng tạo trong kinh doanh cho nên các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Hơn nữa, chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước tham gia vào nền kinh tế (với tư cách là những chủ thể kinh doanh độc lập), nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, giảm bớt khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế. Ba là, DNV&N có vai trò quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quá trình phát triển DNV&N cũng là một quá trình cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng. Sự mềm mại, linh hoạt của DNN&V tạo ra một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới và thích ứng cao cho nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới và phát triển. Cơ cấu ngành, thành phần, cơ cấu vùng lãnh thổ tạo điều kiện tận dụng và thu hút tốt các nguồn lực cho đầu tư p hát triển, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn Bốn là, DNV&N góp phần giải quyết công ăn việc làm, từ đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, hiện nay, ở nước ta hằng năm có thêm khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động. Việc tạo thêm việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Các DNV&N có đặc điểm chung là vốn ít, hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, thu hút khoảng 50-75% lực lượng lao động trong các ngành kinh tế đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ở Việt Nam theo báo cáo tổng kết đánh giá 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp cho thấy, trong 4 năm qua ước tính đã có khoảng 1,8-2 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các doanh nghiệp, trong đó DNV&N đóng góp khoảng 80% chỗ làm việc. Ngoài ra, phần lớn lao động trong các DNV&N đều xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn, chưa quen với lối sống và làm việc theo phương thức công nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đào tạo nghề, không ít chủ doanh nghiệp còn phải hướng dẫn họ về nếp sống mới, về tính kỷ luật trong phương thức sản xuất công nghiệp, qua đó góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế. Năm là, gieo mầm cho các tài năng kinh doanh – là nơi nuôi dưỡng cho các doanh nghiệp lớn Sự phát triển của các DNV&N đã có tác dụng đào tạo, chọn lọc các tài năng kinh doanh trẻ. Với trí tuệ và kinh nghiệm, họ biết cách làm giàu cho bản thân mình và xã hội, kinh nghiệm
- quản lý của họ sẽ được nhân ra và truyền bá tới nhiều cá nhân trong cả nước để học hỏi và noi theo. Ngoài ra, các DNV&N còn là nền tảng quan trọng để phát triển các doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, phần lớn các tập đoàn, các tổng công ty lớn đều bắt nguồn từ DNV&N làm ăn hiệu quả, tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh để phát triển thành các tập đoàn. Qua sự phân tích trên ta thấy, khối các DNV&N đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những đóng góp của khối các doanh nghiệp này không hề nhỏ. Tuy nhiên hiện nay, các DNV&N đang hoạt động trong một môi trường kinh tế không hoàn toàn thuận lợi ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt phải kể đến sự hạn chế về vốn đầu tư để tiến hành đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số lượng ngày càng gia tăng thì nhu cầu huy động vốn của khối các DNV&N cũng ngày càng lớn, trong khi đó các nguồn đáp ứng lại bị hạn chế. Vậy thì, các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn về vấn đề huy động vốn phục vụ cho nhu cầu của mình. 2. Nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác là các ràng buộc khác nhau như: + Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động tối đa có thể (Luật DNNN). + Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói riêng sẽ là những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho doanh nghiệp. + Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn cần thiết huy động của doanh nghiệp. Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực hiện huy động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp. Để dự đoán cầu về vốn của doanh nghiệp ta có thể sử dụng hai phương pháp: + Phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu + Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành là cơ sở để làm xuất phát điểm cho mình. Phương pháp này hay được sử dụng cho những doanh nghiệp mới thành lập hay những doanh nghiệp đã hoạt động nhưng cần thiết lập lại cơ cấu vốn.
- 2.1. Các hình thức huy động vốn Có nhiều cách phân loại nguồn cung ứng vốn cho doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào nơi cung ứng có thể phân loại nguồn cung ứng ở dạng khái quát nhất thành nguồn cung ứng từ nội bộ và nguồn cung ứng vốn từ bên ngoài. Trên cơ sở đó người ta lại tiếp tục phân loại cụ thể hơn. 2.1.1. Tự cung ứng a) Khấu hao tài sản cố định: việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. b) Tích luỹ tái đầu tư: phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản: + Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định + Trả các khoản phải quy định + Lập các quỹ đặc biệt c) Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất - kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. 2.1.2. Phương thức cung ứng từ bên ngoài a) Cung ứng từ ngân sách nhà nước: Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách nhà nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên, càng ngày hình thức này càng bị thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi được cấp. Hiện nay đối tượng được hưởng hình thức này là các DNNN xác định duy trì để đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế; các dự án đầu tư ở những lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng. b) Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu: Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán, Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu bán
- trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng nợ của doanh nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ. Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát hành. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo Luật doanh nghiệp. c) Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định. - Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp. - Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu. d) Vay vốn của các ngân hàng thương mại: Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp cùng tham gia thẩm định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian cho vay. e) Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa dòng tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất tín dụng
- thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn gồm cả khoản đặt cọc trước của khách hàng. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong vòng 30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang trong thời kỳ tăng trưởng. f) Tín dụng thuê mua: Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua. Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào tạo. Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp. g) Vốn liên doanh, liên kết: Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó. - Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một hoặc một số hoạt động nào đó mà không tăng nợ. - Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận thu được. h) Nguồn vốn ODA: Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp (sử dụng vốn). Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận thủ tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài. i) Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI: Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.
- 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp Một là, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp: Trước hết cần xem xét lại tình trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động bằng việc tính toán các chỉ tiêu tài chính căn bản như: khả năng thanh toán, chỉ số nợ, chỉ số hoạt động, chỉ số doanh lợi. Đồng thời tính toán lại các chỉ tiêu theo phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó khẳng định mục tiêu, phương án huy động cụ thể. Hai là, phân tích luận chứng kinh tế kỹ thuật: Phân tích nghiên cứu kỹ càng luận chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản tài chính cần huy động, tính đến các rủi ro liên quan như: rủi ro về mệnh giá, tỷ suất, hối đoái. Ba là, chính sách tài trợ: Phân tích và lựa chọn sử dụng chính sách tài trợ thích hợp, có nghĩa là nguồn huy động được lựa chọn tài trợ cho bộ phận tài sản nào, chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chính sách tài trợ hiện tại và so sánh với kỳ kinh doanh cũng như đối thủ cạnh tranh chủ yếu. Bốn là, chủ các nguồn tài chính: Nghiên cứu tỷ mỷ các nguồn tài chính (chủ nợ) cũng là một sự cân nhắc tuyệt đối quan trọng. Nếu đó là các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm lực sức mạnh kinh doanh của họ là một bảo đảm cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần kéo dài thời hạn các khoản nợ vì một lý do nào đó. Hơn nữa cùng cần xem xét động cơ tham gia vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ. Năm là, quyết định huy động nguồn vốn: Quy ết định huy động các nguồn tài chính luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, do vậy trước hết cần tập trung nghiên cứu và khai thác triệt để các biện pháp quản trị khả thi đối với nguồn huy động. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp đang trong tình trạng tài chính khó khăn, khả năng thanh toán thấp. Sáu là, kế hoạch huy động tài chính cho chi trả: Nguồn tài chính huy động hôm nay sẽ phải thanh toán chi trả khi đáo hạn (đối với những khoản vay) do đó doanh nghiệp cần phải có kế hoạch huy động thanh toán, chi trả. Bảy là, các chỉ tiêu liên quan đến huy động vốn: Khi doanh nghiệp thực hiện huy động vốn từ các nguồn thì các chủ tài chính như ngân hàng, các chủ đầu tư thường cân nhắc và xem xét các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính và các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi vốn của doanh nghiệp. - Các chỉ số về khả năng thanh toán: Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh song chủ nợ ngắn hạn sẽ tin tưỏng hơn nếu chỉ số này lớn hơn 2. Nếu chỉ số này ≥ 1 có nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ bị rơi vào tình trạng vỡ nợ và các chủ nợ ngắn hạn sẽ tin tưởng doanh nghiệp hơn.
- Khả năng thanh toán tức thời = (Tổng TS ngắn hạn – Hàng tồn kho)/Tổng nợ ngắn hạn - Các chỉ số mắc nợ: Về mặt lý thuyết chỉ số này nằm trong khoảng > 0 và < 1 nhưng thông thường nó dao động xung quanh giá trị 0,5. Bởi vì lẽ nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: chủ nợ và con nợ. Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay thêm. M ặt khác về phía con nợ, nếu vay nợ quá nhiều sẽ bị mất chủ quyền kiểm soát nhiều bên đồng thời bị chia lợi nhuận quá nhiều cho sự vay nợ của mình. Chỉ số này được sử dụng làm giới hạn ràng buộc cấp tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Đó là một số chỉ tiêu liên quan đến việc huy động vốn được quan tâm xem xét bởi cả hai là doanh nghiệp đi vay và chủ cho vay. 3. Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 3.1. Khái quát chung 3.1.1. Quan niệm chung về hiệu quả Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả nhưng tựu chung lại ta thấy rằng hiệu của là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài và tối đa hoá lợi nhuận. Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và kỹ thuật. Xong ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức: + Hiệu quả kinh doanh (H) = K/C trong đó: K: là kết quả đạt được C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả. Từ loại chỉ tiêu này cùng với suất hao phí ta phải kết hợp với việc đi xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn lưu động.
- 3.1.2. Mục đích của phân tích hiệu quả sử dụng vốn: - Làm thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời. - Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý. - Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn. - Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả phát hiện ra những nguyên nhân để tìm ra những biện pháp khắc phục. Tuy nhiên để công việc phan tích hiệu quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát huy được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau: + Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế hoạch,... của doanh nghiệp và nguồn thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như báo cáo về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành. + Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp. 3.2. Quản lý vốn cố định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng 3.2.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định: Trong quá trình sử dụng tham gia vào sản xuất, do chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. - Hao mòn hữu hình: là sự giảm dần về giá trị sử dụng (tức là sự giảm về chất lượng và sự giảm về tính năng kỹ thuật) và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất hoặc do tác động của yếu tố tự nhiên gây ra. Tài sản cố định bị hao mòn hữu hình trước hết là nó trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản phẩm mới được sản xuất ra. Ngoài nguyên nhân chủ yếu trên thì trong khi sử dụng và không sử dụng tài sản cố định bị hao mòn hữu hình là do tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết... - Hao mòn vô hình của tài sản cố định: là do sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do có những tài sản cố định cùng loại nhưng được sản xuất với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Như vậy nguyên nhân của hao mòn vô hình là do kỹ thuật ngày càng tiến bộ, tổ chức sản xuất ngày càng hoàn thiện. - Khấu hao tài sản cố định: Trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định bị hao mòn. Bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn mà nó được dịch chuyển dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ khấu hao tài sản cố định được coi là
- một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. - Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định: Việc tính khấu hao tài sản cố định chính xác kịp thời, đầy đủ và biện pháp để bảo toàn vốn cố định, để phòng ngừa hao mòn vô hình của tài sản cố định và chống lại hiện tượng “ăn vào vốn” - một thực tế khá phổ biến trong ác DNNN ở nước ta trong thời gian qua. Cho nên việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao là quan trọng. + Phương pháp tính khấu hao theo đường thẳng (phương pháp tính khấu hao cố định): M k = NG/T M k : mức khấu hao cố định hàng năm NG: nguyên giá tài sản cố định T: thời gian sử dụng định mức cả đời máy. + Phương pháp tính khấu hao gia tăng: M k = TK*(NG0 – NG t) TK : tỷ lệ trích khấu hao năm NG t : giá trị còn lại của tài sản cố định ở cuối năm thứ t NG 0 : nguyên giá tài sản cố định. 3.2.2. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định: Là một biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định cả trên phương diện bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu giá trị về tài sản cố định trong năm kế hoạch, tổng giá trị tài sản cố định ở đầu kỳ, xác định tổng giá trị tài sản cố định bình quân cần tính khấu hao, mức khấu hao phải tính trong năm và tình hình phân phối sử dụng quỹ khấu hao. Gồm một số TSCĐ sau: - Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (như đất đai). - Tài sản cố định tăng thêm trong năm kế hoạch: nếu tăng vào một ngày nào đó của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao. - Tài sản cố định giảm bớt trong năm kế hoạch: nếu giảm trong một ngày nào đó của tháng thì tháng sau mới không phải tính khấu hao.
- - Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính trong năm kế hoạch được xác định theo công thức: Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được coi là biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định. 3.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần/ Vốn cố định bình quân trong đó : VCĐ bình quân = ( VCĐ đầu kì + VCĐ cuối kì )/ 2 Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn cố định, cho biết một đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao. 3.3. Quản lý vốn lưu động và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng 3.3.1. Quản lý vốn lưu động a) Xác định nhu cầu thường xuyên tối thiểu về vốn lưu động của doanh nghiệp: Xác định nhu cầu này nhằm mục đích đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết tối thiểu cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, tránh ứ đọng vốn và ngược lại nếu quá ít sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn tác động xấu đén hoạt động thu mua vật tư, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. - M uốn xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch doanh nghiệp phải lần lượt tính toán vốn lưu động định mức ở từng khâu (dự trữ, sản xuất, lưu thông) và đối với từng loại nguyên vật liệu (chính, phụ) sau đó tổng hợp lại vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. Tuy nhiên sử dụng phương pháp này tương đối phức tạp. - Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động: nội dung phương pháp này dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn, chia làm 2 trường hợp: + Thứ nhất: dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành để xác định nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp. + Thứ hai: dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động ở thời kỳ trước của doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn lưu động cho thời kỳ tiếp theo, đồng thời xem xét với tình hình thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh và sự cải tiến tổ chức sử dụng vốn lưu động để xác định toàn bộ nhu cầu vốn lao động thường xuyên cần thiết. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản.
- b) Bảo toàn vốn lưu động: Bảo toàn vốn lưu động là khâu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có phương pháp bảo toàn vốn lưu động hợp lý. Các biện pháp đó là: - Định kỳ tiến hành kiểm kê, kiểm soát, đánh giá lại toàn bộ vật tư hàng hoá, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, để xác định số vốn lưu động hiện có của doanh nghiệp theo giá trị hiện tại. - Những vật tư hàng hoá tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém hoặc mất phẩm chất phải xử lý, kịp thời bù đắp. - Đối với doanh nghiệp bị lỗ kéo dài, cần tìm biện pháp để loại trừ lỗ trong kinh doanh. - Để đảm bảo vốn lưu động trong điều kiện lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cho mục đích tích luỹ và tiêu dùng, doanh nghiệp phải dành ra một phần lợi nhuận để bù đắp số hao hụt vốn vì lạm phát và phải được ưu tiên hàng đầu. 3.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động - Hiệu suất sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Doanh thu thuần/VLĐ bình quân Chỉ tiêunày cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh thì đem lại mấy đồng giá trị sản lượng hay doanh thu. Như vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. - M ức đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân/Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng sản phẩm tiêu thụ thì cần bao nhiêu vốn lưu động. - Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = Lợi nhuận/VLĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại mấy đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. 3.4. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung Hiệu quả sử dụng vốn: HVSD = D/VSXKD trong đó:
- HVSD : hiệu quả sử dụng vốn sản xuất D : là doanh thu hoặc số lượng sản phẩm tiêu thụ VSXKD: là số dư bình quân vốn sản xuất kinh doanh
- CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NHU CẦU VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ACC-244 1. Quá trình hình thành phát triển và đặc điểm hoạt động của công ty 1.1. Quá trình thành lập và phát triển công ty 1.1.1. Sơ lược về công ty - Tên công ty: Công ty cổ phần ACC-244 - Tên giao dịch: ACC-244 Joint Stock Company (ACC-244 JSC). - Địa chỉ: Số 164 Lê Trọng Tấn - phường Khương M ai - quận Thanh Xuân - thành phố Hà Nội. - Lĩnh vực hoạt động: xây lắp - Loại hình công ty: Công ty cổ phần. - Vốn điều lệ: 29.408.620.000 đồng . Tổng số vốn điều lệ của Công ty được chia thành 2.940.862 cổ phần. Cổ phần phát hành lần đầu: 2.940.862 cổ phần, mệnh giá mỗi cổ phần 10.000 đồng. Trong đó: Cổ phần nhà nước nắm giữ 1.990.862 cổ phần, tương ứng 67,70% vốn điều lệ. - Website: http://www.acc244.com.vn 1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Công ty cổ phần ACC-244 hiện nay; tiền thân là Trung đoàn 244 thuộc quân chủng Phòng không - Không quân, được thành lập từ ngày 10/7/1972. Từ năm 1977 khi tách thành 2 quân chủng: quân chủng Phòng không và quân chủng Không quân, Trung đoàn 244 trở về quân chủng Không quân, đảm nhiệm nhiệm vụ xây dựng các công trình cho quân chủng. Ngày 16/8/1989 tại Quy ết định số 230/QĐ-QP, Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi tên Trung đoàn 244 thành Xí nghiệp xây dựng 244 trực thuộc Cục Hậu cần không quân, thực hiện cơ chế hạch toán toàn phần theo Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Ngày 27/12/1997 tại quyết định số 1896/QĐ-QP, Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi tên Xí nghiệp xây dựng 244 thành Công ty xây dựng 244 trực thuộc Tổng công ty bay dịch vụ Việt nam. Thực hiện quyết định số 116/2003/QĐ-BQP ngày 09/09/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc sáp nhập Công ty xây dựng 244 vào Công ty ACC, từ ngày 01/01/2004 Xí nghiệp xây dựng 244 là đơn vị trực thuộc Công ty xâydựng công trình hàng không ACC. Thực hiện Quy ết định số 4859/QĐ-BQP ngày 21/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc phê duyệt phương án và chuyển Xí nghiệp xây dựng 244 thành Công ty cổ phần ACC- 244.Với phương châm, mục tiêu hoạt động là “Chất lượng - Tiến độ - Hiệu quả”Công ty đã đạt
- được nhiều thành tích trong sản xuất kinh doanh. Tháng 12 nóm 1999 được Chủ tịch nước tặng “Huân chương lao động hạng ba”, 5 năm qua được Bộ Xây dựng và Công đoàn Xây dựng Việt nam trao tặng 9 Huy chương vàng và bằng chất lượnng cao. Đặc biệt công trình “Trụ sở làm việc UBND tỉnh Lào Cai” được Bộ xây dựng tặng “Cúp vàng chất lượng xây dựng Việt Nam”. 1.1.3. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty Công ty cổ phần ACC-244 chính thức đi vào hoạt động với các ngành nghề kinh doanh chính như: xây dựng và hoàn thiện nhà các loại; xây dựng công trình đường bộ, công trình công ích, công trình dân dụng khác; lắp đặt máy móc thiết bị công nghiệp, khai thác, xử lý cung cấp nước, thoát nước, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, lò sưởi, điều hoà không khí, hệ thống xây dựng khác; kinh doanh bất động sản… 1.2. Đánh giá khái quát về tình hình tài chính của công ty
- Tăng giảm 2010 so với 2009 2011 so với 2010 Các chỉ tiêu Đv tính Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 S ố tuyệt đối % S ố tuyệt đối % 1. Tổng tài sản (nguồn vốn) Nghìn đồng 168.895.418 178.969.975 172.216.116 10.074.557 5,96 -6.753.859 -3,77 2. Vốn chủ sở hữu Nghìn đồng 23.506.129 30.573.651 31.422.582 7.067.522 30,07 848.931 2,78 3. Doanh thu (bán hàng+hoạt động Nghìn đồng 175.769.557 183.269.645 275.369.583 7.500.088 4,27 92.099.938 50,25 tchinh) 4. Lợi nhuận trước thuế Nghìn đồng 6.304.091 7.618.687 9.880.437 1.314.596 20,85 2.261.750 29,69 5. Lợi nhuận sau thuế Nghìn đồng 4.800.188 5.708.754 7.159.774 908.566 18,93 1.451.020 25,42

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TIỂU LUẬN: "THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY"
29 p |
4391 |
883
-
Tiểu luận triết học - Vai trò của tri thức trong đời sông-xã hội
22 p |
2752 |
404
-
Tiểu luận quản trị tài chính: Phân tích tài chính công ty cổ phần Kinh Đô
9 p |
1583 |
398
-
Tiểu luận Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam
25 p |
1940 |
352
-
Tiểu luận “Xây dựng văn hoá xe buýt Hà Nội - Khả năng và hiện thực”
10 p |
976 |
262
-
Tiểu luận triết học - Vai trò của con người trong các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
15 p |
682 |
174
-
Tiểu luận: Lý thuyết cấu trúc vốn doanh nghiệp
19 p |
234 |
54
-
Tiểu luận: Công ty chứng khoán và sự thành công của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn
22 p |
438 |
31
-
Tiểu luận tài chính ngân hàng và sự phát triển: Phân tích nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa (Trường hợp Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Việt Hàn)
14 p |
183 |
23
-
Tiểu luận " Nhu cầu thông tin của người khiếm thị. Vai trò của thư viện trong việc cung cấp thông tin cho người khiếm thị"
19 p |
203 |
22
-
Tiểu luận: Phân tích nhu cầu vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Trường Sinh & những khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay
33 p |
110 |
22
-
Tiểu luận: Phân tích nhu cầu sử dụng vốn của công ty TNHH TTL, thuận lợi và khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng thương mại
29 p |
121 |
18
-
Tiểu luận: Phân tích ngân sách nhà nước là nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tác động của chính sách kích cầu năm 2008-2009 đến ngân sách nhà nước Việt Nam
11 p |
160 |
17
-
Tiểu luận tài chính ngân hàng và sự phát triển: Nhu cầu huy động vốn tài trợ của Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp và Dịch vụ An Thái
27 p |
145 |
17
-
Tiểu luận tài chính ngân hàng và sự phát triển: Phân tích nhu cầu tài trợ vốn của Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại Modern Fare Việt Nam. Những thuận lợi, khó khăn của công ty trong việc huy động vốn
29 p |
154 |
16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu nhu cầu đọc và công tác giáo dục nhu cầu đọc cho học sinh tiểu học
96 p |
89 |
14
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM đến năm 2010
61 p |
5 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
