intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: QUAN ĐIỂM VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

263
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận chứng để làm rõ rằng, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đúng đắn này được chính thức khởi đầu tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) và được bổ sung, hoàn thiện trong các kỳ Đại hội sau...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: QUAN ĐIỂM VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG

  1. TIỂU LUẬN: QUAN ĐIỂM VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG
  2. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận chứng để làm rõ rằng, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đúng đắn này được chính thức khởi đầu tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) và được bổ sung, hoàn thiện trong các kỳ Đại hội sau đó của Đảng. Theo tác giả, việc tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… là cơ sở để chúng ta hiện thực hoá quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4 năm 2006), khi khẳng định đường lối tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ "mục tiêu trực tiếp" mà chúng ta cần phấn đấu thực hiện trong 5 năm 2006 – 2010 là "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại"(1). Để thực hiện "mục tiêu trực tiếp" này, chúng ta phải có được một lực lượng sản xuất đạt trình độ phát triển cao, một cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại dựa trên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ ngày càng tăng của khoa học và công nghệ hiện đại; phải "tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức
  3. mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế – xã hội"(2). Có thể khẳng định rằng, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra tại Đại hội X không chỉ là sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, chúng ta thấy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(3). Có thể nói, trong Cương lĩnh này, mặc dù đã khẳng định đường lối tiến hành "công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại", nhưng Đảng ta còn chưa chỉ rõ những nội dung cụ thể của đường lối đó, chưa chỉ rõ vì sao chúng ta phải gắn kết chặt chẽ công nghiệp hoá với hiện đại hoá trong một chỉnh thể thống nhất. Chỉ sau đó, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1-1994), khi nhận thức rõ rằng, tuy nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, nhưng chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, tốc độ đổi mới chậm, sự tăng trưởng dựa chủ yếu vào vốn, tài nguyên, ít dựa vào tiến bộ khoa học – công nghệ, tiềm năng trí tuệ chưa được phát huy…, Đảng ta mới khẳng định công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, chủ trương "thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá"(4). Theo quan điểm của Đảng, trong thời đại ngày nay, những tiến bộ về kinh tế, xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ chức quốc tế là cơ sở để chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
  4. hoá đất nước nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, có tầm quan trọng hàng đầu, là con đường duy nhất giúp chúng ta không chỉ thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực Đông – Nam Á và trên thế giới, mà còn giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cho đến thời điểm mà lần đầu tiên, Đảng ta đưa ra quan điểm gắn kết công nghiệp hoá với hiện đại hoá trong một chỉnh thể thống nhất, thì vấn đề "đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức" vẫn chưa được nói đến. Ngay cả vấn đề vai trò nền tảng, động lực của khoa học và công nghệ đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng chưa được khẳng định. Chỉ đến Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 7 năm 1994), khi thông qua đường lối "Đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", Đảng ta mới khẳng định "khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Sở dĩ khoa học và công nghệ có vai trò to lớn như vậy vì nó là một trong những yếu tố quan trọng, tham gia “quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia". Thực tế cho thấy, "phần thắng trong cuộc chiến "ai thắng ai" trên thị trường, suy cho đến cùng là do trí tuệ và năng lực sáng tạo của cả dân tộc, biết học hỏi một cách khôn ngoan kinh nghiệm và thành tựu tri thức của nhân loại, tận dụng được lợi thế của nước đi sau, đề ra được những chủ trương, biện pháp thích hợp với đất nước mình trong hoàn cảnh mới, giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế – xã hội, công nghệ, kỹ thuật, môi trường sinh thái"(5). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vai trò động lực của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (tháng 12 năm 1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng, thảo luận và thông qua Nghị quyết về "định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000"; trong đó, khẳng định rằng, "cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và
  5. công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ"(6). Như vậy, ngay cả khi đã nhận thức rõ khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng, là động lực, là "quốc sách hàng đầu" của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta vẫn chưa nói đến vấn đề gắn kết công nghiệp hoá, hiện đại hoá với kinh tế tri thức. Như chúng ta đã biết, vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là những thành tựu trong bốn lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng và công nghệ thông tin, đã tạo nên những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế – xã hội của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện đại đã dẫn đến sự ra đời của ngành kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện kinh tế tri thức đã trở thành một xu hướng phát triển mới của các nước trên thế giới. Có thể nói, sự xuất hiện của kinh tế tri thức là vận hội chưa từng có để Việt Nam đi tắt đón đầu, từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Từ chỗ cho rằng, "kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất", Đảng ta đã chủ động đưa ra quan điểm về sự gắn kết công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001), với nhận định rằng, sự phát triển của kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá đã đem lại lợi thế cho các nước đi sau, trong đó, trong đó có nước ta, giúp chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã xác định "con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước tacần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
  6. đại hoá"(7). Ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xét về mặt tác động tích cực, nó tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế của các quốc gia dân tộc, cho cả nền kinh tế thế giới. Không chỉ thế, toàn cầu hoá kinh tế còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và chuyển giao những thành tựu mới trong khoa học và công nghệ, trong tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh; đưa tri thức và kinh nghiệm mới đến với các quốc gia dân tộc; tạo tiền đề và điều kiện cho các quốc gia dân tộc đi sau có thể "rút ngắn" lộ trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bằng chiến lược phát triển có khả năng "bắt kịp" và "thích nghi" với xu hướng phát triển hiện đại. Có thể nói, đây là một cơ hội thuận lợi đối với mọi quốc gia dân tộc, nhất là với các nước đang phát triển. Chính vì thế, Đảng ta đã khẳng định rằng, để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chúng ta cần "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác"(8). Trong thời đại ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với tốc độ vũ bão, dẫn đến sự ra đời của hàng loạt công nghệ mới và ngày càng hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Khoa học và công nghệ ngày càng thể hiện rõ vai trò là nền tảng, động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể là nó đang tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế: từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức; đưa xã hội loài người bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đến lượt mình, kinh tế tri thức lại tạo điều kiện và đóng vai trò mở đường cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp nhận công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, để cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng lấy kinh tế tri thức làm yếu tố cấu thành quan trọng và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo phương thức phát triển "rút ngắn". Trong thời đại ngày nay, cả toàn cầu hoá kinh tế lẫn kinh tế tri thức đều là những xu thế phát triển tất yếu, khách quan. Chúng đã, đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi một cách mạnh mẽ, sâu sắc nội dung và bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không chỉ thế, toàn cầu hoá kinh tế và kinh tế tri thức còn đòi hỏi tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các quốc gia đi sau, trong đó có Việt Nam,
  7. phải được gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung của một quá trình thống nhất và diễn ra đồng thời. Đảng ta đã xác định rõ rằng, việc thực hiện các nội dung chiến lược đó ở nước ta hiện nay cần phải dựa vào tri thức. Xuất phát từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt". Chúng ta cần phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là, một mặt, chúng ta phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức và công nghệ cao. Nói cách khác, gắn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức theo những bước đi và hình thức thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay không chỉ là quá trình mang tính tất yếu, khách quan, mà còn là con đường duy nhất giúp chúng ta "rút ngắn thời gian" để có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đảng ta đã xác định. Không chỉ khẳng định sự cần thiết, tất yếu phải gắn việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức, lấy kinh tế tri thức làm yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh tế, Đảng ta còn chỉ rõ nội dung chủ yếu của quá trình này là: Thứ nhất, phát triển với tốc độ nhanh và ngày càng mạnh các ngành, các lĩnh vực và những sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp có hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với những tri thức mới nhất của nhân loại. Thứ hai, không chỉ coi trọng số lượng, mà còn phải coi trọng cả chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương và trong mỗi dự án phát triển kinh tế – xã hội. Thứ ba, xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Thứ tư, giảm mạnh chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, các lĩnh vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực có sức cạnh tranh cao trên thị
  8. trường thế giới, khu vực và trong nước. Đảng ta cũng đã xác định rõ định hướng phát triển 6 ngành và lĩnh vực chủ yếu trong quá trình thực hiện tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong thời gian tới. Đó là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng, dịch vụ; phát triển kinh tế vùng; phát triển kinh tế biển, chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên. Để thực hiện thành công đường lối và định hướng phát triển đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định một trong những nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần phải thực hiện trong 5 năm 2006 - 2010 là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường đó, đồng thời nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ. Định hướng phát triển thị trường khoa học và công nghệ được Đảng ta xác định là: “phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hoá”(9). Nhận thức rõ việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung có quan hệ thống nhất, hữu cơ của tiến trình phát triển theo phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt" để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "trong 5 năm tới, chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”(10). Cơ sở để thực
  9. hiện đồng thời và có hiệu quả hai quá trình này là tích cực phát huy nội lực, kết hợp hữu hiệu việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn. Bước vào thế kỷ XXI, các nước trong khu vực và trên thế giới đang nỗ lực theo đuổi những chiến lược phát triển của mình để vươn tới nền kinh tế tri thức. “Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy chính sách chiêu đãi hiền tài; Ấn Độ tăng tốc với kế hoạch nghiên cứu và phát triển, Singapore đang đứng đầu châu Á về công nghệ sinh học. Toàn cảnh một không khí hừng hực đầu tư cho nền kinh tế tri thức đang bùng nổ khắp châu Á”(11). Việt Nam cũng đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, mở rộng quan hệ với các nước trên tinh thần hợp tác và phát triển (biểu hiện rõ rệt nhất là đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới). Đó là những cơ sở để chúng ta, một mặt, khẳng định tính đúng đắn và khoa học trong quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; mặt khác, hiện thực hoá đường lối phát triển đó trong thực tiễn.r (*) Thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.23. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 87-88. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9. (4) Nguyễn Phú Trọng - Trần Đình Nghiêm. Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.34. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Hà Nội, 1994, tr.23-24. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. Trích theo: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996
  10. – 1999. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.46. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 27. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 25. (11) Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số 43, 2006, ngày 29 – 10 – 2006, tr.34. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ “BỒI DƯỠNG, ĐÀO TẠO VÀ TÔN VINH CÁC DOANH NHÂN CÓ TÀI, CÓ ĐỨC VÀ THÀNH ĐẠT” VŨ VĂN PHÚC (*) Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã đưa ra và khẳng định quan điểm“bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”. Trong bài viết này, khi tập trung luận giải sự đúng đắn và tính khả thi trong quan điểm đó của Đảng ta, tác giả đã khẳng định: Quan điểm đúng đắn này của Đảng không chỉ là sự giải phóng về mặt tư tưởng cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam hiện nay, mà trên thực tế, còn tạo điều kiện cho họ phát triển về đội ngũ, trưởng thành về năng lực, thực sự đảm đương vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế, tạo động lực và điều hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang tạo dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Tính chân lý trong những câu nói đó không chỉ đúng trong cuộc cách mạng chính trị, mà còn đúng trong sự nghiệp cách tân kinh tế. Thực tế phát triển kinh tế hiện nay ở các nước đã chứng tỏ rằng, doanh nhân là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp, của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, ở nước ta, cho đến gần đây, tầm quan trọng của giới doanh nhân mới được thừa nhận. Dấu ấn cho sự thừa nhận này là
  11. năm 2005, Nhà nước ta đã ra quyết định lấy ngày 13 – 10 hàng năm là Ngày Doanh nhân Việt Nam. Mới đây, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt" (1). Để thấy rõ tầm quan trọng của tư tưởng coi trọng doanh nghiệp đa thành phần, coi trọng giới doanh nhân và tính đúng đắn của quyết định cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, chúng ta hãy lùi lại lịch sử để đánh giá và xem xét. Trong nền kinh tế thị trường, chúng ta đều thừa nhận hệ thống doanh nghiệp và đội ngũ lãnh đạo, quản lý hệ thống đó – giới doanh nhân – đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Trên thực tế, cùng với Nhà nước và người lao động, giới doanh nhân Việt Nam đã trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp. Song, trong quá khứ, chúng ta đã coi nhẹ vai trò của tầng lớp này trong đời sống xã hội. Do vậy, giới doanh nhân Việt Nam đã gặp quá nhiều khó khăn trong quá trình hình thành và phát triển đội ngũ. Đó là sự thực. Những nguyên nhân dẫn đến hiện thực này là: Thứ nhất, do lịch sử quy định, cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nằm trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu so với trình độ chung của thế giới. Không chỉ thế, do những hoàn cảnh lịch sử nhất định, trong quá khứ, Việt Nam chưa bao giờ có nền kinh tế hàng hoá thật sự phát triển. Những năm sau khi giành được độc lập, do nóng vội tả khuynh, chúng ta đã hầu như gạt bỏ hết những yếu tố manh nha yếu ớt của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường. Nếu nhìn lại lịch sử xa hơn nữa, chúng ta càng thấy rõ người Việt Nam không có truyền thống kinh doanh. Đạo Nho mà những ông đồ truyền cho tầng lớp có học thức nhất trong xã hội ta dưới thời phong kiến là học để làm quan giúp nước. Không có ông đồ nào và không có ai dậy học trò nghề kinh doanh, buôn bán. Xã hội Việt Nam khi đó thường truyền tụng câu ngạn ngữ: “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương”. Nghề kinh doanh, buôn bán được xếp vào tầng lớp thấp trong xã hội, được coi là giới
  12. “con buôn” theo nghĩa khinh bỉ, là hạng tiểu nhân tham tiền. Do đó, giới doanh nhân Việt Nam có điểm yếu là không có nguồn gốc phát sinh, phát triển bền vững, lâu dài cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc. Thứ hai, trong thời kỳ đổi mới, nước ta mới từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ những yếu tố đầu tiên, như cho người sản xuất quyền tự do trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hoá, xây dựng đồng tiền làm đủ các chức năng của nó, cho phép doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận; cho phép giao lưu hàng hoá và làm ăn, buôn bán với nước ngoài, v.v.. Quá trình đổi mới theo định hướng trên đã đem lại cho đất nước ta nhiều thành tựu to lớn không chỉ về kinh tế, mà còn về cả chính trị, tư tưởng và ngoại giao. Trong bối cảnh đó, giới doanh nhân Việt Nam đã từng bước hình thành và phát triển. Đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam thành công trong kinh doanh trong nước và ở nước ngoài. Giới kinh doanh người Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng và tích luỹ được nguồn vốn tương đối nhiều trong 20 năm thử sức trên thương trường. Tuy nhiên, một số doanh nhân Việt Nam dường như vẫn chưa thật sự tận tâm, tận lực cho công cuộc phát triển nền kinh tế quốc dân. Đâu đó vẫn còn tâm lý e ngại, chưa muốn bỏ vốn ra kinh doanh, hoặc có bỏ vốn kinh doanh thì cũng cầm chừng, trong khi vốn tích trữ dưới dạng bất động sản, vàng bạc, tiền gửi trong ngân hàng không phải là nhỏ. Nguy hiểm hơn nữa là, có những thời kỳ, vốn trong ngân hàng cũng không cho vay được vì thiếu người đi vay biết cách làm ăn, cũng như thiếu dự án hiệu quả. Phải chăng người Việt Nam không có khả năng, không có sự ham mê kinh doanh? Những cuộc phỏng vấn được tiến hành đối với giới trẻ, nhất là sinh viên Việt Nam trong những năm gần đây không đưa lại câu trả lời đồng tình với quan điểm đó. Hơn nữa, người Việt Nam ở nước ngoài rất ham muốn kinh doanh và cũng đã có nhiều người thành đạt. Người Việt Nam ở trong nước cũng đang có xu hướng lựa chọn nghề kinh doanh (kết quả điều tra của dự án “Nhận thức và thái độ của dân cư đối với thị trường và kinh doanh” do Khoa Quản lý kinh tế, Ban nghiên cứu Thủ tướng Chính phủ và Quỹ Ford tiến hành đã chứng minh rằng, người Việt Nam có khả năng và thích kinh doanh). Trước đây, ở nước ta cũng đã có nhiều doanh nhân nổi danh, như Bạch Thái Bưởi, Nguyên Vũ,... Vậy, nguyên nhân nào làm cho đa số người Việt Nam vẫn đứng ngoài kinh doanh
  13. và sử dụng vốn đã tích luỹ được không bằng phương thức kinh doanh. Theo chúng tôi, nguyên nhân chính vẫn là ở chỗ, giới doanh nhân Việt Nam vẫn chưa nhận được sự cổ vũ xứng đáng của Đảng và Nhà nước ta. Để chứng minh cho nhận định này, chúng ta phải xem xét lại một cách có hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với giới doanh nhân Việt Nam. Cho đến nay, giới doanh nhân, nhất là những người kinh doanh tư nhân, vẫn còn mang tâm lý e ngại đối với quá khứ cải tạo trước kia. Bởi lẽ, do nhận thức sai lầm về tính chất mở đường, tiên tiến của quan hệ sản xuất mới, nên Đảng và Nhà nước ta đã quá nóng vội trong tiến trình cải tạo thành phần kinh tế tư nhân để xây dựng nền kinh tế thuần công hữu. Chính vì thế, sau những năm kháng chiến gian khổ để giành độc lập, mặc dù nhiều doanh nhân yêu nước đã ủng hộ kháng chiến, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn không dung dưỡng giới doanh nhân (doanh nhân ở đây, theo chúng tôi là những người kinh doanh theo cơ chế thị trường nhằm mục đích làm giàu). Chúng ta đã liệt họ vào thành phần tư sản, vào tầng lớp phú nông cần phải cải tạo. Con cái họ sau này, ngay cả khi bố mẹ không còn kinh doanh, không còn của cải gì đáng kể, thậm chí cả con cái của những người buôn bán nhỏ cũng bị liệt vào thành phần tiểu tư sản không đáng tin tưởng, bị phân biệt đối xử trong học hành, trong công việc, trong thăng tiến. Đặc biệt, hiếm khi chúng ta kết nạp người có thành phần xuất thân là giai cấp tư sản vào Đảng, nếu như họ không tuyên thệ từ bỏ giai cấp mình. Với những chính sách như vậy, giới doanh nhân của chúng ta, người thì di tản đi nước ngoài, người thì bỏ nghề, con cái họ cũng không kế nghiệp cha mẹ. Hậu quả là, khi chúng ta bắt đầu đổi mới, ở nước ta có rất ít người hiểu biết về kinh doanh và ai cũng e ngại kinh doanh không phải vì sợ rủi ro, mà sợ bị cải tạo như trong quá khứ thì con cái “hết đường sống”. Người Việt Nam vốn sống vì con cái rất nhiều, nên ai cũng muốn làm công chức nhà nước cho “chắc chân”. Theo quan điểm của nhiều người, đời sống công chức ổn định, an toàn và còn để lại đức, lộc cho con cháu sau này (theo kết quả điều tra của dự án mà chúng tôi đã nêu trên, thì có đến 98% người Hà Nội được hỏi muốn con cháu họ kiếm được một công việc làm trong cơ quan nhà nước). Thứ ba, khi nước ta bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường, thì nhiều nước trên thế giới đã có nền kinh tế thị trường hiện đại, có giới doanh nhân tài giỏi, có hệ thống
  14. doanh nghiệp hùng mạnh, có nhu cầu sử dụng thị trường của tất cả các nước trên thế giới làm môi trường hoạt động tự do của họ. Để tranh thủ cơ hội phát triển kinh tế, Việt Nam phải mở cửa thị trường, phải hội nhập, phải tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài. Những chính sách đúng đắn đó đã giúp nước ta tăng trưởng nhanh trong hơn hai thập niên qua, giúp nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng vào những năm 80 của thế kỷ XX, giúp thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước và cải thiện đời sống của nhân dân. Nhưng, xét về phía doanh nhân Việt Nam, thì làn sóng đầu tư nước ngoài và xu hướng hội nhập nhanh trong những năm qua đã làm cho quá trình phát triển của họ càng thêm gian nan. Họ không những phải cạnh tranh ở tư thế quá bất lợi và thua thiệt so với giới doanh nhân nước ngoài, mà còn bị phân biệt đối xử bằng trăm nghìn cách khác nhau. Chẳng hạn, bị giới doanh nhân nước ngoài phong toả thị trường theo các luật chơi có lợi cho doanh nhân của nước phát triển, bị các hiệp hội doanh nhân nước ngoài và quốc tế chèn ép,… Ngoài ra, do không có mối quan hệ truyền thống với các đối tác ở các nước tư bản chủ nghĩa, không có thị phần, không có khách hàng quen, không có tiềm lực tài chính mạnh, không có kinh nghiệm kinh doanh, không có sự liên kết với nhau bằng các hiệp hội đủ mạnh…, nên doanh nhân Việt Nam rất yếu thế trên thị trường nước ngoài. Trong khi đó thì thị trường trong nước vẫn còn ở tình trạng sơ khai, dung lượng thị trường cho các sản phẩm truyền thống của Việt Nam không lớn... Ở thị trường nước ngoài, doanh nhân Việt Nam bị phân biệt đối xử đã đành; ở trong nước, họ cũng bị phân biệt đối xử. Nhiều khía cạnh của sự phân biệt đối xử rất tinh tế, khó nhận biết. Chẳng hạn, các khu công nghiệp không cấm doanh nghiệp trong nước thuê đất, nhưng với số tiền vốn quá nhỏ, nếu thuê đất trong khu công nghiệp thì các doanh nghiệp của tư nhân trong nước hoặc không đủ sức thuê, hoặc có thuê được thì cũng không còn vốn kinh doanh. Chế độ thuê đất, chế độ sử dụng đất ở của nước ta trong những năm qua có quá nhiều thay đổi và bất hợp lý đến nỗi doanh nhân trong nước kinh doanh bất động sản theo kiểu đầu cơ thì lãi to, còn dùng đất để kinh doanh sản xuất thì không chịu được chi phí. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân thường rất khó tiếp cận tín dụng chính thức giá rẻ do mức tín nhiệm thấp. Việc cải thiện mức tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta là cả một quá trình lâu dài, bản thân giới doanh nhân trong nước không thể hoá giải được nếu không có sự trợ giúp của Nhà
  15. nước… Vì những lý do trên nên doanh nhân Việt Nam, sau 20 năm đổi mới vẫn yếu ớt, chưa đủ sức đảm đương sự nghiệp phát triển kinh tế. Để bù lại sự yếu ớt của doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước ta đang phải đầu tư và quản lý các doanh nghiệp lớn. Những năm gần đây, doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm gần 40% GDP, đầu tư của Nhà nước thường lớn hơn 30% tổng đầu tư xã hội. Song, doanh nghiệp và đầu tư nhà nước hiện đang gặp phải vấn đề hiệu quả thấp. Do đó, phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân, mà tiền đề là xây dựng và ủng hộ giới doanh nhân, là việc làm cấp thiết. Trong bối cảnh như thế, quan điểm coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức, thành đạt, kể cả việc cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân mà Đại hội X của Đảng đã đưa ra chính là sự giải phóng về mặt tư tưởng cho giới doanh nhân. Đó là chúng ta còn chưa nói đến vấn đề Nhà nước hỗ trợ để doanh nhân phát triển, chỉ cần Đảng và Nhà nước thừa nhận doanh nhân là tầng lớp lao động đáng được kính trọng trong kết cấu xã hội mang tính xã hội chủ nghĩa của nước ta đã là một sự giải toả vô cùng quan trọng. Hãy nhớ lại, những năm 80, 90 của thế kỷ XX, chỉ cần Đảng và Nhà nước có chính sách cho phép dân được tự do làm kinh tế để mưu sinh, không cần ngồi chờ lệnh của Nhà nước, thì nền kinh tế đã hồi sinh và phát triển như thế nào. Cũng như vậy, với quan điểm tự do kinh doanh, doanh nghiệp được làm những gì luật pháp không cấm, không phải xin phép Nhà nước, số doanh nghiệp mới thành lập trong 3 năm 2001 – 2003 đã vượt quá số doanh nghiệp thành lập trong 10 năm trước đó. Quan điểm không những thừa nhận, mà còn tôn vinh doanh nhân trong thang bậc giá trị xã hội cũng được đánh giá như một sự giải phóng về mặt tư tưởng, tinh thần và đạo đức xã hội cho giới doanh nhân, khuyến khích người dân Việt Nam dấn thân vào con đường kinh doanh đầy khó khăn, gian khổ, rủi ro. Giờ đây, doanh nhân đã có thể vững tin khi được thừa nhận là một bộ phận không những hợp pháp, mà còn là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (đồng nghĩa với việc không bị cải tạo khi Việt Nam xây dựng xong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa). Hơn nữa, doanh nhân còn được thừa nhận là những người "tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích cực trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước
  16. và ở nước ngoài; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam"(2), và vì thế, họ xứng đáng được “bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh”. Xét về phía quyền lợi của doanh nhân, có thể coi quan điểm này của Đảng ta là một cuộc cách mạng trong chính sách giai cấp và tầng lớp xã hội của Đảng. Cuộc cách mạng này đạt tới đỉnh cao trong quyết định của Đảng cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Về mặt lý luận, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn phải được tiếp tục nghiên cứu, tranh luận. Nhưng, về thực tiễn, quyết định này của Đại hội X là hết sức sáng suốt. Bởi lẽ, kinh doanh là một nghề, doanh nhân là những người lao động, kể cả doanh nhân kinh doanh dưới hình thức bỏ vốn kinh doanh. Hơn nữa, nghề kinh doanh đòi hỏi ở con người không chỉ tri thức khoa học, kỹ năng, nghiệp vụ thành thạo, mà cả ý chí, nghị lực và đạo đức trong kinh doanh. Doanh nhân chân chính là những người biết cách làm giàu chính đáng, đúng luật và giữ uy tín với khách hàng. Do đó, doanh nhân không đồng nghĩa với bóc lột, họ thuộc tầng lớp người lao động. Tuy nhiên, doanh nhân hoạt động dựa trên động lực là làm giàu, làm giàu bằng lao động, bằng vốn, bằng sử dụng hiệu quả nguồn tài sản của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải tôn trọng động lực đó của giới doanh nhân và doanh nghiệp. Do đó, sự giàu có một cách chính đáng phải được xã hội tôn vinh chứ không nên khinh bỉ và quy cho họ là người bóc lột. Đây là một điểm mốc nữa về mặt quan điểm mà Đại hội X của Đảng đã dũng cảm vượt qua. Cả thực tiễn và lý luận phát triển kinh tế đều cho thấy rằng, mô hình kinh tế thị trường là mô hình cho phép giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa phân công lao động ngày càng chuyên môn hoá sâu không chỉ ở phạm vi quốc gia, mà còn mở rộng ra phạm vi thế giới, với tính tổ chức cao và quyền tự do sáng tạo của con người. Đương nhiên, kinh tế thị trường cũng không hoàn hảo, nên cần có cơ chế quản lý bổ sung của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, động cơ hành động của giới doanh nhân là làm cho giá trị tài sản gia tăng. Bản thân hành động hướng tới tối đa hoá giá trị gia tăng của tài sản không mang ý nghĩa bóc lột. Vấn đề bóc lột nằm trong khâu phân phối và sử dụng khối giá trị gia tăng của xã hội. Điều tiết để cho việc phân phối và sử dụng chúng mang tính xã hội chủ nghĩa là công việc mà
  17. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể làm được. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta không nên triệt tiêu điều kiện thực hiện tối đa hoá giá trị gia tăng của giới doanh nhân, mà nên tạo ra những quy định pháp lý để các hành vi hướng tới lợi nhuận của doanh nhân phù hợp với các chuẩn mực đạo đức mà chế độ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi. Như vậy, doanh nhân không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, chúng ta càng hiểu ý nghĩa sâu xa hơn của quan điểm: "Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương"(3). Đảng viên làm kinh tế tư nhân không phải là người xa rời lý tưởng của Đảng, mà chính là lực lượng tiên phong đem lý tưởng của Đảng cảm hoá giới doanh nhân bằng chính tấm gương thành công, trong khi vẫn chấp hành pháp luật, chính sách và nghĩa vụ đảng viên. Vấn đề quan trọng không phải là ở chỗ, đảng viên làm kinh tế tư nhân sẽ xa rời lý tưởng của Đảng hoặc làm biến chất bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mà Đảng và Nhà nước cần đề ra chính sách đúng và phù hợp với quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Hơn nữa, trong công cuộc cách tân nền kinh tế, giới doanh nhân đang đảm đương vai trò tiên phong, tạo động lực và điều hành nền kinh tế. Do vậy, đảng viên càng cần phải tham gia vào đội ngũ đó để không những thực hiện vai trò tiền phong gương mẫu của mình, mà còn thông qua đó, thực thi sự lãnh đạo của Đảng. Còn quá sớm để có thể đưa ra nhận định về kết quả thực tiễn của quan điểm phát triển đội ngũ doanh nhân mà Đảng ta đã đưa ra tại Đại hội X, song bằng cả tri thức, niềm tin lẫn kinh nghiệm lịch sử, chúng ta có thể tin rằng, những quan điểm này sẽ được thực tiễn ủng hộ và sớm đem lại thành công.r * Phó giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 84. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.119. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., 133. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO THỜI KỲ LÝ – TRẦN
  18. DOÃN CHÍNH (*) PHẠM THỊ LOAN (**) Để làm rõ quá trình phát triển của Nho giáo với tư cách học thuyết chính trị– đạo đức trong thời kỳ Lý – Trần, trong bài viết này, các tác giả đã đưa ra và luận giải: 1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, giáo dục ở thời kỳ Lý – Trần; 2. Quan niệm của vua, quan thời Lý – Trần về đạo trị nước, yên dân của Nho giáo; 3. Tư tưởng về “Trời” và “mệnh Trời” của Hán Nho và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Việt Nam thời Lý –Trần; 4. Các Nho sĩ Việt Nam thời Lý – Trần vận dụng các phạm trù đạo đức Nho giáo trong lĩnh vực chính trị và xây dựng các chuẩn mực đạo đức; 5. Quá trình hình thành, phát triển và vị trí chủ đạo của giáo dục Nho học trong nền giáo dục đất nước thời Lý – Trần. Triều đại Lý – Trần được coi là thời đại hưng thịnh và vẻ vang trong lịch sử Việt Nam với những thành tựu phát triển về mọi mặt, nhất là văn hoá tinh thần và tư tưởng. Trong thời kỳ này, Phật giáo chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống xã hội, có ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm linh, văn hoá của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Nho giáo với tư cách học thuyết chính trị – đạo đức cũng đã dần khẳng định ưu thế của mình trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, quản lý xã hội và có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng trong xã hội phong kiến tập quyền Việt Nam. Ở nước ta, từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIII (từ thời Đinh đến giữa thời Trần), chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội. Đại bộ phận ruộng đất là công điền, công thổ của làng xã; bên cạnh đó còn có ruộng quốc khố của triều đình và ruộng của nhà chùa. Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, nền kinh tế dựa trên phương thức sản xuất phong kiến Á châu đã hình thành do chính sách khuyến khích việc mua bán, trao đổi ruộng đất, trong đó có các điền trang với phương thức bóc lột nông nô pha màu sắc của phương thức bóc lột nô lệ. Năm 1254, nhà Trần cho phép bán công điền để biến thành tư điền, “mỗi diện là năm quan tiền”(1) và cho phép các nhà đại quý tộc thành lập các điền trang riêng vào năm 1266. Sự xuất hiện của kinh tế công thương nghiệp và sự gia tăng của trao đổi hàng hoá làm cho tầng lớp
  19. địa chủ càng ngày càng giữ vai trò to lớn trong đời sống xã hội, chi phối nhiều mặt hoạt động của xã hội về kinh tế và chính trị. Khi đó, tầng lớp quý tộc có xu hướng rút về củng cố điền trang của mình, phát triển kinh doanh ruộng đất và điều này làm xuất hiện nguy cơ phân tán về mặt chính trị, dẫn đến khuynh hướng tăng cường bộ máy quan liêu, đề cao Nho giáo, đưa Nho sĩ vào nắm dần các chức vụ chủ chốt trong triều đình. Từ giữa thế kỷ XIII, kết cấu giai cấp lãnh đạo trong xã hội đã có sự thay đổi. Nếu trước đây tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm quý tộc, công thần, quan liêu, cao tăng thì từ đây, kết cấu tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm hai bộ phận rõ rệt: thành phần quý tộc nắm giữ những chức vụ cao nhất trong triều, có nô lệ, ruộng phong, trang ấp riêng…; và thành phần Nho sĩ quan liêu đông đảo không phải là quý tộc đóng vai trò thừa hành trong bộ máy quản lý nhà nước. Chính những chuyển biến về sở hữu ruộng đất trong kinh tế và những biến đổi trong kết cấu giai cấp xã hội đã tạo điều kiện cho Nho giáo thâm nhập xã hội trong thời kỳ này. Về mặt chính trị, bất cứ một giai cấp nào khi đã xác lập địa vị thống trị của mình trong xã hội đều cần có một hệ tư tưởng nhằm phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, củng cố cho địa vị xã hội thêm vững chắc. Cùng với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng sớm du nhập vào Việt Nam; đặc biệt, đến thời Lý – Trần, Phật giáo đã có sự phát triển khá thịnh, được nhà nước phong kiến suy tôn, chọn làm quốc giáo. Nhưng, trong bản chất của nó, Phật giáo và Đạo giáo chủ yếu không phải là đạo trị nước. Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cho dù bên Ấn Độ, bên Trung Quốc có những nhà sư làm quân sư đắc lực cho một số nhà vua, đó là sáng kiến của những nhà sư ấy theo tinh thần Phật giáo, chớ giáo lý Phật giáo không bàn về chính trị”(2). Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo mang tính nhập thế, tích cực, nhưng bản thân nó, với toàn bộ hệ thống giáo lý của mình, không có sự giải đáp thích đáng nào về các vấn đề có liên quan đến việc củng cố nhà nước phong kiến, như vấn đề quân quyền, quy định các điều chương, lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình cho đến địa phương, không chú ý đến việc củng cố gia đình, dòng họ, không đề ra những biện pháp trị nước, yên dân… những vấn đề mà giai cấp phong kiến thống trị hết sức quan tâm. Còn Nho giáo, du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên, bằng con đường đi theo vó ngựa quân xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc, trước hết được coi là công cụ của giai cấp thống trị nhà Hán trong
  20. âm mưu đồng hoá dân tộc ta. Vì thế, nhân dân ta đã phản ứng lại Nho giáo nhằm khẳng định nền độc lập và chủ quyền đất nước, bảo tồn nòi giống, tín ngưỡng, phong tục và di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc và do vậy, trong suốt thời kỳ Bắc thuộc và ngay cả ở các triều đại đầu tiên của nhà nước phong kiến dân tộc độc lập, Nho giáo vẫn chưa có vai trò gì đáng kể trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi với sự thiết lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền mà ít nhiều, chịu ảnh hưởng của thiết chế xã hội phong kiến phương Bắc thì Nho giáo lại tỏ ra thích hợp, trở thành một yêu cầu, một thứ học thuật tư tưởng mà người trong nước cần phải tiếp thu. Là một học thuyết chính trị – đạo đức, Nho giáo chủ trương quyền hành phải thống nhất, tập trung vào thiên tử, bảo vệ sự chính thống mà trên thực tế là bảo vệ các vương triều với quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tôn quý của nó. Đồng thời, nó còn đưa ra những chuẩn mực đạo đức cho hành vi ứng xử của con người, những yêu cầu đối với các mối quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, đối với việc tu thân,… có tác dụng to lớn trong việc giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp, sự thống nhất đất nước vào chính quyền trung ương, ổn định trật tự xã hội mà Phật giáo và Đạo giáo không thể sánh kịp. Chính vì vậy, các triều đại trong thời Lý – Trần tuy vẫn tạo điều kiện cho tam giáo cùng phát triển trên cơ sở tôn vinh Phật giáo nhưng “muốn trị nước, muốn củng cố chế độ phong kiến, thì, ở vào thế một nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hoá và chủng tộc với Trung Quốc, nhà Lý không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một thêm nhiều”(3). Về cơ bản, nhà Lý và nhà Trần vẫn tôn chuộng đạo Phật. Nhưng, để duy trì quyền lực, tổ chức quản lý xã hội, các triều đại này đã lựa chọn một công cụ khác là Nho giáo. Khuynh hướng dung hoà tam giáo mà trước hết, là sự kết hợp giữa Phật và Nho đã được biểu hiện khá rõ nét trong văn học Phật giáo thời Lý – Trần. Chẳng hạn, trong bài tựa sách Thiền tông chỉ nam, Trần Thái Tông đã trình bày rõ nhiệm vụ của Phật và Thánh: “Đạo Phật không chia Nam Bắc đều có thể tu mà tìm, tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của Tiên Thánh vậy”(4). Nhìn chung, Nho giáo với tư tưởng bảo vệ sự liên kết gia đình, dòng họ, bảo vệ sự liên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0