intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Những thành tựu nhân quyền ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay

Chia sẻ: Phú Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

110
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của tiểu luận là khẳng định những thành quả về nhân quyền mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Những thành tựu nhân quyền ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay

  1. MỤC LỤC   1
  2. PHẦN MỞ ĐẦU Vấn đề nhân quyền luôn là vấn đề của các cuộc tranh cãi trên diễn đàn   chính trị thế giới đương đại. Thực chất của vấn đề này là gì? Loài người ghi  nhận nó đến đâu?  Ở  Việt  Nam  nhân quyền là vấn đề  hàng đầu trong quá  trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục đích cuối cùng của chế độ xã hội chủ  nghĩa mà chúng ta xây dựng là giải phóng con người, đem quyền làm chủ thực   sự  đến cho từng người lao động. Nhưng hiện tại các thế  lực thù địch, các   nước tư bản phương Tây dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, vị thế nước lớn   luôn muốn áp đặt thứ  nhân quyền xa vời, giả  tạo với các nước khác, luôn   xuyên tạc bôi nhọ, vu khống phủ nhận những thành tựu của các nước, muốn  can thiệp vào công việc nội bộ các nước hòng thực hiện mưu đồ bất chính.  Trong quá trình phát triển kinh tế­ chính trị­ xã hội­ văn hoá hơn sáu  mươi năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu đặc sắc “diện mạo đất  nước, con người đều đổi mới”. Trong những thành tựu đó quyền con người  đạt được nhiều thành công, được đánh giá là thành tựu vượt bậc, quan trọng   nhất trong quá trình giải phóng con người của cách mạng nước ta. Từ những suy nghĩ trên, tôi chọn “ Những thành tựu nhân quyền ở Việt   Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay” để làm đề tài nghiên cứu trong bài  tiểu luận này. Nhằm nêu ra những luận cứ  khẳng định những thành quả  về  nhân quyền mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự  lãnh đạo của Đảng và Nhà   nước, góp phần bác bỏ  những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, lợi dụng vấn  đề nhân quyền để chống phá sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo   2
  3. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI    1.1. Lịch sử phát triển tư tưởng nhân quyền. Trong lịch sử  phát triển các học thuyết chính trị  của loài người nhân  quyÒnlu«n luôn được các học giả  các nhà nước tìm hiểu và xây dựng. Tuỳ  từng thời kỳ lịch sử khác nhau học thuyết này cũng có những biến đổi và hoàn  thiện. Nhân quyền là vấn đề  không bao giờ  cũ, nó luôn luôn mới xét theo ý  nghĩa tÕn bộ  lịch sử và phát triển của cá nhân xã hội. Trong mỗi thời kỳ lịch   sử  ấy các học giả các trường phái đều có những quan niệm riêng về  vấn đề  này. Thời cổ  đại. Khi đề  cập đến vấn đề  nhân quyền các triết gia đã nêu   lên nguyên tắc “các quyền con người(quyền tự  nhiên ) là tài sản của tất   cả mọi người ở mọi thời đại”. ở thời kỳ này thị dân ở một số thành phố Ai  Cập đã sử  dụng các quyền nh tự  do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả  mọi người trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng các quyền tự nhiên  thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Hamurabi (Lưỡng Hà cổ đại) cho rằng “công lý bùng nổ để ngăn chặn   kẻ  mạnh làm hại kẻ  yếu”.Ông coi trọng công lý xã hội , bảo vÔ kẻ  yếu ,  quan tâm đúng đên mọi người trong xã hội.     Mạnh Tử  (Trung Quốc cổ  đại) cho rằng  “cá nhân con người là vô   cùng quan trọng còn nhân cách của vua chúa thì ít quan trọng hơn”.Mạnh Tử  đề cao cá nhân con người trong xã hội , nâng cao vai trò xã hội của con người,   cho ta thây ông r©t quan tâm đến con người trong phát triển xã hội còn vua  chóa«ng xªp s¨u cá nhân con người .    Trong thời kỳ cổ đại mặc dù trình độ sản xuất còn đơn giản, trình độ  tư duy lý luận còn nhiều hạn chế, các triết gia cổ đại đã đề cập rất sớm đến  quyền tự do ngôn luận, bình đẳng, bảo vÔ kẻ yếu, đề cao nhân cách cá nhân.  Những luận điểm tiến bộ  này chỉ  có được khi loài người tồn tại trong một  nền văn minh nhất định, khi xã hội được tổ  chức chặt chẽ. Nhưng các quan   điểm trên thiên về các quyền tự nhiên chưa ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật. Thời trung đại.   thời kỳ  của nhà thờ  và giáo lý, thần quyền   và thỊ  quyền bóp nghẹt cuộc sống của nhân loại. Những giá trị tiến bộ buổi ban sơ  con người đạt được về  nhân quyền bị  giai cấp thống trị  bóp nghẹt  và thay  vào đó là cường quyền và thiên quyền, con người phải sống với những tín  điều, niềm tin vào thế  lực siêu nhiên thần bí ngột ngạt và đầy bất công.  Nhưng chính trong vòng kìm hãm đó đã tiềm  ẩn mầm mống của đấu tranh,    3
  4. con người  vùng lên để  đòi lại những quyền của con người. Nhà nước vi  phạm quyền con người thì vấn đề quyền con người được đặt ra trên hết. Thời cận đại.  Đến thế  kû XVI trở đi, quan hệ  sản xuất TBCN ra đời   và phát triển. Sự tồn tại của nhà thờ và chế độ phong kiến trở thành vật cản   cho tiến trình tự  do phát triển kinh tế  TBCN. Giai cấp tư  sản có sứ  mệnh   tuyên chiến với nhà thờ và vương triều phong kiến để mở đường cho lịch sử  tiến lên. Đến thế  kû XVII­XVIII, quyền con người được các học giả  tư  sản  bàn đến nh một học thuyết. Các trường phái , các quan điểm của các học giả  tư sản thời kỳ này có những điểm tương đồng hoặc khác biệt nhau nên ta có   thể chia ra các trường phái sau:  Trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện tiêu biểu:              Spinoda(1632­1670)                         G.Locke(1632­1704)                         Kant¬(1724­1804) Các ông quan niệm rằng:”Quyền con người là đặc quyền tự  nhiên.   Đặc quyền tự  nhiên này do có pháp luật tự  nhiên   cao hơn pháp luật thực   định”. G.Locke đã nêu ra và lập luận các quyền cơ  bản, quyền tự nhiên của  con người  bao gồm quyền sống, quyền  được  tự  do và quyền có tài sản.  Thuyết pháp luật tự nhiên ra đời trong điều kiện xã hội châu Âu phong kiến   khi mà thần quyền và thỊ  quyền  ở  đỉnh cao của sự  thống trị, nhân dân lao  động đang trong thỊ  tận cùng của sự  nô dịch cho nên họ  bị  liên minh thần   quyền và thỊ  quyền chà đạp vi phạm quyền con người. Vì vậy, trong ý nghĩ  ban đầu Thuyết pháp luật tự  nhiên ra đời nhằm đáp  ứng nhu cầu tự  do của   con người khẳng định quyền con người là tự nhiên , vốn có nhằm đối lập và   phủ  nhận quan niệm quyền con người do vương quyền và thần quyền  ban   phát. Quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên một mặt nhằm đói lập và phủ nhận   quyền lực nhà nước phong kiến và mặt khác nó đối lập và phủ  nhận quyền   lực, luật lệ của nhà thờ Thiên chúa Trường phái pháp luật tự nhiên đã xây dựng được một cách vững chắc  nguyên tắc bảo vệ quyền cá nhân con người trước quyền lực. Học thuyết này  đã được các cuộc cách mạng tiến bộ ghi nhận  nh sự  hoàn thiện học thuyết  nhân quyền. Đó là năm 1629, Nghị viện Anh ra yêu sách “về các quyền”, đến  năm 1689 sau cách mạng tư sản, yêu sách được ghi nhận vào pháp luật về các   quyền. Năm  1776, “Tuyên ngôn  độc lập” của Mü  khẳng  định bảo vệ  các  quyền con người. “Tất cả  mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo   hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền     4
  5. ©y   có   quyền   được   sống   quyền   được   tự   do   và   quyền   mưu   cầu   hạnh   phúc”.Năm 1789 “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp khẳng  định các quyền con người.  “Người ta sinh ra tự  do và bình đẳng về  quyền   lợi, và phải luôn luôn tự  do và bình đẳng về  quyền lợi”.Phải đến năm 1948  khi công  ức quốc tế  vỊ  nhân quyên của Liên hợp quốc ra đời đánh dấu sự  hoàn thiện cũng như mức độ phổ biến của học thuyết nhân quyền. Các học giả trường phái này cho rằng: nhân quyền là một giá trị nhân  loại, nó được hình thành trong lịch sử  với cuộc đấu tranh giai cấp. Qua các   thời đại khác nhau nhân quyền được bổ sung dần đầy đủ. Nhân quyền không  phải là quyền cá nhân con người mang tính bẩm sinh tự  nhiên mà luôn gắn   liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công xã hội, chịu sự  chi phối của chế độ kinh tế, chính trị của nhà nước nhất định. Như vậy là khi  chưa có nhà nước, khi nhà nước chưa ra đời thì nhân quyền chưa bàn đến. Chỉ  khi nào xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời và có sự vi phạm quyền con người   thì   vấn đề  nhân quyền mới được đặt ra.ở  đây có một nghịch lý rằng nhà   nước là công cụ trấn áp giai cấp này với giai cấp khác thì nó luôn luôn có thể  vi phạm đến các quyền con người. Mặt khác nhà nước đóng vai trò là người  đại diện xã hội đẻ ghi nhận, xử lý các vi phạm quyền con người trong xã hội.  Nhưng “con người là động vật chính trị”1, con người cần đến xã hội để  tồn  tại và phát triển. Xã hội cần có quÒn lực để  điều hoà, trấn áp các mối quan  hệ xã hội. Trong xã hội luôn tồn tại giai cấp, tập đoàn nhưng mâu thuẫn, đối   kháng nhau về lợi ích nhất định. Quyền lực dẫn đến xung đột khi giải quyết   các xung dột thì phải cần đến quyền lực.   Nh  vậy là quyền lực giúp con  người giải quyết các mâu thuẫn phức tạp, bảo vệ  con người để  con người  được tồn tại, được cứu trợ… Từ  những nghịch lý mâu thuẫn trên các nhà tư  tưởng cận đại đưa ra   hai khuynh hướng giải quyết sau:   ­ Khuynh hướng thu hẹp: “quyền lực nhà nước cần phải thu hẹp  lại”.Đây là điều kiện để thoả mãn yêu sách của từng cá nhân  nhằm bảo đảm  sự an toàn của từng cá nhân tự do tư tưởng. ­ Khuynh hướng mở rộng:“tăng cường hơn nữa quyền lực nhà nước”,   thiết lập quyền lực dân chủ chống cực quyền để đảm bảo thoả mãn yêu sách  về các quyền của con người. Nhưng dù mở  rộng hay thu hẹp các quyền con người trong xã hội tư  bản chỉ  bàn trên lý thuyết và ghi nhận thành văn trong tuyên ngôn của cac   cuộc cách mạng như  Anh, Mỹ(1776), Pháp(1789) của giai cấp tư  sản. Thực  chất nhân quyền và sự  bình đẳng nhân quyền đó chỉ có trong giai cấp tư sản   bởi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chấp nhận có sự   bóc lét, có giai   1  1 ArÜtt«t   5
  6. cấp bóc lột ,có giai cấp bị bóc lột. Có bóc lột thì có áp bức giai cấp các quyền  tự do bình đẳng. Trong xã hội có áp bức giai cấp hiển nhiên sẽ bị vi phạm và  không có nếu có thì có chăng chỉ  trong nội bộ  giai cấp  có chung quyền lợi.   Giai cấp tư  sản trong xã hội tư  bản chiếm một số  ít và tập trung trong tay   mình toàn bộ  tư  liệu sản xuất và như  vậy đặc quyền sẽ  tập trung vào tay   thiểu số  tư  bản­ giai cấp thống trị  , còn đa số  nhân dân lao động không hề  được đảm bảo các quyền cơ bản. Những tuyên ngôn hoa mü kia có ghi nhận   quyền con người đầy đủ  đến đâu thì nhân quyền vẫn bị  chà đạp. Đại đa số  quần chúng nhân dân lao động vẫn rên xiết dưới ách kìm kẹp của chủ  nghĩa   tư bản.  Chủ  nghĩa Mác – Lê nin đã chỉ  ra rằng muốn xoá bỏ  vi phạm nhân   quyền đó thì phải xoá bỏ chế độ đặc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thì mới   biến quyền con người từ lý thuyết thành hiện thực, để quyền con người thực   thi đầy đủ  cân bằng phải xây dựng  một nhà nước chung giai cấp, điều hoà  giai cấp. Học thuyết Mác – Lê nin về nhân quyền ra đời đã đánh dấu sự hoàn   thiện học thuyết nhân quyền. Học thuyết Mác­Lênin là một chỉnh thể  thống  nhất thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người. Học   thuyết ấy là sự kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân  loại về  con người và quyền con người. C.Mác đã xuất phát từ  con người là  một thực thể thông nhất, một “sinh vật xã hội”. Do đó quyền con người là sự  thống nhất biện chứng giữa “quyền tự  nhiên”­những đặc quyền vốn chỉ  có   con người mới có và “quyền xã hội” tức là sự    chế  định bằng các quy chế  pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Sự  thống nhất giữa hai yếu tố  đó có thể  thấy trong lý luận của chủ  nghĩa Mác­Lênin về  quyền con người.  C.Mác cho rằng, con người là sản   phẩm cao nhất của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, một mặt là   sản phẩm của những điều kiện tự  nhiên xung quanh trong suốt cuộc đời, và  do đó lại chính xã hội sản sinh ra con người. Vì vậy bản thân con người là sự  thống nhất  giữa mặt tự  nhiên và mặt xã hội. Trong mọi trường  hợp  con   người luôn luôn là động vật xã hội. Từ  đó việc giải quyết nhu cầu của mỗi   cá nhân chỉ  có thể  đúng khi đặt nó trong quan hệ  xã hội, bởi vì chỉ  có trong   cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có những điều kiện, phương tiện để  phát   triển toàn diện những kh¼ năng của mình, chỉ  có trong cộng đồng mới có tự  do cá nhân.Phải giải phóng con người, giải phóng khái sự  ràng buộc của tư  bản bất công, trói buộc con người trong những guồng quay máy móc, xây  dựng một xã hội mới không còn bất công, xã hội đó phải đảm bảo cho các  quyền con người thực hiện đầy đủ nhất. Sự  phát triển học thuyết nhân quyền của Mác­Ănghen sau này được  V.I. Lênin­ nhà cách mạng thiên tài đã kế  thừa và phát triển học thuyết, tư  tưởng của Mác về  quyền con người và khẳng định rằng “giai cấp vô sản     6
  7. không thể  tự  giải phóng bản thân mình nếu không tiêu diệt tất cả  các điều   kiện phi nhân quyền của đời sống trong xã hội hiện nay”. Nghiên cứu các  quyền tự  nhiên mà chủ  nghĩa tư  bản khẳng định trong các Tuyên ngôn ,các  văn bản pháp lý… Lênin chỉ  ra rằng: “quyền con người là những đặc quyền  tự  nhiên mà con người có chưa phải đã là quyền con người”.  Để  đạt tới  quyền thì phải có quy chế  pháp lý thực hiện các đặc quyền tự  nhiên, chỉ  khi  nào được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh thì đó mới là quyền con người,  không có pháp luật thì không có quyền. Quan điểm trên của Lênin đã chỉ  ra   rằng quan niệm của thuyết pháp luật tự nhiên  về  quyền con người gắn với   thiết chế  quyền lực nhà nước và pháp luật. Đồng thời Lênin cho rằng phải  xây dựng một chế  độ  nhà nước chung của giai cấp, điều hoà mọi lợi ích xã  hội. ở đó mỗi người lao động được hưởng đầy đủ  các quyền như nhau, bình   đẳng như  nhau.Và sự  thực cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã làm được  điều đó. Cuộc cách mạng này đã xoá bỏ được mọi áp bức bất công của xã hội   phong kiến, tư  bản, đưa nhân dân lao động lên làm chủ  đất nước, làm chủ  bản thân mình.Một cuộc cách mạng thực sự chuyển đổ về chất bước từ một   xã hội cũ tiến lên một xã hội mới tiến bộ nhất.  ở đó các quyền tự nhiên của  con người được thực hiên đầy đủ  trong hiến pháp và pháp luật. Thành tựu   bảy mươi năm xây dựng chế độ mới chế độ  xã hội chủ nghĩa đã khẳng định  thành tựu nhân quyền đích thực xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống con người được  tự  do phát  triển và quan tâm đúng mức. Thành công trong xây dựng nhân  quyền các nước xã hội chủ  nghĩa Liên Xô, Đông Âu là bài học cho chúng ta  hôm nay xây dựng và hoàn thiện học thuyết này ở  Việt Nam và các nước xã   hội chủ nghĩa trên thế giới. 1.2. Khái niệm nhân quyền. Nhân quyền được các học giả  nghiên cứu từ  rất sớm, mỗi một giai   đoạn khái niệm về nhân quyền có thay đổi rất nhiều. Sự thay đổi ấy do điều  kiện kinh tế  xã hội giai đoạn lịch sử  đó quy định. Để  xây dựng khái niÖn  nhân quyền đúng nhất, ta nghiên cứu thuộc tính cơ  bản nhất của quyền con   người trên quan điểm chủ nghĩa Mác­Lênin. ­Tính lịch sử của quyền con người. Khi xã hội có áp bức, có vi phạm   nhân quyền  ắt có đấu tranh nhân quyền. Như  vậy nhân quyền ra đời trong  cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, C.Mác chỉ  ra rằng “quyền con người   không phải là khái niệm trừu tượng và cũng không chỉ  là quyền tự  nhiên mà   luôn gắn với đấu tranh giai cấp”. Tuỳ  vào tính chất, phạm vi nhân quyền   trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau nghĩa là quyền con người  phụ thuộc vào phương thức sản xuất với quan hệ sản xuất quy định nên chế  độ chính trị xã hội ấy.   7
  8. ­Tính giai cấp của quyền con người. Trong xã hội có giai cấp, có áp  bức giai cấp thì tự do cho giai cấp này là sự mất tự  do của giai cấp đối lập.   Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nhất định không có sự  bình đẳng. Sự  bình đẳng chỉ  có trong nội bộ  giai cấp cùng quyền lợi. Trong xã hội tư  bản  chủ nghĩa có sự đối kháng bóc lột giai cấp thì tất nhiên quần chúng bị bóc lột   không có nhân quyền. Chỉ  khi nào xã hội tiến bộ,  ở  xã hội  ấy không còn áp  bức mọi người làm chủ  tư  liệu sản xuất , xoá bỏ  giai cấp thì tất yếu nhân   quyền được thực thi đầy đủ.  Nhân quyền mang tính nhân loại sâu sắc.Bởi nhân quyền là cuộc đấu   tranh của toàn thể nhân dân lao động đập tan ách thông trị của phong kiến đế  quốc giành lại tự  do cho chính mình, là giá trị  nhân văn cao quý mà xã hội  hướng tới, giải phóng cá nhân con người để  con người có điều kiện phát  triển nhân cách của mình. Điều đó không chỉ  thực hiện  ở  một quốc gia, dân  tộc mà phải thực hiện trên toàn thế giới ở tất cả các quốc gia. Từ những thuộc tính trên từ điển tiếng việt đã nêu nên định nghĩa nhân  quyền như  sau: “quyền là lợi lộc được hưởng do ®i¹ vị  đem lại”  quyền con  người là nhưng đặc quyền mà chỉ con người mới có mới được hưởng . Nhân  quyền là những giá trị gắn với mỗi con người với tư cách là cá nhân trong xã  hội nhất định Quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể  hiện   lợi ích quốc gia dân tộc cộng đồng. Quyền con người ®¬c xã hội hoá bằng  pháp luật cụ  thể, pháp luật ghi nhận các quyền của con người không phân  biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp và phái phù hợp với chế độ  chính trị, lịch sử ,  xã hội cụ  thể. Chỉ  thông qua pháp luật thì các quyền con người mới được  khăng định và đảm bảo thành hiện thực trong thc tiễn. Từ  những phân tích trên ta có thể ghi nhận rằng:  quyền con người là  những đặc lợi vốn có tự nhiên đạt được trong các quan hệ xã hội, được pháp  luật thừa nhận,  mà chỉ  con người mới được hưởng trong những điều kiện  chính trị , kinh tê, văn hoá nhất định.  II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM 2.1.Thực trạng nhân quyền ở Việt Nam trước năm 1945. Khi giai cấp ra đời, nhà nước ra đời, có giai cấp thống trị và có giai cấp  bị thống trị. Giai cấp thống trị luôn tìm cách bóc lột giai cấp bị trị đem lại lợi   ích phục vụ  cho mình. Trong chừng mực nhất định có sự  dung hoà giai cấp  trong xã hội thì không có đấu tranh giai cấp. Chỉ đến khi giai cấp thống trị bóc   lột quá mức nẩy sinh mâu thuẫn xã hội vi phạm quyền tối thiểu của con  người khi đó sẽ  có đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho chính quyền sống của  mình. ở Việt Nam trong xã hội phong kiến có phân tầng xã hội tuy không rõ  ràng nh ở các nước phương tây nhưng trong xã hội có giai cấp ắt có đấu tranh  giai cấp. Xã hội phong kiến Việt  Nam  trước khi thực dân Pháp xâm lược    8
  9. 1858 chế  độ  phong kiến trị  giai đoạn đầu thời Lý ,Trần, Lê phát triển thịnh  đạt thì nhìn chung nhân dân có sống trong yên  ấm. Xét trong một số văn ban  pháp luật chiếu thư có đề cập đến các quyền con người nh: Chiếu cấm mua bán nô tú năm 1499 của Lê Hiến Tông “từ  nay trở  đi  cấm dân không được cướp mua người Man và buôn bán nô tú. Ai vi phạm thì  cho phép hữu ty ho¨c xét trị  tội”1 quy định này ra đời trong khi nạn mua bán  cướp bóc nô tú đang diễn ra có thể nói quy định này rất tiến bộ đã đề cập đến   quyền của con người – quyền tự  do bình đẳng con người không phải là đồ  vật mua bán trao đổi ngoài xã hội . Nếu so sánh với điều 4 tuyên ngôn thế  giới về  nhân quyền thì điêu quy định trên rất tương xứng   “không ai bị  giữ  làm nô lệ  hoặc bị nô dịch, chế  độ  nô lệ  hoặc buôn bán nô lệ  dưới mọi hình   thức đều bị cấm”2 Năm 1511 chiếu về  bảo vệ  quyền bất khả  xâm phạm về  thân thể,  quyền sở  hữu tài sản, nhân phẩm, danh dự  của con người được ban hành quy định rõ:  “…trong thiên hạ  có bọn gian phi, ác đảng vẫn mua bán tú thiếp xâm chiếm   ruộng đất của dân, cướp do¹t tiền tài của dân, d¸nh đập lương dân, trêu ghẹo  đàn bà con gái ngang ngược hung bạo quấy nhiễu dân mọi. Những kẻ  ấy thì  cho người bị  hại và các xã phường, thôn trö¬ng áp giải đến tố  cáo với các   quan thừa hiến, châu, huyện để  tÊu lên trị  tội theo pháp luật nếu các quan  không chịu xét hỏi thì tÊu lên bộ  hình xét hỏi cả  hai”3. Ngoài ra còn một số  chiếu chỉ, sắc lệnh về  việc cấm đánh đập người làm công, lính, thợ, chiếu  chỉ đối đãi tù nhân. Những quy định tiến bộ của chế độ phong kiến Việt Nam   thời hưng thịnh đánh dấu bước phát triển vượt bậc về  vấn đề  nhân quyền,   quyền cơ bản nhất của con người được chế độ phong kiến quan tâm quy định  đúng đắn. Đó là điểm tiến bộ của pháp luật phong kiến Việt Nam được thế  giới đánh giá cao. Việc bảo vệ  các quyền cơ  bản của con người được cha   ông ta quan tâm thể  hiện truyền thống nhân văn trong việc đối xử  với con  người của dân tộc ta. Quyền của con người được chế độ phong kiến Việt Nam đề cập sớm  và bước đầu thực hiện song nhìn chung chưa được phổ  biến rộng rãi và kết  quả đạt được chưa cao do đó còn hạn chế. Nhưng nhìn chung trong điều kiện   lịch sử thời bấy giờ có được tư tưởng tiến bộ đó thật đáng trân trọng. Năm 1858 thực dân Pháp nổ  súng xâm lược nước ta, triều đình nhà  Nguyễn đã đầu hàng nhanh chóng dâng nước ta cho giặc. Chế độ phong kiến   Việt Nam xuống dốc, mâu thuẫn giai cấp nông dân­ phong kiến thực dân đã ở  vào đỉnh điểm. Thực dân Pháp là kẻ  thù xâm lược mới, là một nước tư  bản   1  V¨n kiÖn quèc tÕ vÒ quyÒn con ngêi.Trung t©m nghiªn cu vª quyÒn con ng¬i.Nxb.Chinh tri quèc gia,HN 2004 2 3.   . §¹i viÖt sö kÝ toÇn th. Ng« SÜ Liªn .t3. tr20.tr61.NXBKHXHNV.Hn   9
  10. chủ  nghĩa có quân đội mạnh nhà nghề, lại được trang bị  vũ khí và phương   tiện chiến tranh hiện đại, có tiềm lực kinh tế mạnh. Bám lấy quyền lợi ích kỉ  giai cấp phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lại lợi   ích của quốc gia dân tộc bán nước ta cho Pháp. Về  kinh tế:  Sau khi xâm chiếm hầu hết các tỉnh  ổn định tình hình  chính  trị, dÍp các cuộc bạo đọng khởi nghĩa thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc   khai thác thuộc địa béo bở Đông Dương. Để  bóc lột được lợi nhuận tối đa ở  thuộc địa Pháp thực hẹn chính sách kinh tế  thực dân rất bảo thủ  và phản   động “duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập   một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”1 chính quyền thực  dân đặc biệt coi trọng thủ đoạn bóc lột phi kinh tế thời trung cổ, đó là chế độ  thuế  khoá vô cùng nặng nề  và hết sức vô lÝ: thuế  thân, thuế  chợ, thuế  đò,   thuế  cư  trú, thuế  đinh…hàng trăm thứ  thuế  “tính bình quân mỗi người Việt  Nam trong một năm phải đóng thuế  cho chính quyền thực dân số  tiền ngang  với số tiền công lao động của họ từ hai đến ba tháng”2. Để  đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế, thực dân Pháp thực hiện   chuyên chế  về  chính trị.  Chóng dùng lối cai trị  trực tiếp, thẳng tay đàn áp,  chóng tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự  do dân chủ  nào. Thực   dân Ph¸op thực hiện chính sách chia để trị, chóng chia nước ta thành ba kỳ với   ba chế  độ  cai trị  khác nhau, ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, việc đi lại   giữa ba kỳ Bắc, Trung, Nam phải xin giấy phép của chính quyền sở tại. Về văn hoá: Thực dân pháp ra sức thực hiện văn hoá nô dịch, gây tâm  lý tự ti dân tộc, phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan dể nmª hoặc, đem văn hoá  phản  động  đồi  trụy  để  mê hoặc nhân  dân ta. Chóng ngăn chặn mọi  ảnh   hưởng của văn hoá dân chủ  tiến bộ  tiên tiến trên thế  giới vào Việt  Nam.  Thực hiện chính sách ngu dân triệt để. Các quyền cơ  bản của con người nh quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận,  tự do hội họp, đi lại…bị vi phạm nghiêm trọng. Công nhân lao động bị  đánh   đập sa thải bất cứ lúc nào, phụ  nữ trẻ em bị xúc phạm về  thân thể  danh dự.   Các văn bản  ấn phẩm xuất bản bị  thực đan Pháp kiểm duyệt gắt gao chặt  chẽ. Những tư tưởng tiến bộ, sách báo nước ngoài bị cấm đoán… Nh vậy các quyền cơ bản nhất của con người bị chính quyền thực dân  vi phạm nghiêm trọng. Qua nghiên cứu các luật các sắc lệnh thời kỳ đó mới   thấy con người Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến trước 1945 bị vi  phạm nh sau: 1, 2 LÞch sö §¶ng céng s¶n ViÖt Nam. Nxb Sù thËt Hn 1984 t1tr27,tr32      10
  11. Thứ  nhất: Người Việt Nam không có quyền được sống trong độc lập  tự  do. Những người yêu nước đấu tranh cho độc lập tự  do đều bị  đàn áp dã  man  “những người cầm binh khí chống lại Đại Pháp đều bị tử hình”1. Thứ hai: Quyền tự do lập hội, tự do hội họp của nhân dân của cá nhân   bị cấm đoán “phàm tụ họp một cách bí mật giấu không cho quan trên biết thì  phạt tù giam và tiền bạc. Những người hội trưởng , hay sáng lập bị phạt gấp   đôi nặng nhất là tử hình”2. Thứ ba: Quyền tự do ngôn luận bị cấm đoán mọi người dân trong xã   hội đều khong có quyền tự  do phát ngôn, không được nói những điều mình   muốn nói, bàn luận nhất nhất phải phục tùng quan trên. Nghiêm cấm tất cả  các văn bản giấy tờ, hình vẽ, thư từ …cấm các sách báo. Thứ tư: Một số quyền con người như quyền bất khả xâm phạm thân  thể, quyền sở hữu tài sản đi lại, giao lưu…về mặt hình thức được pháp luật  bảo vÔ nhưng trên thực tế quyền ấy của công dân khong được thực hiện mà   có chăng chỉ  áp dụng trong tầng lớp trên của xã hội còn quảng đại quần  chóng gồng mình trong nô lệ  đen tối. Điều đó được Hồ  Chí Minh phát biểu  tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng xã hội Pháp họp tại Tua ngày 25­ 30/12/1920 : “Chúng tôi­ những người dân An Nam không có quyền tự do báo  chí, tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp cũng không có. Chúng tôi  không có cả  những quyền bất khả  xâm phạm về  thân thể  hoặc đi du lịch  nước ngoài. Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi  không có quyền tự do học tập”1. 2.2. Những thành tựu đạt được về  nhân quyền  ở  Việt  Nam  sau  cách mạng tháng 8/ 1945. Cách mạng tháng Tám thành công. Một cuộc cách mạng thực sự  làm  biến đổi về  chất cho xã hội Việt Nam cuộc cách mạng  ấy đã làm thay đổi  toàn bộ đời sống, chính trị, kinh tế, văn hoá cho nhân dân Việt Nam. Tị thân  phận nô lệ, thân phận của người dân mất nước phải sống trong tăm tối kìm  kẹp, mất tự  do nay vươn lên làm chủ  chính mình, làm chủ  quê hương đất   nước mình. Từ đó nhân quyền được thực hiện đầy đủ. Thực tế  chứng ming rằng muốn thực hiện được nhân quyền hay nhân  quyền không bị vi phạm chỉ khi nào con người sống trong độc lập tự do. Cách   mạng tháng Tám đã làm được điều đó.  Quyền được sống trong đọc lập tự  do là quyền tự nhiên thiêng liêng   mà mỗi dân tộc, mỗi con người đều được bình đẳng và tôn trọng như  nhau.  Tuyên ngôn độc lập của Mü 1776, Tuyên ngôn dân quyền và Nhân quyền của  1, 2  Bé h×nh luËt ViÖt Nam thêi Ph¸p thuéc .Nxb SµI Gßn (cò)_1962. 1  Hå ChÝ Minh toµn tËp .Nxb CTQG. Hn_1995. t1 tr22.   11
  12. Đại cách mạng tư sản Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập 1945 của Việt Nam do   Hồ  Chí Minh soạn thảo đều khẳng định điều đó: “Người ta sinh ra tự  do và  bình đẳng về quyền lợi”. Hồ Chí Minh đã thể hiện ý chí của toàn dân tộc “thà  hi sinh tất cả  chứ  nhất định không chịu mất nước không chịu làm nô lệ”  (1946) và “không có gì quý hơn độc lập tự do”(1966). Nước độc lập dân tự do nhân dân ta cùng Đảng, nhà nước bắt tay xây  dựng chế  độ  xã hội chủ  nghĩa.  ở  chế  độ  chính trị  đó con người được giải   phóng, nhân quyền được thực hiện đầy đủ đúng đắn nhất. Thực tế sáu mươi   năm qua chúng ta đã gặt hái được những thành tựu đặc sắc về  nhân quyền  trong các lĩnh vực cụ thể như sau: Về chính trị:               Biểu hiện cao nhất của chính trị  là chế  độ  nhà nước. Nhân quyền   trong chính trị  được thực hiện đầy đủ  khi nhà nước đảm bảo những điều   kiện thuận lợi. Nhân quyền chỉ  biểu hiện đầy đủ  nhất khi nhà nước là nhà   nước dân chủ. Thực tế  lịch sử  đã chứng minh rằng trong xã hội có giai cấp,   có đối kháng giai cấp, có đấu tranh giai cấp và chừng nào vấn đề này còn tồn   tại thì thực trạng dân chủ nhân quyền bị vi phạm, xem nhẹ. Bởi khi đó quyền   lực của giai cấp thống trị  bao trùm chi phối xã hội. Nhân quyền trong thời   điểm này có biểu hiện thì chỉ   ở  dạng ý thức,  ước mơ, khát vọng, lý tưởng  của nhân dân lao động mà thôi. Nhân quyền muốn đảm bảo thì phải có nhà  nước đứng ra can thiệp bảo vệ lợi ích chung của nhân dân lao động. Bởi nhà   nước là một thiết chế một cơ chế chung để thực thi vấn đề nhân quyền. Nhà  nước tồn tại hiện diện với tư cách là cơ quan quyền lực, một tổ chức quyền   lực thực thi chức năng quản lý xã hội. Thông qua hiến pháp là công cụ là sức  mạnh để điều chỉnh kiểm soát, cưỡng chế  hành vi xã hội trong đó thông qua   luật pháp vấn đề  nhân quyền được thực thi. Song không phải chế  độ  nhà  nước   nào  cũng  đảm  bảo  cho nhân  quyền  được   thực  hiện.  Nói cách  khác  không phải chế  độ  nhà nước nào cũng đảm bảo thực hiện nhân quyền đầy   đủ, cũng tôn trọng và thực hiện nhân quyền. Chỉ khi nào lợi ích quốc gia dân   tộc không nằm trong tay một nhóm người, giai cấp thống trị mà thuộc về liên   minh giai cấp thuộc về nhân dân lao động thì vấn đề nhân quyền trong chính   trị mới được thực hiện đầy đủ. Nước ta là nhà nước của liên minh công­ nông  –trí thức bao nhiêu quyền lợi là của dân bao nhiêu lợi ích là của dân. Nhân dân   là người làm lên nhà nước là người xây dựng đất nước. Quyền của nhân dân  tham gia chính trị là biểu hiện cao nhất của nhân quyền. Sau khi giành lại được độc lập Hồ Chí Minh đã xây dựng nước ta theo   chế  độ  chính trị  dân chủ  cộng hoà nay là cộng hoà xã hội chủ  nghĩa.  ở  đó   nhân dân thực hiện nhân quyền của mình bằng việc đầu tiên là đi bá phiếu  bầu người lãnh đạo đất nước mình. Cuộc bầu cử 6/1/1946 đánh đấu mốc son     12
  13. đầu tiên trong việc thực hiện nhân quyền về  chính trị. Nếu trước đây nhân  dân chịu sự  áp đặt lãnh đạo của thực dân phong kiến nay nhân dân làm chủ  đất nước mình qua việc bầu cô đại diện của giai cấp mình ra lãnh đạo đất  nước. Trong cuộc bầu cử ấy nhân dân có quyền ra ứng cử tham gia xây dựng  đất nước Bác nêu rõ “trong cuộc tổng tuyển cử, hÔ là người muốn lo việc   nước thì đều có quyền ra  ứng cô, hÔ là người công dân thì có quyền đi bầu   cô”1  .Và từ  đó đến nay quyền tham gia bầu cử,  ứng cử  của nhân dân được  pháp luật thừa nhận và luôn luôn thực hiện đầy đủ  nhất. Từ  sau cách mạng  tháng 8/1945 các quyền tự  do hội họp, bàn luận , tham gia đóng góp ý kiến   của nhân dân vào xây dựng các dự thảo luật, các bộ luật. Nhân dân có quyền  bàn bạc, tham gia, đánh giá…..qua mỗi đại hội Đảng, qua mỗi kì họp quốc  hội ….Đảng nhà nước đều mở  những đợt sinh hoạt chính trị  sâu rộng trong  quần chúng nhân dân, qua đó thu thập ý kiến nhân dân phát huy rộng rãi   quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao ý thức , quyền lợi nhân dân.    Về kinh tế:    Cốt lõi của vấn đề  nhân quyền trong kinh tế nằm  ở lợi ích. Khi lợi  ích kinh tế của các giai cấp được điều hoà thì tức là quyền lợi của con người   trong kinh tế được thoả đáng. Biểu hiện của lợi ích trong lĩnh vực hoạt động   lao động sản xuất qua các quan hệ  sở  hữu, phương thức phân phối, hưởng  thụ lợi ích ….là mọi người có quyền như nhau được lao động, được làm việc   và có việc làm. Đây là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong   phạm vi quyền này con người phải được đảm bảo cả những nhu cầu tồn tại   và nhu cầu phát triển mọi năng lực sáng tạo. Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi  ích và các quan hệ lợi ích kinh tế giữa con người vời con người trong một chế  độ kinh tế và một chế độ chính trị – xã hội là giải quyết tốt nhân tố động lực   của sự phát triển dân chủ kinh tế cũng như dân chủ xã hội nói chung. Nó cũng   đồng thời là điều kiện để  thực hiện mặt kinh tế  của quyền con người và  quyền công dân. Do đó việc xoá bỏ áp bức bóc lột giữa người với người cũng   như  việc xoá bỏ  cơ  sở  kinh tế  xã hội sâu xa đẻ  ra tình trạng đó (chế  độ  chiếm hữu tư  liệu sản xuất) là quá trình giải phóng kinh tế  giải phóng sản  xuất, thực chất là giải phóng con người, xác định vị  thế  tự do của người lao   động trong lao động sản xuất. Các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế được nhà nước thực hiện  ngày càng đầy đủ  nhất là sau giai đoạn đổi mới 1986 với quan điểm giải  phóng hơn nữa sức sản xuất, phát triển kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần   định hướng xã hội chủ  nghĩa, đa dạng hoá các hình thức sở  hữu và các hình  thức phân phối lợi ích , gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội … đã là  bước ngoặt cho những chuyển biến thực sự  về  dân chủ  nhân quyền trong   phát triển kinh tế. Việc đa  ®¹ng hoá các thành phần kinh tế  đồng nghĩa với   1  Hå ChÝ Minh toÇn tËp. Nxb sù thËt. Hn 1984 t4 tr72   13
  14. việc tạo thêm nhiều việc làm mới, nhiều lĩnh vực làm việc, từ  đó thực thi  quyền có việc làm, quyền được làm việc, được lựa chọn nghề nghiệp, được  tự  do sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ  pháp luật cho phép. Liên quan  đến nó là các quyền tự do đi lại , tự do cư trú, quyền có tài sản và được pháp  luật bảo vệ có tài sản của cải do thu nhập chính đáng tạo ra. Cùng với đó là   đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới mô hình kinh tế, cơ chế  quản lÝ kinh tế  đã  tạo ra sự  phát triển mới mẻ, tích cực chưa từng thấy của nền kinh tế  hàng  hoá. Kết quả  sau hai mươi năm đổi mới 1986 – 2005 diện mạo kinh tế  đất  nước thay đổi hoàn toàn đã chứng minh cho điền đó . Trong những năm gân đây, việc cải tổ  nền kinh tế  quốc gia, tư  hữu   hoá nền kinh tế  cho phép tư  nhân có thể  tham gia vào   kinh tế  nh¸n nước.   Việc coi trọng phát triển kinh tế tư bản tư nhân (tôn vinh các doanh nhân) la   bước tiếp theo phát huy tính sáng tạo của nhân dân lao động trong phát triển  kinh tế phát huy quyền làm chủ tư liệu sản sản xuất của nhân dân lao động ,   quyền tham gia các hoạt động kinh tế  của nhân dân . Những thành tựu về  nhân quyền trong kinh tế là bước phát triển tiến bộ thể hiện bản chất tốt đẹp  cả  chế  độ  xã hội chủ  nghĩa tôn trọng người lao động cũng như  quyền làm  chủ  của họ, công bằng và bình đẳng mọi người đều được hưởng quyền lợi  như  nhau trong tự  do phát triển kinh tế. Những thành tựu ban đầu cho thấy  tính chất tốt đẹp và đúng đắn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã   lựa chọn và xây dựng. Văn hoá tư tưởng: Văn hoá tư  tưởng là mục tiêu quan trọng không thể  thiếu trong việc  thực thi nhân quyền. Học vấn và trình độ  dân trí phổ  biến của xã hội là yếu  tố  cấu thành trình độ  văn hoá xã hội, và trình độ  phát triển văn hoá của xã   hội.V.I Lênin đã nhấn mạnh rằng “Người mù chữ đứng ngoài chính trị”. Theo   đó sự kém học vấn thiếu hiểu biết về trình độ khoa học kỹ thuật, tư duy sáng  tạo,  lý luận của người lao động sẽ  cản trở  họ  trong việc tham gia các công  việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế  và xã hội , nghĩa là cản trở  họ  trong  việc thực hiện quyền dân chủ  và làm chủ  của mình. Trình độ  học vấn, văn  hoá của nhân dân lao động thấp dễ  dẫn đến tình trạng vô chính phủ, coi   thường kỉ cương pháp luật  ở  người lao động, còn trong giới lãnh đạo rất dễ  dẫn đến quan liêu tham nhũng. Hâu quả trực tiếp của dân trí thấp rất dễ dẫn  đến tình trạng vi phạm dân chủ vi phạm nhân quyền.  Ngay khi giành được độc lập những  việc đầu tiên mà nhà nước Việt   Nam dân chủ  cộng hoà thực hiện là phát triển giáo dục đảm bảo ai ai cũng   được học hành, phát triển và mở rộng trường lớp, hệ thống giáo dục chương  trình nội dung giáo dục …không ngừng nâng cao trình độ  giáo dục, nội dung  giáo dục…Không ngừng nâng cao trình độ giáo dục,trình độ học vấn cho nhân    14
  15. dân,đảm bảo nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân được quyền  học tập. Từ việc nâng cao học vấn, đảm bảo quyền học tập của nhân dân thì  việc đảm bảo tự  do tư  tưởng là thành tố  căn bản quan trọng nhất của văn  hoá. Bởi có tự  do tư  tưởng thì mới đảm bảo mọi khả  năng và năng lực suy  nghĩ độc lập,sáng tạo,đảm bảo tự  do tư  tưởng mới thực sự  thúc đẩy phát   triển khoa học văn hoá, nghệ  thuật…bởi chỉ  khi nào con người có đủ  điều   kiện phát triển cả vật chất lẫn tinh thần thì khi đó những giá trị  nhân quyền   mới thực sự đúng đắn. Nếu những đổi mới về kinh tế đảm bảo những quyền  con người ở lĩnh vực này thì sự quan tâm phát triển, bảo đảm tự do tư tưởng   là điều kiện tiếp theo đảm bảo nhân quyền trong chế độ  xã hội chủ  nghĩa ở  Việt Nam. Pháp luật là phương tiện quản lý xã hội của nhà nước, nhân quyền   được ghi nhận trong hiến pháp pháp luật là đảm bảo pháp lý cho quyền dân   chủ, quyền làm chủ  của con người, quyền công dân và quyền con người   không bị vi phạm. Nó là cơ  sở  pháp lý để  đấu tranh thực hiện các quyền đó,  trừng trị mọi hành vi vi phạm.gây tổn hại, chà đạp xúc phạm, xuyên tạc bóp  nghẹt những quyền của con người. Hiến pháp và pháp luật Việt  Nam  ghi  nhận mọi vấn đề về quyền con người. Tháng 9 năm 1945 cách mạng nước ta  thành công. Ngày 6 tháng 1 năm 1946 cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu  tiên diễn ra trong không khí dân chủ  bình đẳng tự  do. Quốc hội khoá I thông  qua bản hiến pháp  đầu tiên­ Hiến pháp 1946.Trong hiến pháp này những   quyền con người lần đầu tiên  được nhà nước ta chính thức ghi nhận với tính  chất là các quyền công dân.Quyền bình đẳng được quy định tại điều 6 “tất cả  mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh  tế, văn hoá”. Điều 7 quy định cụ thể hơn “tất cả mọi công dân Việt Nam đều  bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công việc kiến  quốc tuỳ  theo tài năng và đức hạnh của mình”. Điều 10 Hiến pháp 46 ghi   nhận năm quyền con người với tính chất là quyền công dân: “công dân Việt  Nam có quyền:                                 ­Tự do ngôn luận .                                 ­Tự do xuất bản.                                 ­Tự do tổ chức và lập hội.                                 ­Tự do tín ngưỡng.                                 ­Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”  Các quyền bất khả  xâm phạm về  thân thể, nhà  ở, thư  tín, quyền tư  hữu tài sản, quyền nói tiếng của dân tộc mình, quyền được học tập, quyền  không bị tra tấn, đánh đập, ngược đãi, quyền được tham gia chính trị, bầu cử,  ứng cử…Đều được ghi nhận. Có thể nói việc nhà nước ta ghi nhận về mặt    15
  16. pháp lý những quyền con người nói trên ngay sau khi mới giành được chính  quyền thể  hiện tính chất  ưu việt tiến bộ  của chế độ  mới. Cùng với sự  phát  triển của cách mạng nội dung nhân quyền trong hiến pháp của nước ta ngày  càng ghi nhận hoàn thiện Hiến pháp 1959, 1980, 1992 ghi nhận thêm các  quyền: khiếu nại tố  cáo, tự  do nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ  thuật,  quyền được an nghỉ, quyền tự do ngôn luận báo chí xuất bản, lập hội, biểu   tình(1989). Các quyền công dân tham gia công việc quản lý nhà nước(1980).  Các quyền tham gia thảo luận các vấn đề  chung của nhà nước, quyền tự  do  kinh doanh, quyền sở hữu về thu nhập, quyền có tài sản để dành, quyền có tư  liệu sản xuất, các quyền về  tội pham xử  phạt, và quyền vô  tội của con  người, quyền được bồi thường thiệt hại khi đấu tố  bắt sai, xét xử  sai trước   pháp luật…Các quyền con người được hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi   nhận phù hợp với công  ước quốc tế  tiến bộ  về  quyền con người cho thấy   Đảng nhà nước ta luôn luôn quan tâm và thực hiện đúng chức năng đảm bảo   nhân quyền công dân Việt Nam. 2.3. Những hạn chế  và giải pháp nâng cao hơn nữa việc thực thi   nhân quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  Những thành tựu đặc sắc trong việc thực thi nhân quyền ở Việt  Nam từ  1945 đến nay đã thể  hiện bản chất chế  độ  mới chế  độ  xã hội chủ  nghĩa,  chế  độ  người dân làm chủ  vận mệnh dân tộc đất nước mình. ở  chế  độ  mới   ấy các quyền con người được đảm bảo, đời sống vật chất ngày càng đầy đủ,  đời sống tinh thần được phát huy đảm bảo, giáo dục, y tế, các dịch vụ  công   cộng ngày càng phát triển đầy đủ và hoàn thiện hơn trước phục vụ cuộc sống   và nhu cầu của nhân dân …Sáu mươi năm vây dựng và phát triển, mặc dù bị  tàn phá của các cuộc chiến tranh, bị các thế lực thù dịch chống phá, công kích  bôi  nhọ, xuyên  tạc…nhưng  những  thành  tựu  về   nhân  quyền  ở  Việt  Nam  không thể phủ nhận được. Bên cạnh những thành tựu  ấy trong quá trình chúng ta thực thi nhân  quyền không thể không gặp những thiếu sót , hạn chế nhất định. Trong từng  giai đoạn cụ  thể  của sáu mươi năm  ấy cũng có lúc chúng ta chủ  quan duy ý   chí, nặng về mệnh lệnh nên nhân quyền trong giai đoạn này chưa được thực  hiện đúng như  việc chậm chuyển đổi nền kinh tế  chưa thấy hªt sức mạnh   của các thành phần kinh tế  nhất là kinh tế  tư  bản tư  nhân, giới doanh nhân,  nặng về kinh tế nhà nước, chậm đổi mới tư  duy kinh tế. Còn chậm sửa đổi   trong thủ tục hành chính lối làm việc còn thiếu nhanh nhậy, thiếu khách quan,  quan liêu, chuyên quyền, cửa quyền, nặng về tư duy bao cấp. Nên ở  một số  nơi đây đó nhân quyên chưa dược thực hiện đầy đủ, bị vi phạm, bị xem nhẹ,   tình trạng khiếu kiện các cơ  quan nhà nước không làm đúng chức năng của  mình, tình trạng cán bộ  thiếu dân chủ, thiếu trách nhiệm, vi phạm quyền lợi   của nhân dân dã xẩy ra  ở  một số  nơi…Các quyền phát ngôn, biểu tình của    16
  17. nhân dân, tự do ngôn luận…. thực thi chưa cao. Sở dĩ có những hạn chế trên  là do: Chúng ta xây dựng chế  độ  mới xã hội chủ  nghĩa từ  xuất phát điểm  thấp. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% lao động nông nghiªp   giản đơn cơ sở công nghiệp có nhưng không đáng kể, phần lớn lạc hậu và hư  hỏng nặng. Tư duy nông nghiệp manh mún, nhỏ bé , tư tưởng nho giáo phong   kiến tuy đã bị  phá vỡ  nhưng những tàn dư  của nó vẫn còn tồn tại trong xã  hội. Tư  tưởng trọng nam khinh nữ  gia trưởng chuyên quyền độc đoán, bất   bình đẳng vẫn còn bán rễ sâu trong quần chóng nhân dân trong đó có một bộ  phận không nhỏ là cán bộ công chức nhà nước. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa  xã hội những năm đầu khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi ta còn kế  thừa  một nền hành chính phong kiến – thực dân chuyên quyền độc đoán, tuy đã phá  bỏ  nhưng những tàn tích cũ là không thể  tránh khỏi. Ta tiếp thu những tinh   hoa của chế  độ  cũ đồng thời xây dựng theo một mô hình mới của Liên Xô­  Đông Âu một cách máy móc, rập khuôn chậm sửa đổi. Hiện nay tuy mô hình  xã hội chủ  nghĩa Liên Xô­ Đông Âu không còn nữa ta bước tiếp xây dựng  công cuộc xã hội chủ  nghĩa hoàn toàn mới mẻ  còn nhiều bỡ  ngỡ  nên những   sai lầm, thiếu sót đây đó về nhân quyền là không thể tránh khỏi. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện con đường xã hội chủ  nghĩa,  Đảng và nhà nước ta đã liên tục đổi mới, cải tổ để  ngày càng đúng đắn, phù  hợp hơn. Để  nâng cao hơn nữa nhân quyền  ở  Việt Nam, để  con người   thực sự là chủ thể của xã hội là mục tiêu hàng đầu cho sự phát triển kinh tế­   xã hội. Nâng cao hơn nữa vị thế, vai trò của con người tức là thực thi đầy đủ  nhân quyền trong xã hội Việt Nam ta cần tham khảo các giải pháp sau : Thứ  nhất: Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt  Nam,  Đảng lãnh đạo trực tiếp mọi mặt kinh tế­văn hoá­ xã hội…Theo đó Đảng ta  phải hoàn  chỉnh hệ thống các quan điểm, lÝ luận, phải luôn tự đổi mới để  phù hợp với  việc phát triển đất nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản  chất nhân đạo và với xu thế  của thế  giới hiện đại. Phải xây dựng Đảng ta   vững về  trí tuệ, mạnh về  trình độ  lý luận, phát triển vận dụng sáng tạo chủ  nghĩa Mác­ Lªnin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh vào thực tiễn xây dựng đất nước,   đưa đất nước tiến kịp khoa học công nghệ…Muốn vậy phải chăm lo phát   triển đội ngũ tri thức, khai thác tiềm năng của giới khoa học, tạo tiềm lực trí  tuệ  của Đảng bằng cách tiếp tục giải phóng tinh thần, thực hiện tự  do tư  tưởng, khuyến khích sáng tạo. Thứ hai: Phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục.  Về kinh tế: Cho phép phát triển rộng rãi các thành phần kinh tế phù   hợp với hiến pháp, pháp luật, chăm lo phát triển kin tế  nông thôn, tạo thêm     17
  18. việc làm cho người  lao động, tiếp tục nâng cao hơn nữa sự  nghiệp công   nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước để  xây dựng nền kinh tế  phát triển   trong đó nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân là con  đường đúng nhất đi đến đảm bảo công bằng, đảm bảo nhân quyền… Về văn hoá­ giáo dục: Nâng cao dân trí bằng mở mang các sinh hoạt   văn hoá để nhân dân tiếp cận những giá trị văn hoá, nâng cao nhận thức, tầm   hiểu biết của mình, nhân dân tự thay đổi tiếp thu những giá trị tiến bộ, từ đó   tự   đấu   tranh   đòi   đảm   bảo   thực   hiện   đầy   đủ   các   quyền   của   mình   được  hưởng.Từ  đó nhân dân xây dựng các chuẩn mực văn hoá, giá trị, lối sống   thành những quy tắc ứng xử của một xã hội văn minh. Thứ  ba:  Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, xây dựng một nền  hành chính thực sự  dân chủ  hiện đại phù hợp với trình độ  phát triển xã hội,   đáp  ứng nhu cầu phát triển của đất nước.Hoàn thiện bộ  máy nhà nước,xây   dựng cơ chế quản lÝ nhà nước đảm bảo dân chủ nhân quyền. Xây dựng nhà   nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với luật pháp hiện đại, phù hợp đảm bảo  kû cương trật tự xã hội đảm bảo các quyền công dân.  Thứ  tư:  Triển khai nghiên cøukhoa học vấn đề  nhân quyền trên mọi  khía cạnh mọi góc độ. Đồng thời tổ chức giảng dạy, giáo dục về dân chủ  và  nhân quyền tương xứng với vị trí, tầm vóc của nó trong đời sống xã hội với   sự quan tâm đầu tư thích đáng.                                            18
  19. KẾT LUẬN Nhân quyền là vấn đề có lịch sử phát triển lâu dài và nội dung rộng lớn,   là vấn đề nhạy cảm, phức tạp bởi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau.  Nhân quyền hiện tại đang trở  thành vấn đề  quan trọng trong chính sách đối  ngoại của các nước phương Tây: “Ngoại giao nhân quyền” trở thành một nội  dung quan trọng trong học thuyết nhân quyền  ở  các nước này. Quyền con  người đang là vấn đề chính trị, pháp lý nhạy cảm, là lĩnh vực vừa hợp tác vừa   đấu tranh trong quan hệ chính trị quốc tế đương đại. Trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế  lực thù địch đang ra  sức sử dụng vấn đề quyền con người mà họ gọi là “vấn đề nhân quyền” như  một công cụ  quan trọng để  can thiệp, phá hoại công việc nội bộ  của các   nước xã hội chủ  nghĩa và các nước độc lập dân tộc. Đối với nước ta, dưới   chiêu bài bảo vệ “nhân quyền” các thế lực thù địch trong và ngoài nước có sự  giật dây của đế  quốc tư  bản bên ngoài tăng cường tiến hành hoạt động phá   hoại tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và những quan điểm giá  trị của phương Tây vu cáo, bôi nhọ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng   cộng sản.  Để  đấu tranh có hiệu quả  với âm mưu thâm độc của các thế  lực thù  địch trong chiến lược “diễn biến hoà bình” nói chung, vấn đề  “nhân quyền”   nói riêng, cần tiến hành đồng bộ  các biện pháp  như  tổ  chức nghiên cứu về  quyền con người, phát triển các tư tưởng nhân đạo giải phóng con người của  chủ nghĩa Mác­ Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, làm rõ sự  khác  nhau   giữa quan điểm của chủ  nghĩa Mác­ Lªnin với quan điểm tư  sản về  quyền con người.Trong  đó việc nghiên cứu đánh giá những thành tựu đạt  được của nhân dân ta, của nhà nước ta về  xây dựng nhân quyền trong sáu  mươi năm qua. Khẳng định cho bước phát triển nhân quyền, khẳng định bản   chất tốt đẹp và tính chất đúng đắn của nhà nước ta nhằm bác bỏ những luận   điệu xuyên tạc vu khống, chống phá của các thế lực thù địch nước ngoài, bác  bỏ những quan điển sai trái và hoàn thiện hơn nữa vấn đề nhân quyền ở Việt   Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng.   19
  20. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Chí Bảo: Dân chủ và nhân quyền. Luận văn viện CNXH khoa  học,   T4/1994. 2. Hoàng Chí Bảo: Chủ nghĩa xã hội và nhân quyền. Báo Nhân dân 9/11/1992. 3. Trần Ngọc Đường: Bàn về quyền con người, quyền công dân. Nxb. Chính  trị quốc gia, Hà Nội 2004. 4. Đỗ Đức Minh: Dân chủ và nhân quyền trong tiến trình phát triển của lịch   sử. Tạp chí khoa học chính trị T4/2004 . 5.Trần Quang Tiệp:  Bảo vệ  con người trong luật hình sự  Việt  Nam. Nxb.  Chính             trị quốc gia,Hà Nội 2003. 6. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kÝ toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội và Nhân văn.   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0