TIÊU LUẬN: Những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người
lượt xem 80
download
Quyền con người đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và dần có những bước phát triển gắn liền với quá trình vận động, phát triển của xã hội. Mặc dù ngày nay quyền con người đóng vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống nói chung và lĩnh vực pháp lý nói riêng nhưng Luật quốc tế về nhân quyền mới chỉ thực sự được ghi nhận trong mấy thế kỷ trở lại đây. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIÊU LUẬN: Những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền TIÊU LUẬN Những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người 1
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3 NỘI DUNG ............................................................................................................... 4 I. Luật quốc tế về quyền con người trước 1945 ................................................... 4 1. Những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người................................. 4 2. Vì sao luật quốc tế về quyền con người trong giai đoạn này chưa phát triển?... 5 II. Luật quốc tế về quyền con người từ sau 1945 .................................................. 7 1. Lí do việc bảo vệ quyền con người được phát triển sau năm 1945.................... 7 2. Biểu hiện sự phát triển của luật quốc tế kể từ sau năm 1945............................. 8 a. Toàn cầu....................................................................................................... 8 b. Phạm vi các khu vực .................................................................................. 12 c. Phạm vi trong từng quốc gia....................................................................... 16 III. Tổng kết xu hướng – Các bước phát triển ..................................................... 19 1. Nhận định chung............................................................................................ 19 2. Các cam kết, tuyên ngôn như bước khởi đầu của các quy phạm thống nhất về quyền con người ................................................................................................... 19 3. Các công ước, văn kiện mang tính ràng buộc đánh dấu bước phát triển có tính bước ngoặt của luật quốc tế về nhân quyền ........................................................... 21 4. Các nghị định thư hay các văn kiện bổ sung, hoàn thiện các quy định cơ bản về quyền con người ................................................................................................... 22 5. Các cơ chế tài phán ở phạm vi quốc gia, khu vực, toàn cầu – xu thế phát triển... ...................................................................................................................... 23 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 24 2
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền MỞ ĐẦU Quyền con người đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và dần có những bước phát triển gắn liền với quá trình vận động, phát triển của xã hội. Mặc dù ngày nay quyền con người đóng vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống nói chung và lĩnh vực pháp lý nói riêng nhưng Luật quốc tế về nhân quyền mới chỉ thực sự được ghi nhận trong mấy thế kỷ trở lại đây. Thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại, một số quyền con người được đề cập nhưng mới chỉ ở dạng định hình và chưa có tình ràng buộc ở phạm vi ngoài quốc gia. Tuy nhiên, phải đến sau 1945, với sự kết thúc của Chiến tranh Thế giới II và kéo theo hệ quả là việc hình thành một trật tự thế giới mới cũng như tác động mạnh mẽ đến nhận thức của con người hiện đại, Luật quốc tế về quyền con người mới bắt đầu phát triển như một hệ thống trên cả phạm vi toàn cầu, khu vực và ở mỗi quốc gia. Do tính đặc thù chính trị, kinh tế, văn hóa, lịch sử, xã hội của từng thời kỳ, từng khu vực, từng quốc gia mà Luật quốc tế về quyền con người có những bước chuyển khác nhau về cả nội dung lẫn hình thức, với số lượng văn kiện ngày càng nhiều và đang tăng dần tính ràng buộc. Tựu chung lại, những bước phát triển của Luật quốc tế về quyền con người đi từ các cam kết, tuyên ngôn mang tính chính trị cao, ít ràng buộc pháp lý đến các văn kiện mang tính ràng buộc như các công ước, các nghị định thư hay các văn kiện bổ sung,...; cuối cùng là giai đoạn tài phán hóa các quy định về nhân quyền thông qua các cơ chế tài phán ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Trong khuôn khổ giới hạn của bài thuyết trình, nhóm trình bày chỉ đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người xuất hiện từ trước năm 1945 và sự phát triển mạnh mẽ của luật quốc tế về quyền con người sau năm 1945 trên phạm vi toàn cầu, khu vực cũng như trong phạm vi từng quốc gia, qua đó tổng kết xu hướng phát triển cho đến thời điểm hiện nay. Bài thuyết trình chắc chắn còn nhiều điểm thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của thầy giáo bộ môn và các bạn. 3
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền NỘI DUNG I. Luật quốc tế về quyền con người trước 1945 1. Những biện pháp đầu tiên nhằm bảo vệ quyền con người Quyền con người đã sớm được đề cập ở những chừng mực nhất định từ thời cổ đại và trung đại. Từ thời cổ đại, trong các tư tưởng triết học, tôn giáo và trong cả các đạo luật của quốc gia đã manh nha xuất hiện các tư tưởng về quyền con người, ví dụ như tư tưởng ngăn ngừa kẻ mạnh áp bức kẻ yếu trong bộ luật của Babilon. Đến thời trung đại, mặc dù phương thức sản xuất phong kiến chi phối đến quan hệ xã hội, chính trị và nhân quyền nhưng vẫn có những tư tưởng tiến bộ bênh vực quyền lợi của con người ở các khía cạnh tự do ý chí, quyền lực đối với tự nhiên… Thời Phục hưng, các giá trị nhân văn và nhân đạo thời cổ đại được phát triển lên một tầm cao mới, dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa nhân văn (humanism). Đến thế kỷ XVII – XVIII, các quyền con người hiện đại được hình thành rõ nét hơn vào thời kỳ Khai sáng ở châu Âu với việc bắt đầu thừa nhận cá nhân là những cá nhân trong xã hội chứ không đơn thuần chỉ là thành viên của một giai cấp hay một nhóm xã hội cụ thể. Học thuyết về luật tự nhiên ra đời trong giai đoạn này có sự gắn bó chặt chẽ với nhân quyền hiện đại. Nguyên tắc con người sinh ra vốn tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được đảm bảo để tự do và bình đẳng sớm xuất hiện trong các đạo luật quan trọng như Đạo luật của Anh về các quyền (1689), Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776), Hiến pháp Mỹ (1789), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789)… Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XIX, những nguồn gốc quan trọng của Luật quốc tế về quyền con người mới bắt đầu xuất hiện trong một số điều ước đa phương với các điều khoản dành ưu đãi cho các nhóm tôn giáo thiểu số. Nghị định thư Luân Đôn (3/2/1830) quy định rằng Hy Lạp phải tôn trọng sự tự do của đạo Hồi ở nước này, và đây là một trong những điều kiện cho việc công nhận một Hy Lạp độc lập. Hiệp ước Paris (30/3/1856) đề cập nguyên tắc bình đẳng trong đối xử mà không có sự phân biệt do lý do chủng tộc hay dòng dõi. Hiệp định Berlin (13/7/1878) quy định rằng việc công nhận những quốc gia Balkan mới phải dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử về tôn giáo. Hiệp ước Constantinople (24/5/1881) xác nhận sự bảo vệ cho việc tự do tôn sùng đạo Hồi ở Hy Lạp. 4
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền Đầu thế kỷ XX, tư tưởng Luật nhân quyền hiện đại đã xuất hiện trong pháp luật và chế định quốc tế như việc nghiêm cấm nô lệ, cướp biển và các bảo hộ ban đầu trong luật nhân đạo (liên quan đối xử binh lính và thường dân trong xung đột vũ trang). Những hiệp định hòa bình trong giai đoạn 1919 – 1920 không những dành đầy đủ sự bình đẳng về đối xử mà các công dân khác được hưởng cho các thành viên của những dân tộc thiểu số được bảo vệ mà còn quy định những biện pháp đặc biệt ưu đãi cho các dân tộc thiểu số hơn những công dân khác. Những hiệp định chung về dân tộc thiểu số buộc Phần Lan, Czechoslovakia, Serbo-Croat Slovene, Rumani và Hy Lạp phải trao cho cư dân của mình sự bảo vệ đầy đủ về cuộc sống và tự do cá nhân và phải công nhận tự do tín ngưỡng và tôn giáo của họ. Ngoài ra, sự ra đời của một số tổ chức quốc tế như Hội Quốc Liên (HQL), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Pháp viện Thường trực Quốc tế (PCIJ, nay là Tòa Công lý Quốc tế - ICJ) cũng góp phần quan trọng vào sự phát triển của Luật quốc tế về quyền con người. Điều 23 của Hiến chương HQL đề cập đến việc bảo vệ một số quyền con người như điều kiện lao động công bằng, biện pháp đối xử phù hợp dành cho các cư dân trong lãnh thổ của một quốc gia thành viên… Tổ chức Lao động Quốc tế ra đời như là hệ quả của các Hội nghị Hòa bình 1919 – 1920 với mục đích cải thiện điều kiện lao động và nâng cao mức sống trên toàn thế giới, thông qua đó bảo vệ các quyền xã hội của con người. 2. Vì sao luật quốc tế về quyền con người trong giai đoạn này chưa phát triển? Mặc dù quyền con người có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử và dần dần trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nhưng cho đến trước năm 1945 nhưng Luật quốc tế về quyền con người vẫn chưa phát triển đáng kể. Nguyên nhân là do sự thiếu liên kết giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế và thuyết chủ quyền tuyệt đối của quốc gia, mâu thuẫn giữa luật quốc gia và luật quốc tế trong việc bảo vệ các quyền con người. Thời kỳ cổ đại và trung đại, các quyền con người đã được đề cập và phần nào được chú trọng nhưng việc thiết lập hệ thống Luật quốc tế về quyền con người vẫn không thể thực hiện được do trong quan hệ quốc tế, hợp tác chưa phải là vấn đề quan trọng nếu không muốn nói là bị đặt ở vị trí thứ yếu so với việc tìm cách mở rộng lãnh thổ, giành giật bá quyền. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, luật lệ của các thành bang trên thực tế chỉ trao các quyền con người cho giai cấp chủ nô. Đến thời kỳ phong kiến, mặc dù 5
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền giai cấp bị trị cũng đã được hưởng một số quyền con người nhưng các quyền này chỉ được “ban phát” theo ý chí của giai cấp thống trị. Hơn nữa, việc quy định các quyền con người được cho là thuộc phạm vi chủ quyền tuyệt đối của quốc gia và không thể bị “các thế lực bên ngoài” can thiệp vào. Nói cách khác, cá nhân chỉ đơn thuần là thành viên của một giai cấp hay một nhóm xã hội cụ thể nên quyền con người của mỗi cá nhân phải do bản chất của giai cấp và người đứng đầu nhóm xã hội quy định. Vì vậy không thể có sự thống nhất vượt ra ngoài phạm vi quốc gia về việc bảo vệ các quyền con người. Đến thời cận đại, việc thừa nhận cá nhân là đối tượng cuối cùng của Luật quốc tế thông qua việc chấp nhận các quyền tự do và các quyền cơ bản khác của cá nhân đã tạo ra thách thức đối với các học thuyết vốn xem quốc gia là chủ thể duy nhất của Luật quốc tế. Những cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về vấn đề này khiến việc thiết lập hệ thống Luật quốc tế về quyền con người trở nên bất khả thi. Một trở ngại nữa cho việc xây dựng Luật nhân quyền quốc tế là sự phức tạp của việc bảo vệ cùng lúc của Luật quốc tế và Luật quốc gia. Các quốc gia phải chuyển hóa những điều khoản ưu đãi hơn cho các dân tộc thiểu số vào các luật cơ bản của quốc gia mình. Tuy nhiên, Hội đồng của HQL được quyền trao cho các dân tộc thiểu số quyền khiếu kiện và đảm bảo việc thực thi của các quyền đó thông qua các ủy ban về dân tộc thiểu số ra đời theo vụ việc (ad hoc minorities committees). Vì thế các cá nhân có quyền tố cáo các vi phạm đối với sự bảo vệ dành cho họ và có quyền đề xuất thủ tục hỗ trợ cho việc mở ra các cuộc đối thoại giữa các cơ quan hữu quan và các chính phủ liên quan với hy vọng tìm được giải pháp thân thiện cho vấn đề. Ngoài ra, PCIJ lại được trao cho thẩm quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý liên quan đến các điều ước về dân tộc thiểu số có thể xảy ra giữa các quốc gia bị ràng buộc bởi các điều ước đó và là thành viên của HQL. Vấn đề đặt ra là liệu việc trao quyền cho HQL và PCIJ như vậy có xâm phạm đến quyền tự quyết của quốc gia dân tộc hay không. Hơn nữa, giai đoạn này, các quốc gia dù có tìm kiếm tiếng nói chung trong việc bảo vệ quyền con người nhưng mới dừng lại ở mức độ sơ khai và vẫn chưa chú trọng phát triển luật quốc gia về quyền con người một cách đồng bộ. Phải đến giai đoạn sau 1945, những trở ngại này mới dần được giải quyết thỏa đáng và Luật quốc tế về quyền con người mới được xây dựng ngày càng hoàn thiện và đồng bộ trên phạm vi toàn cầu, khu vực và quốc gia. 6
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền II. Luật quốc tế về quyền con người từ sau 1945 1. Lí do việc bảo vệ quyền con người được phát triển sau năm 1945 Quả không sai khi cho rằng giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới II là giai đoạn hồi sinh các tư tưởng nhân quyền. Ngay trước thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản phát triển kéo theo việc ngọn cờ tự do dân chủ bác ái bị vứt bỏ. Chính chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là thủ phạm gây ra thảm họa cho loài người. Đó là thời kỳ của hàng trăm cuộc chiến tranh thảm khốc, đặc biệt là Chiến tranh Thế giới lần I và II – con người khó mà bảo toàn mạng sống của mình chưa nói đến đòi quyền lợi khác. Có thể nói sự biến đổi trong bối cảnh quan hệ quốc tế cũng như quan hệ quốc gia tác động rất lớn đến các tư tưởng về quyền con người, với các đặc điểm chính là: Cuộc chiến tranh chống phát xít và cuộc đấu tranh đòi hòa bình và dân chủ thắng lợi. Cũng vào thời điểm này, một loạt các tổ chức quốc tế, các cơ chế khu vực được thành lập, phát triển và cùng tham gia vào đời sống pháp lý quốc tế, trong đó có lĩnh vực luật về các quyền của con người. Các nước trong phe đồng minh chống phát xít và nhiều quốc gia trên thế giới thấy cần thiết và có thể thành lập một tổ chức quốc tế rộng lớn nhằm ngăn ngừa các thảm họa có thể xảy ra và bảo vệ quyền con người. Các phong trào quần chúng nổi lên mạnh mẽ trong những năm 60-70 như phong trào chống chiến tranh, phong trào của sinh viên học sinh, phụ nữ, phong trào chống phân biệt chủng tộc, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào của công nhân và trí thức trong các nước tư bản… đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển các tư tưởng nhân quyền. Nói cách khác, chính các phong trào này đã mở rộng thêm khái niệm về nhiều quyền của con người. Những sự kiện trên dẫn đến thực tế là quyền con người trở thành chủ đề quan trọng trong các lĩnh vực như luật học, chính trị học, triết học, đạo đức học, xã hội học, văn học… Các tổ chức liên quan đến quyền con người (quốc gia hoặc quốc tế, chính phủ hoặc đảng phái, các nhóm xã hội) liên tiếp được thành lập và triển khai rộng rãi các hoạt động chính trị, khoa học, xã hội và học thuật. 7
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền Thêm vào đó, phải kể đến sự đóng góp của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) trong quá trình sinh hoạt quốc tế và định hình các quan điểm chung về nhân quyền. Cụ thể, NGOs đóng góp không nhỏ trong các hoạt động nhân đạo, cứu tế, phê phán các hành động sai trái của chính phủ và các công ty tư bản trong quản lý xã hội, về ô nhiễm môi trường, chạy đua vũ trang, tàn sát người da màu, đối xử thô bạo với người bản xứ. v.v…1 2. Biểu hiện sự phát triển của luật quốc tế kể từ sau năm 1945 a. Toàn cầu Sự ra đời của Liên Hợp Quốc năm 1945 đánh dấu bước phát triển có ý nghĩa quan trọng nhất đối với luật quốc tế về quyền con người. Đây là cột mốc mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử nhân quyền nói riêng, đó là thời đại các quốc gia dân tộc đã đi đến những nhận thức chung về những vấn đề liên quan đến vận mệnh nhân loại, thời đại quốc tế hóa các quyền và tự do cơ bản của con người với những chuẩn mực mới. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, việc cho rằng quyền con người cần được các quốc gia thúc đẩy và bảo vệ đã gắn với mối quan tâm rộng rãi của tổ chức này về đảm bảo và duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chính vì vậy, Điều 1 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định rằng, một trong những mục tiêu của Liên Hợp Quốc là “thực hiện hợp tác quốc tế trong […] việc thúc đẩy và khuyến khích tôn trọng các quyền con người và tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo.” Chính trong điều kiện đó mà sáng kiến có ý nghĩa đầu tiên do tổ chức này thực hiện là xây dựng văn kiện toàn cầu đầu tiên về con người, đó là Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người do Uỷ ban nhân quyền Liên Hợp Quốc thực hiện trong thời gian từ 1946-1948. Sau đó, hàng trăn văn kiện về quyền con người đã được xây dựng và thông qua. Trên cơ sở này, hệ thống các văn bản và hệ thống cơ quan thực thi quyền con người của Liên Hợp Quốc ngày càng nhiều và hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng. i. Về số lượng 1 Chu Thanh, Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, tr. 16-19. 8
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền Các văn kiện về nhân quyền được chia thành hai hệ thống: văn bản mang tính chung và văn bản mang tính chuyên biệt. Hệ thống văn bản mang tính chung bao gồm: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa hay còn được gọi chung là Bộ luật quốc tế về quyền con người. So với các chế định nhân quyền trước đây, Bộ luật quốc tế về quyền con người đã được hoàn thiện thêm một bước về nội dung. Các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt đối xử được tôn trọng triệt để về mặt pháp lý. Chế độ nô lệ, sự bất bình đẳng về giới… đã không còn chỗ đứng trong nội hàm khái niệm nhân quyền. Trước hết, về Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR), những nguyên tắc cơ bản và 30 điều ghi trong UDHR đã trở thành ngôn ngữ chung, trở thành cơ sở tư tưởng, nguồn của các văn kiện pháp luật quốc tế và quốc gia, không phân biệt hệ tư tưởng, chế độ chính trị, lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Mặc dù còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử ra đời và những khác biệt về quan điểm chính trị giữa các thành viên trong Ban soạn thảo, song có thể nói những tư tưởng lớn trong UDHR về đạo lý, chính trị và pháp lý vẫn còn nguyên giá trị, được cộng đồng quốc tế đánh giá xao như những giá trị đạo đức cơ bản và chuẩn mực về quyền con người đến nay vẫn đang chi phối đời sống nhân loại. Mặc dù xét về hình thức văn bản, UDHR không phải là một văn kiện pháp lý, song nó lại có ý nghĩa pháp lý vô cùng to lớn bởi nói đã cung cấp một khuôn khổ những chuẩn mực pháp lý cơ bản cho các văn kiện khác. Có thể nói tất cả các văn kiện của Liên Hợp Quốc, trước hết là các tài liệu của Ủy ban nhân quyền và nhiều công ước của các tổ chức độc lập khác đã viện dẫn UDHR như là một trong những nguồn quan trọng nhất của việc xác định nội dung các điều ước. Đối với nhiều quốc gia, UDHR cũng được viện dẫn như những căn cứ quan trọng của pháp luật. Ngay sau khi Liên Hợp Quốc thông qua UDHR, Ủy ban nhân quyền bắt tay luôn vào công việc soạn thảo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội văn hóa (ICESCR). Nếu như trước kia, quyền con người chỉ bao hàm các quyền và tự do cá nhân, quyền của các nhóm xã hội thì đến thời điểm này, với sự ra đời của Công ước ICCPR, quyền con người còn bao hàm cả quyền của dân tộc, với tư cách là quyền tập thể của 9
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền con người. Quyền dân tộc tự quyết ra đời là thành quả lớn lao của sự phát triển của lịch sử nhân loại từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Những vấn đề nhạy cảm nhất trong các thoả thuận quốc tế về Công ước ICCPR như án tử hình và khiếu kiện nhà nước đã được Đại hội đồng quyết định đưa vào hai nghị định thư không bắt buộc. Với những nghị định thư như thế này, các quyền con người không ngừng được bổ sung và hoàn thiện một cách chặt chẽ hơn. Số lượng quốc gia tham gia hai Công ước ngày càng nhiều. Cụ thể, tính đến nay, Công ước ICCPR đã có đến 174 quốc gia thành viên (trong đó có 8 quốc gia chưa phê chuẩn) và Công ước ICESCR có 160 thành viên (trong đó có 6 quốc gia chưa phê chuẩn). Không chỉ vậy, phạm vi các quyền mà ba văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người hướng tới bảo vệ khá đa dạng và đầy đủ, trong đó bao gồm: Không phân biệt đối xử, Quyền sống, Quyền tự do và an ninh cá nhân, Quyền được bảo vệ không bị bắt làm nô lệ, Quyền được bảo vệ để không bị tra tấn, Quyền được có tư cách pháp lý, Quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, Quyền được phục hồi/bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm, Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đày một cách tuỳ tiện, Quyền được xét xử bởi một toà án độc lập và không thiên vị… Có thế nói rằng, các văn bản mang tính chung này là một thành tựu vĩ đại của trí tuệ nhân loại trong thế kỷ XX và sẽ còn là công cụ định hướng phát triển và điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên lĩnh vực nhân quyền - một trong những chủ đề quan trọng nhất của nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba. Ngay sau khi ra đời, các cơ quan Liên Hợp Quốc đã có nhiều nỗ lực để pháp điển hoá các chuẩn mực quốc tế thông qua hệ thống các điều ước về quyền con người. Ngoài 3 văn kiện chung nêu trên, các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc cũng đã nhất trí thông qua nhiều văn bản mang tính chuyên biệt để bảo vệ quyền con người trong những lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn như Công ước Quốc tế về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Chủng tộc (170 quốc gia thành viên), Công ước Quốc tế về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với Phụ nữ (180 quốc gia thành viên), Công ước về Quyền Trẻ em (192 quốc gia thành viên), Công ước Chống Tra tấn và các Hình thức Trừng phạt hay Đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, hoặc hạ nhục (141 quốc gia thành viên)… Ngày nay, nhận thức rõ về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ nhân quyền cũng 10
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền như trách nhiệm của mình, các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người và rút dần bảo lưu để thực thi một cách hiệu quả mục đích của các công ước nói chung và từng điều khoản cụ thể nói riêng. Phải khẳng định rằng các công ước này là kết quả của những nỗ lực tích cực của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là của Liên Hợp Quốc trong việc đảm đương vai trò “cơ quan lập pháp” quốc tế của mình. Hệ thống các điều ước quốc tế về quyền con người đã tạo nên cơ sở để các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia tham gia công ước tôn trọng, bảo đảm và thực thi các quyền con người trên các lĩnh vực khác nhau ngày một tốt hơn. ii. Về chất lượng Hệ thống cơ quan thực thi của Liên Hợp Quốc và cách thức giám sát để thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Để đảm bảo thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội, Uỷ ban nhân quyền và Uỷ ban về các quyền kinh tế xã hội văn hoá đã được thành lập thực hiện chức năng: 1) Nhận và xem xét các báo cáo quốc gia theo đúng trình tự quy định; 2) Phân tích các báo cáo quốc gia thông qua việc nghiên cứu và đối thoại với đại diện của các quốc gia thành viên; 3) Đưa ra các kết luận và khuyến nghị về việc thực hiện công ước đối với các quốc gia thành viên, trong đó chỉ rõ các khía cạnh tích cự, các trở ngại và khó khăn trong việc thực hiện công ước, các vấn đề cần quan tâm, các đề xuất xử lý và kiến nghị; 4) Hướng dẫn các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là thông qua việc xây dựng khuyến nghị chung. Dưới sự giám sát thực thi của Uỷ ban nhân quyền, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy thực hiện cam kết trong công ước bằng tất cả các biện pháp có thể, trước hết là biện pháp lập pháp, nhằm đảm bảo sự tương thích giữ pháp luật quốc gia với hai công ước. Một trong những trách nhiệm của các quốc gia là nộp báo cáo quốc gia đúng hạn và bảo vệ các báo cáo của mình. Báo cáo quốc gia phải trình bày đầy đủ, chân thực kết quả thực hiện tất cả các điều của công ước, trình bày rõ ràng những việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và phương hướng khắc phục. Đồng thời đại diện của quốc gia có trách nhiệm trả lời các câu hỏi, lắng nghe, trao đổi, cởi mở và tiếp thu các bình luận và khuyến nghị của Uỷ ban. 11
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền Ngoài các Uỷ ban nêu trên, mỗi Công ước về quyền con người chuyên biệt lại có cơ chế giám sát thực hiện riêng. Cụ thể, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc đã thành lập Uỷ ban về xoá bỏ phân biệt đối xử chủng tộc. Bên cạnh chức năng giải thích, bổ sung Công ước thông qua các khuyến nghị chung, Uỷ ban thực hiện chức năng giám sát của mình thông qua ba thủ tục chính là báo cáo định kì, khiếu kiện giữa các quốc gia, khiếu kiện cá nhân hoặc nhóm. Hay Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) với Uỷ ban CEDAW. Uỷ ban này chịu trách nhiệm xem xét báo cáo định kì hoặc báo cáo ngoại lệ và đưa ra các kết luận đánh giá. Để đảm bảo tính khách quan và xác thực cho các đaán giá, khuyến nghị của mình, Uỷ ban CEDAW được phép tiếp nhận thông tin, báo cáo từ các cơ quan chuyên môn khác của Liên Hợp Quốc và từ Báo cáo viên đặc biệt. Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ địa phương và quốc tế cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho Uỷ ban. Như vậy, có thể thấy rằng, Uỷ ban nhân quyền và Uỷ ban về các quyền kinh tế xã hội văn hoá kết hợp với các uỷ ban được thành lập trên cơ sở từng công ước chuyên biệt cụ thể hợp thành một cơ chế giám sát thực thi vấn đề quyền con người trên toàn cầu ngày một chặt chẽ, minh bạch và hiệu quả. b. Phạm vi các khu vực i. Cơ sở hình thành các cơ chế bảo vệ nhân quyền của khu vực Có bốn cơ sở cho việc hình thành các cơ chế bảo vệ nhân quyền của khu vực: (1) Sự hiện diện của mối quan hệ gắn kết về mặt địa lý, lịch sử và văn hoá giữa các quốc gia trong khu vực; (2) kiến nghị hình thành một tổ chức khu vực gặp ít sự chống đối hơn là kiến nghị hình thành một tổ chức toàn cầu; (3) khả năng phổ biến về nhân quyền có thể sẽ rộng rãi và hiệu quả hơn; (4) ít có khả năng phải tạo nên những “công thức chung mang tính thoả hiệp” trong khi đối với các tổ chức toàn cầu thì công thức này nhiều khả năng dựa trên “những cân nhắc mang tính chính trị”… Nhiều ý kiến phản đối cho rằng các tổ chức khu vực trong lĩnh vực nhân quyền chỉ lặp lại công việc của cơ quan Liên Hợp Quốc, thậm chí còn có thể tạo nên những chính sách và thủ tục mâu thuẫn. Hơn nữa, nhân quyền mang tính toàn cầu và thuộc về tất cả mọi người nên nhân quyền phải được xác định trong các văn kiện toàn cầu và phải được thực thi bởi các cơ quan toàn cầu. Tuy nhiên, có thể nói rằng cách tiếp cận 12
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền theo hướng toàn cầu và cách tiếp cận theo hướng khu vực đối với việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền không nhất thiết phải mâu thuẫn nhau. Ngược lại, hai cách tiếp cận này đều có ích và bổ sung cho nhau. Có thể dung hoà hai cách tiếp cận này trên cơ sở phân biệt chức năng khác nhau: nội dung quy phạm của tất cả các văn kiện quốc tế đều giống nhau về mặt nguyên tắc và đều phản ánh Tuyên ngôn nhân quyền. Các văn kiện toàn cầu sẽ đưa ra những tiêu chuẩn quy phạm tối thiểu, còn các văn kiện khu vực có thể đi xa hơn, đưa ra thêm một số quyền, xác định cụ thể một số quyền khác, đồng thời có tính đến những đặc trưng khác nhau của từng khu vực. ii. Sự phát triển của các cơ chế khu vực hiện nay Sự phát triển của các cơ chế khu vực được trình bày rõ theo bảng sau đây: Cơ chế nhân quyền Cơ chế nhân quyền Cơ chế nhân quyền châu Âu châu Mỹ châu Phi Công - Công ước nhân - Công ước nhân - Hiến chương châu ước hay quyền châu Âu có hiệu quyền châu Mỹ có Phi có hiệu lực từ Hiến lực từ 3/9/1953. Hiện hiệu lực từ 1978. Có 1986. Hiện nay có 53 chương nay có 45 thành viên. 25/35 thành viên. thành viên. - Đảm bảo quyền cho tất cả mọi người trong quyền tài phán của quốc gia - Quy định 12 quyền, - Quy định 26 quyền, - Quy định nhiều sau nay 14 NĐT bổ trong đó có một số quyền mà CƯ châu Âu sung rải rác thêm 13 quyền châu Âu không và châu Phi không có Quyền quyền. có như quyền trẻ em, như quyền được kết dân sự quyền tị nạn… hôn, quyền đối với tài chính trị sản… - Định nghĩa các quyền gây khó khăn trong việc giải thích. Quyền - Không đề cập đến - Điều 26 quy định - Bao quát được các kinh tế, các quyền này. quyền được “phát triển quyền này, gồm 7 khía xã hội, tiến bộ” nhưng không cạnh khác nhau nhưng văn hoá rõ ràng. không chi tiết. 13
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền - Không quy định - Không quy định - Điều 19-24 quy định quyền dân tộc. quyền dân tộc. quyền dân tộc, đặc biệt có quyền phát triển mà Các không có một văn kiện quyền pháp lý quốc tế nào có. khác - Không có các nghĩa - Điều 32 quy định - Nghĩa vụ cộng đồng vụ đối với cộng đồng. “trách nhiệm cá nhân’ được quy định cụ thể nhưng không rõ. trong chương 2. Cơ quan giám sát và thực thi - Là một trong những - Là một trong những - Là cơ quan duy nhất cơ quan bảo vệ quyền cơ quan bảo vệ quyền bảo vệ quyền con con người. con người. người. - Được thành lập dựa - Phát triển từ cơ quan - Được thành lập dựa trên cơ sở Công ước. có trước là Uỷ ban trên cơ sở Hiến Liên Mỹ. chương. Chức năng và thẩm quyền: - Tiếp nhận đơn kiện. - Kiểm chứng tính chân thực của đơn kiện. Ủy ban - Đưa ra các biện pháp hoà giải. nhân - Nếu không hoà giải được, cho ý kiến xem có sự vi phạm không. quyền - Chỉ tiếp nhận đơn kiện khi dã sử dụng hết các biện pháp trong nước và gửi lên trong vòng 6 tháng kể từ ngày quốc gia đưa ra quyết định cuối cùng. - Có thẩm quyền bắt - Theo cơ chế Uỷ ban - Chức năng: hỗ trợ buộc đối với quốc gia và theo Công ước việc thực hiện HC và thẩm quyền lựa + Xem xét tình trạng Châu Phi và đảm bảo chọn đối với cá nhân. nhân quyền ở các nước các quyền được công - Họp 5 phiên toàn thể + Có thể vào tận lãnh nhận trong Hiến mỗi năm. thổ khảo sát. Chương. 14
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền - Sau NĐT 11, ngừng + Khuyến nghị và tiến - 2 phiên họp thường hoạt động và sát nhập hành báo cáo. niên mỗi năm. vào TANQ. + Mỗi năm có 2 phiên - Đưa ra ý kiến tư vấn. họp thường niên và các phiên bổ sung. + Xem xét đơn kiện cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức chính phủ. + Thẩm quyền lựa chọn đối với quốc gia và bắt buộc đối với cá nhân. - Gồm các Bộ trưởng - Không có. - Không có. hay thứ trưởng các quốc gia thành viên Hội đồng châu ÂU. Uỷ ban - Chức năng: thẩm bộ quyền tài phán, đồng trưởng thời giám sát và cưỡng chế việc thực thi các phán quyết. - Hiện nay chỉ giữ chức năng giám sát. - Chỉ có các quốc gia thành viên và Uỷ ban nhân quyền có quyền đệ trình vụ việc lên Toà án. Toà án không chấp nhận đơn kiện của cá nhân. Toà án - Có thẩm quyền đối - Có thẩm quyền yêu - Có thẩm quyền như nhân với tất cả các vụ việc cầu bị đơn khắc phục Toà án châu Âu nhưng quyền liên quan đến giải tình trạng bị vi phạm hoạt động không hiệu thích và áp dụng CƯ. và trả các phí tổn. quả. 15
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền - Phán quyết được - Nếu quốc gia liên chuyển lên UBBT để quan không tuân thủ, giám sát thi hành quyết Toà án sẽ làm báo cáo định. hàng năm gửi lên - Toà án châu Âu sau ĐHĐ OAS đồng thời NĐT 11: mang tính đưa ra các khuyến thường trực có trách nghị. nhiệm xem xét tính - Quyền đưa ra ý kiến thỏa đáng của đơn kiện rộng hơn châu Âu. và xét xử vụ việc. Hiện nay, cơ chế nhân quyền ở châu Âu được đánh giá là hiệu quả nhất, có đủ Toà án nhân quyền và Uỷ ban Bộ trưởng với cơ chế cưỡng chế hoạt động chặt chẽ. Cơ chế nhân quyền châu Mỹ cũng mang lại một số hiệu quả nhất định. Còn cơ chế nhân quyền châu Phi do vẫn chưa có cơ quan tài phán nên hiệu quả chưa cao. Trên thực tế, Toà án nhân quyền châu Phi chưa chính thức giải quyết một tranh chấp nào, các tranh chấp liên quan đến vấn đề nhân quyền hay quyền dân tộc đều được đưa ra giải quyết tại Uỷ ban. Từ những điểm mạnh cũng như hạn chế của 3 cơ chế nhân quyền khu vực, chúng ta có thể xây dựng đuợc một hình mẫu cơ chế bảo vệ nhân quyền riêng của khu vực châu Á. Cùng với các văn kiện nhân quyền và cơ chế giám sát thực thi của Liên Hợp Quốc, ba cơ chế khu vực đã tạo nên một bộ máy tương đối hoàn thiện, chặt chẽ và hiệu quả để bảo vệ quyền con người trên phạm vi toàn cầu. c. Phạm vi trong từng quốc gia Có thể thấy, luật quốc tế phải dựa vào quan điểm và bộ máy nhà nước để xây dựng, áp dụng và thực hiện các điều khoản. Xét cho cùng, nhà nước là chủ thể chịu các trách nhiệm này trong luật quốc tế và thông qua nhà nước, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các trách nhiệm này phải được thực hiện. Bản thân các thể chế quốc tế có rất ít hoặc không có quyền lực thực sự, đặc biệt khi so sánh với các cơ quan thuộc chính 16
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền phủ của một quốc gia. Do đó, (như đã trình bày ở trên) số lượng các quốc gia dần tham gia vào các cơ chế, thể chế quốc tế và khu vực ngày càng tăng lên là một dấu hiệu khả quan về việc thực thi luật nhân quyền quốc tế. Xét cụ thể việc thực thi các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người ở Việt Nam. Tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người là một chủ trương thường xuyên và nhất quán của Việt Nam, thể hiện cam kết cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết các công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người, cụ thể là 8 công ước sau: Công ước về Quyền Dân sự, Chính trị; Công ước về quyền Kinh tế, Văn hoá, Xã hội; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước Quyền Trẻ em; và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm; Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt các tội ác A-pác-thai; Công ước về không áp dụng những hạn chế luật pháp đối với tội phạm chiến tranh và tội chống nhân loại. Kéo theo đó là việc ghi nhận và áp dụng thực tế các quyền này trong nội luật quốc gia.2 Tuy nhiên do giữa các quốc gia còn nhiều khoảng cách về mọi mặt, việc xóa bỏ bảo lưu là một quá trình lâu dài. Việt Nam đã thực hiện quyền bảo lưu của mình đối với một số điều ước quốc tế (ví dụ: Điều 48, mục 1 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị).3 Thêm nữa, tham gia vào các cơ chế, các tổ chức này, Việt Nam phải báo cáo định kỳ trước các ủy ban giám sát điều ước. Thực tế, Việt Nam đã trình và bảo vệ thành công tất cả các báo cáo quốc gia liên quan các công ước quốc tế về quyền con người (ví dụ: Việt Nam đã trình và bảo vệ thành công báo cáo về việc thực hiện Công ước Chống Phân biệt Đối xử với Phụ nữ (CEDAW) vào ngày 11/7/2001).4 Việc hoàn 2 Bộ ngoại giao, Hợp Tác Quốc Tế Trong Lĩnh Vực Bảo Đảm Và Phát Triển Quyển Con Người, http://www.mofa.gov.vn/vi/ctc_quocte/ptklk/nr040819162124/ns070731132735/view, truy cập ngày 4/9/2009. 3 Đặng Trung Hà, Kết Quả Ký Kết, Gia Nhập Các Điều Ước Quốc Tế Về Nhân Quyền Và Vấn Đề Nội Luật Hóa Vào Pháp Luật Việt Nam, Civil Law Network, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/03/13/2464/, truy cập ngày 4/9/2009. 4 Xem footnote 2. 17
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền thành một khối lượng công việc lớn để nộp hầu hết các báo cáo đúng thời hạn thể hiện sự nghiêm túc và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc bảo đảm tôn trọng và thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Điều này đã được Uỷ ban theo dõi thực hiện công ước cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Từ ví dụ Việt Nam có thể thấy việc tham gia vào các cơ chế quốc tế góp phần tạo thúc đẩy các quốc gia nỗ lực thực thi bảo đảm các quyền con người. Dù vẫn còn những bảo lưu, song đây là thực tế không thể tránh khỏi ở nhiều quốc gia do chính điều kiện của quốc gia đó. Ngoài ra, nói đến việc thực thi luật không chỉ đề cập đến cấp độ chính phủ mà bản thân nhận thức của người dân quốc gia đó cũng đóng vai trò quan trọng. Bởi nhà nước đảm bảo sự thực thi luật, nhưng các cá nhân mới là người phản ánh thực sự việc thực thi đó. Điều này yêu cầu việc thúc đẩy nhận thức về quyền con người trong chính các quốc gia. Ví dụ, quốc gia tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người, chấp nhận thẩm quyền của các cơ chế quốc tế bảo đảm quyền con người, quốc gia đó phải cho phép các cá nhân có quyền khiếu kiện rộng rãi hơn. Cụ thể là không chỉ giới hạn các cơ quan giải quyết những vi phạm nhân quyền là các cơ quan tài phán quốc gia mà phải mở ra cả phạm vi khu vực, phạm vi quốc tế. Ở các nước phát triển, luật quốc tế về các quyền con người đã được phát triển và truyền bá từ sớm. Do đó, nhận thức của người dân về các quyền của chính họ cũng phát triển. Thể hiện là việc các cá nhân đi kiện các chính quyền, chính phủ đã diễn ra ở nhiều nước, điển hình là các nước Tây Bắc Âu. Nói rõ hơn, luật nhân quyền ở châu Âu đã đạt đến trình độ dân chủ cao, bởi họ thiết lập một cơ chế khu vực cho phép các cá nhân đi kiện (như trình bày ở trên). Ngược lại, ở nhiều nước khác, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển, nhận thức của người dân còn nghèo nàn, cơ chế đảm bảo vẫn chỉ là trong nước (chưa nói đến việc liệu các quốc gia đó có qui định tất cả các quyền con người trong luật quốc tế vào trong nội luật). Điều này dẫn đến tình trạng báo cáo việc thực thi nhân quyền ở một số quốc gia không được khách quan. Đáng lưu ý hơn là điều này dẫn đến sự thiếu phản ánh lại luật quốc tế, thiếu mối tương tác hai chiều này luật quốc tế về nhân quyền khó có thể phát triển một cách dễ dàng. 18
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền III. Tổng kết xu hướng – Các bước phát triển 1. Nhận định chung Như đã trình bày ở phần trên, sự phát triển của luật quốc tế về quyền con người được thể hiện rõ nét trên cả ba phạm vi toàn cầu, quốc tế và khu vực. Những khuôn khổ pháp luật về quyền con người đã dần được định hình, phát triển và dần hoàn thiện hơn, đóng góp to lớn cho quá trình đấu tranh vì quyền con người trên toàn thế giới. Trên mỗi phạm vi đề cập ở trên, các khuôn khổ luật quốc tế về quyền con người có những nét đặc thù riêng, phát triển trong hoàn cảnh cụ thể của từng khu vực, từng quốc gia và thậm chí là từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, có thể nói rằng, các văn kiện về quyền con người đều được định hình theo một xu thế tương đối thống nhất: mở đầu bằng các cam kết, tuyên ngôn mang tính chính trị cao, ít ràng buộc pháp lý, tiếp đó là sự ra đời các công ước, văn kiện mang tính ràng buộc, và cuối cùng là quá trình tài phán hóa các quy định về nhân quyền với sự hình thành của các cơ chế tài phán toàn cầu, khu vực và quốc gia. 2. Các cam kết, tuyên ngôn như bước khởi đầu của các quy phạm thống nhất về quyền con người Ngay từ trước năm 1945, những cam kết về quyền con người giữa các quốc gia đã bắt đầu xuất hiện, chủ yếu dưới dạng tuyên bố hay hiến chương. Điển hình như Tuyên bố của 26 quốc gia thành viên Hội Quốc Liên vào ngày 1 tháng 1 năm 1942 về các nguyên tắc cơ bản về quyền con người - những nguyên tắc này về sau được ghi nhận trong các điều khoản của Hiến Chương Liên Hợp Quốc, Hiến Chương Đại Tây Dương năm 1941 (Atlantic Charter) về bốn quyền tự do cơ bản và quyền tự định đoạt (self-determination), Tuyên Ngôn Châu Mỹ về Quyền và Nghĩa Vụ của Con Người (American Declaration on the Rights and Duties of Man. Mặc dù những tuyên bố trên có nêu rõ về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, do bản chất chính trị còn lớn lại không có tính ràng buộc pháp lý cao, những tuyên bố này chỉ mang tính nền tảng cho sự hình thành của các văn kiện quyền con người sau này. Sự ra đời của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong quá trình hình thành các văn kiện mang tính toàn câu về quyền con người. Thực tế, đây là văn kiện đầu tiên có tính phổ biến rộng rãi trên toàn 19
- Bài tập nhóm – Môn học Nhân Quyền thế giới và đề cập một cách khá toàn diện đến các quyền của con người, từ các quyền dân sự, chính trị đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Dù chỉ là một văn kiện đưa ra dưới dạng nghị quyết của Đại Hội Đồng và nhiều ý kiến cho rằng nó vẫn mang nặng bản sắc chính trị, TNQTNQ đã đặt nền móng vững chắc và là một phần của Bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền sau này. Câu hỏi đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào khiến cho những văn kiện thủa đầu về quyền con người lại chỉ được đưa ra dưới dạng cam kết, tuyên ngôn. Thực tế là, chỉ từ những năm chiến tranh thế giới thứ II với sự tàn khốc của nó, các quốc gia trên thế giới và dư luận nói chung mới bắt đầu ý thức rõ rệt tầm quan trọng của quyền con người và sự bức thiết của việc ra đời các cam kết quốc tế về vấn đề này. Tuy nhiên, một trở ngại lớn trong quá trình hình thành các văn kiện pháp lý hay thiết lập một trật tự pháp lý xuất phát ngay từ nguồn gốc của vấn đề: “quyền con người” hay “nhân quyền” cần được hiểu như thế nào? Bản thân khái niệm nhân quyền là một khái niệm không thực sự rõ ràng, và vào thời điểm đó việc có được một cách hiểu thống nhất giữa các quốc gia trong từng khu vực và trên thế giới về vấn đề này là rất khó đạt được. Trong khi một số e ngại về việc con người đang bị tước đoạt những quyền cơ bản của họ ở khắp mọi nơi trên thế giới, thì một số khác cũng lo lắng về việc liệu có khả năng “quyền con người”, “nhân quyền”, “cải cách dân chủ” sẽ bị sử dụng và lạm dụng như một công cụ để thực hiện những ý đồ chính trị của các thế lực cầm quyền, hay của các thế lực chống phá hay không? Sự cần thiết của việc có những cam kết quốc tế về quyền con người là không thể chối bỏ, nhưng làm sao để những cam kết này có thể cân bằng giữa mọi quan ngại của các quốc gia là một vấn đề lớn cần giải quyết. Trong hoàn cảnh ban đầu đó, những tuyên ngôn hay cam kết quốc tế với những quy định cơ bản và các quy phạm tương đối chung chung (chứ chưa đi vào cụ thể), dù có ý kiến cho rằng chỉ mang tính hình thức hay tính chính trị mà ít ràng buộc pháp lý, là phương án tối ưu. Hình thức “tuyên ngôn” đạt được cùng lúc hai mục tiêu: phần nào đáp ứng nhu cầu dư luận, và làm an lòng chính phủ các quốc gia. Chỉ với hình thức đó thì những tuyên ngôn này mới có thể có được sự ủng hộ toàn cầu. Dù tính ràng buộc chưa cao, nhưng đó là bước khởi đầu cho những quy phạm thống nhất về quyền con người, và là nền tảng cho những phát triển tiếp theo của luật quốc tế về lĩnh vực này. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên hiện nay là gì? là giảng viên anh chị có những tác động nào để giúp sinh viên phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn nhằm học tập tốt?
15 p | 2229 | 273
-
Tiểu luận - Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước
30 p | 428 | 184
-
Tiểu luận: “ Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở công ty Sản xuất – xuất nhập khẩu đầu tư thanh niên Hà Nội”
90 p | 377 | 150
-
Tiểu luận: Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức
17 p | 464 | 112
-
Tiểu luận: Phép biện chứng duy tâm của Hêghen – Những giá trị và hạn chế
23 p | 625 | 97
-
Bài tiểu luận: Những yếu tố chất lượng tiền thu hoạch ảnh hưởng đến quá trình bảo quản chuối sau thu hoạch
36 p | 344 | 74
-
Tiểu luận “Những chính sách, những định hướng phát triển thích hợp để có một Thăng Long – Hà Nội mang đậm bản sắc dân tộc”
13 p | 243 | 73
-
Tiểu luận: Diễn biến lạm phát từ năm 2008 đến nay và nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam
17 p | 244 | 63
-
TIỂU LUẬN: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
29 p | 138 | 33
-
Tiểu luận: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam
13 p | 195 | 20
-
TIỂU LUẬN: Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
26 p | 139 | 13
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp tại đồng bằng sông cửu Long
30 p | 20 | 9
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Tác động của biến đổi khí hậu đến sự xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
18 p | 13 | 8
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống xã hội người dân đồng bằng sông Cửu Long
16 p | 17 | 7
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sinh vật ngoại lai xâm lấn
30 p | 24 | 6
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Tác động của biến đổi khí hậu và sức khỏe
21 p | 17 | 6
-
Bài tiểu luận: Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
122 p | 16 | 6
-
Tiểu luận môn Biến đổi khí hậu: Tác động của biến đổi khí hậu tới đồng bằng sông Hồng
18 p | 22 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn