Tiểu luận: Sự tác động của yếu tố vĩ mô đến hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp
lượt xem 7
download
Bài tiểu luận "Sự tác động của yếu tố vĩ mô đến hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp" gồm các nội dung chính như: khái quát môi trường vĩ mô; Các yếu tố xã hội – văn hoá; Các yếu tố thuộc về hệ thống chính trị, về sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước; Các yếu tố công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật;...Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Sự tác động của yếu tố vĩ mô đến hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN BÁO CÁO TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ VĨ MÔ ĐẾN HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP GV: Bùi Thị Vân Quỳnh Danh sách thành viên tham gia: STT HỌ & TÊN MSSV 1 Ninh Tưởng Lâm Hưng 2 Lê Ngọc Gia Huệ 3 Nguyễn Trần Mỹ Huyền 4 Nguyễn Duy Khang 5 Nguyễn Ngọc Thuỳ Dương 6 Nghiêm Ngân Hà
- LỜI CẺM ƠN CẺM ƠN GẤC NHÀ CHƯỜNG GẤC NHÌU ĐÃ CHO EM CƠ HỘI LÀM BÀI TẬP NÀY. CẢM ƠN GIA ĐÌNH ĐÃ CUNG CẤP ĐIỆN VÀ WIFI CHO EM CÓ THỂ GÕ RA BÀI NÀY… Lời đầu tiên nhóm chúng em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đối với cô Bùi Thị Vân Quỳnh – giảng viên môn Quản trị học. Từ những ngày đầu làm quen với môi trường đại học cũng như môn Quản trọ học cô đã tận tình chỉ bảo và giúp cho chúng em hiểu rõ hơn về sự đổi mới thích nghi với môi trường cũng như bộ môn này. Cô cũng đã giúp chúng em hiểu rõ hơn đề tài của chúng em đã chọn qua từng buổi học với những ví dụ cũng như những hình ảnh và video chân thực mà cô đã đưa ra và cũng đã gợi ý cho chúng em đề tài bổ ích này. Và cô đã truyền tải nhiều nền tảng về môn quản trị học. Giúp chúng em có thể trở thành một quản trị giỏi thông qua những bài học và đặc biệt là chủ đề này.
- MỤC LỤC
- DANH MỤC HÌNH ẢNH
- a) KHÁI QUÁT MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ Trong thời điểm dịch Corona Virus đang lan tỏa rất phức tạp trên diện rộng trong suốt hai năm qua khiến cho rất nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, việc kinh doanh của doanh nghiệp bị trì hoãn và việc khôi phục của các doanh nghiệp là rất khó do ảnh hưởng của dịch. Và nói một cách cụ thể đây là vấn đề nhức nhói khá là đáng buồn cho các doanh nghiệp, các tiểu thương trong xã hội, từ các yếu tố dịch bệnh đấy nó sẽ dẫn đến đến nhiều vấn đề nhức nhói khác ví dụ như là kinh tế, chính trị, y tế, thậm chí là luật pháp và rất nhiều các thành phần khác. Và những thành phần này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố từ kinh tế, chính trị, y tế, luật pháp và những yếu tố bên ngoài khác được gọi là các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Vĩ mô là nơi bao hàm các tác động bên ngoài đơn vị, doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến việc trao đổi, mua bán và hoạt động của các doanh nghiệp. Nó bao hàm toàn bộ các thành phần chính tác động bên ngoài doanh nghiệp khiến cho các nhà quản lý khó điều khiển và làm chủ được nó, sức ảnh hưởng từ môi trường vĩ mô gây ra cho doanh nghiệp là không hề nhỏ và đòi hỏi các nhà quản lý phải biết nắm bắt, hoạch định chiến lược để sẵn sàng đối mặt với chúng. Trước đây thì các doanh nghiệp Việt Nam đa số ít bận tâm đến môi trường vĩ mô kể cả khi nhà nước ban hành ra những luật mới thì doanh nghiệp cũng không quan tâm lắm vì nó không ảnh hưởng gì nhiều đến tổ. Tuy nhiên thì thời điểm hiện nay chúng ta có thể thấy rất rõ Việt Nam kí hiệp định thương mại với liên minh Châu Âu sản sinh ra rất nhiều những cơ hội và tiềm năng cho các ngành xuất nhập khẩu. Tình hình dịch bệnh hiện nay chẳng hạn, gây thiệt hại nặng nề đến các ngành nghề như vận tải, nhà hàng, quán bar, giải trí và hầu hết các ngành nghề kinh doanh trên thị trường. Qua đó, cá nhân mỗi người có nhận biết sự quan trọng của yếu tố môi trưởng vĩ mô đấy và khi nền thị trường kinh tế của chúng ta càng ngày càng đi lên việc trao đổi trong tổ chức phát triển thì nó lại càng tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp. Thứ các nhà quản lí từng xem nhẹ thì bây giờ lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Trong mối trường vĩ mô bao gồm có 6 thành phần quan trọng là môi trường kinh tế, môi trường công nghệ - kĩ thuật, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường chính trị pháp luật và các yếu tố hội nhập quốc tế. Để có thể nắm bắt và hiểu rõ về các thành phần này đòi hỏi các doanh nghiệp cần hiểu thật rõ về chúng như vậy doanh nghiệp mới có thể phản ứng, dự đoán cũng như đưa ra các hoạch định phù hợp với doanh nghiệp của mình. 5
- Để xem xét yếu tố môi trường đối với doanh nghiệp một cách khả thi nhất, họ phải nắm vững thực trạng từ môi trường vĩ mô gây ra để qua đó thúc đẩy doanh nghiệp đưa ra những kế hoạch làm việc phù hợp, hành động một cách hiệu quả mọi nguồn nguyên liệu, vật chất cần thiết để đưa doanh nghiệp đến những dự định hoàn thành trong tương lai và mang về cho họ doanh số cao nhất. Đặc biệt, các doanh nghiệp phải chú trọng đến những ảnh hưởng của nhân tố vĩ mô mô nhằm góp chung tay góp sức đạt được tìm năng hòa nhập với các yếu tố trong doanh nghiệp, giúp họ hoạch định và đưa ra những dự định quan trọng để làm bàn đạp vững chắc cho việc ban hành các mục tiêu quản trị của mình. Có những sự liên hệ giúp chúng ta có tầm nhìn sâu hơn trong thực tế: Sau trận sóng thần thảm khóc, Nhật Bản cùng một lúc phải đối mặt với nhiều thách thức, phải phục hồi nền kinh tế đang lâm vào tình trạng gần như không có thể trông cậy vào năng lượng hạt nhân và các thành phần khác, phải đảm bảo lương thực cho đời sống nhân dân trong khi phần lớn đất canh tác bị nhiễm chất phóng xạ và xuất nhập khẩu bị tổn thất nặng nề. Con số 150 tỷ Euro là số tiền mà Nhật Bản đã bị thiệt hại do thiên tai gây ra. Nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng và thậm chí bị phá sản do không đủ nguồn cung ứng và tài chính để khôi phục công ty. Rất nhiều các doanh nghiệp bị thất thoát nặng nề và hơn thế nữa là phá sản. Trong số đó, Toyota là một trong những nạn nhân bị thiệt hại rất nặng nề về tài chính, vật chất lẫn tình thần do môi trường vĩ mô tác động, họ không có sự tìm hiểu và không mấy quan tâm đến yếu tố và hậu quả mang lại khiến họ phải lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, tổn thất nặng nề. Nhưng không vì thế mà Toyota bị sa sút và ngưng đọng nguồn vốn,họ đã take notes được kinh nghiệm quý báu cho doanh nghiệp từ thảm họa 2011.Toyota lần này đã chứng minh rằng họ có sự chuẩn bị trước, tìm hiểu và đưa ra hoạch định rất kĩ càng để đối diện với trận sóng thần này, hãng đã gấp rút gửi các đơn hàng ngắn hạn sang Trung Quốc để đặt mua linh kiện lắp ráp cần thiết dự trữ để tránh tối đa những tổn thất nặng nề hơn so với thảm họa thiên tai năm 2011 - thời điểm mà sóng thần, động đất hoành hành khiến nền công nghiệp ô tô của Nhật Bản trì trệ hoàn toàn suốt nhiều tháng liền, và hơn thế nữa khiến các thị trường lớn khác như Mỹ, Trung Quốc và các thị trường khác bị điêu đứng hoàn toàn. Đối với trường hợp của Công ty Mercedes lại là một chủ thể khác, tập đoàn này đã kinh doanh rất phát triển vào những năm 1970 vì ở khoảng thời gian đó, các quốc gia trên thế giới đang trong thời kỳ thịnh vượng nhất và người tiêu dùng quan niệm rằng nếu bạn có điều kiện, hãy sở hữu xe Mercedes cho bản thân. Loại xe này ở thời điểm đó đã xuất hiện đúng nơi, hợp thời điểm. Tuy nhiên khi bước vào đầu những năm 1990, nền kinh tế thế giới bị suy thoái kéo dài, các loại thuế chi cho những mặt hàng đắt đỏ này trở nên tăng cao và tư duy suy nghĩ xã hội đã xoay chuyển theo cục diện khác, họ bát bỏ thói quen chi xài tốn kém, xa hoa đó, những sự thay đổi đó đã tạo ra sự ảnh hưởng rất nặng nề vào tài chính của tập đoàn Mercedes. Doanh số thiệt hại không phải là do nhà quản trị thực hiện không tốt nhiệm vụ của mình, mà là có rất ít những cá nhân trong xã hội có đủ điều kiện để sở hữu được loại phương tiện giao thông này.Và kể cả những thành phần có dư điều kiện để sở hữu, thì Mercedes không còn là 6
- mẫu xe phong cách thời trang giá trị nữa. Qua đó cho thấy môi trường vĩ mô là một trong những vấn đề nhứt nhói khiền các doanh nghiệp đau đầu tìm cách giải quyết khi chưa có sự phân tích sâu rộng và thích ứng với vĩ mô. Tất cả cho thấy nhà quản lý chuỗi doanh nghiệp chỉ là hình thức thôi. Đó là những ý kiến lập trường của nhiều sinh viên về việc học quản trị thời bây giờ. Đến với ý nghĩa bao quát rộng hơn, môi trường quản trị này có thể được phân thành hai loại thành phần đó là “vi mô và vĩ mô”. Hai loại môi trường này có thể khác nhau nhưng đối với các công ty thì đây là những yếu tố thiết yếu trong doanh nghiệp. Các yếu tố môi trường vĩ mô tác động đến các hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm xác định các hướng tác động, yếu tố ảnh hưởng và mức độ nghiêm trọng của sự ảnh hướng xảy ra với các tổ chức. Để dễ hiểu hơn, đó là việc rà soát các thành phần tác động từ vĩ mô và đưa ra những ảnh hưởng và những tiềm năng gì mà họ cần phải sẵn sàng đối mặt khi đưa ra kế hoạch và thực hiện chiến lược. Tuy nhiên, việc dung đến thông tin để biểu diễn môi trường trong kinh doanh là chưa đủ, hơn thế nữa doanh nghiệp cần phải phối hợp hai yếu tố lại với nhau là thông tin phân tích môi trường nội bộ của tổ công ty và tìm hiểu chi tiết môi trường kinh doanh, qua đó quyết định được tầm nhìn cụ thể, định hướng và kế hoạch rõ ràng giúp công ty đặt ra được các chủ thể phù hợp hợp và các mô hình, chiến lược kinh doanh mang tính hiệu quả cao. Dẫn chứng cho thấy rằng: Các công ty chuyên sản xuất mẫu áo thun theo phong cách châu Âu, và sau đó bán ra thị trường Việt Nam nhưng do khác biệt về phong cách và thiết kế, khác biệt vùng miền nên sản phẩm bán ra thị trường không được chạy khiến doanh thu kinh doanh từ mặt hàng này không được cao so với mong muốn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, dịch bệnh Corona Virus hoành hành trên diện rộng, điều này dẫn đến tất cả các doanh nghiệp trên Việt Nam và tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng và tổn thất nặng nề về mọi mặt khiến cho nhiều doanh nghiệp bị trì trệ và khả năng phục hồi rất thấp. Và nếu không có sự tìm hiểu sâu rộng về vĩ mô, các công ty sẽ gặp những vấn đề khổ sở và sự ảnh hưởng từ môi trường này va chạm đến các tổ chức doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ gặp những tình huống bất trắc, khó thể giải quyết vấn đề; Việc đưa ra chiến lược, mục tiêu tổ chức sẽ trở nên khó khăn và sẽ gây ảnh hưởng tác động đến doanh nghiệp. 7
- Trong kinh doanh đối với quan điểm nào cũng vậy, nhà quản trị đều phải chịu trách nhiệm hoàn toàn lên nhiệm vụ được tổ chức giao cho nhà quản trị thực hiện. Theo quan điểm vạn năng thì các nhà quản trị chịu trách nhiệm trực tiếp về sự thất bại hay thành công của tổ chức. Đó là quan niệm: “Nhà quản trị giỏi có thể biến sắt thành kim. Nhà quản trị tệ thì làm ngược lại”. Trái ngược lại với điều này theo quan điểm biểu tượng, đối với nhà quản trị chỉ có một tác động một cách bị giới hạn cụ thể đến thành tích hoạt động của tổ chức vì ở đó có nhiều thành phần bên ngoài tác động tới hệ quả của các vai trò quản trị, của tổ chức. b) Các yếu tố môi trường vĩ mô c) Các yếu tố kinh tế vĩ mô: Môi trường kinh tế vĩ mô hay nói vắn tắt là Marco Enviroment nói có thể rộng hơn là bao quát các yếu tố xoay quanh một hộ kinh doanh hay cá nhân nào đó. Chính vì nguyên nhân nó rất rộng nên rất khó để nhà quản trị có thể tác động vận hành một cách cân bằng được vì chúng không phải là một lĩnh vực riêng khác nào mà các yếu tố này nó bao phủ cả mọi mặt, lĩnh vực trong tổ chức, ảnh hưởng đến mọi yếu tố với tất cả ngành, vấn đề trong doanh nghiệp, hành vi chi tiêu hay đầu tư của người tiêu dùng và phải bắt buộc thuận theo, phải thích nghi theo sự đổi mới. Ngoài ra ảnh hưởng đến khả năng tạo ra mặt chỉ tiêu hàng hoá và thu nhập, chi tiêu của người mua nên vì vậy các doanh nghiệp thường dựa vào nó để đầu tư. Ví dụ: Từ khi ở thập kỷ 90, thực trạng nền kinh tế như Pháp bị khủng hoảng về thị trường kinh tế nhưng nhà kinh doanh lại không chú trọng nguyên nhân vấn đề đó mà họ còn lên phương án giảm chi phí tiền nhân công, giảm giá trị khi mua sức lao động. Thêm vào đó tăng ngược lại khoảng khác như sản xuất, giá cả hàng thiết yếu… và đã gây ra tác động một nhược điểm rất lớn đến nhu cầu chi tiêu người dân d) Tổng sản phẩm quốc nội GDP: GDP là một công cụ thước đo quyền lực kinh tế được dựa tính theo mức trung bình về sức mua tương đương được tính trên bình quân đầu người, để ước tính được chỉ số tăng của một nền kinh tế hay cũng như tốc độ gia tăng của một đất nước. Do đó được xem là một sáng chế vĩ đại trong thời kỳ lịch sử và ra đời sau ngày 29 tháng 10 năm 1929 mặt khác là ngày thứ ba đen tối. Dù việc đo lường GDP để đánh giá tiềm năng nhưng nó còn là một hình thức được phổ biến sử dụng trên thị trường và là một chiến lược tốt mà các nhà hoạch định chính trị hay phân tích khi ra một nhận định nào được cân nhắc hơn nhưng nó vẫn không thể không góp phần gây những vấn đề rủi ro. 8
- ‘Gross Domestic Product’ với tên gọi quen thuộc chung là GDP, bao hàm toàn bộ hàng hoá trên thị trường, trên lĩnh vực sản xuất hàng hoá và còn được tính trong phạm vi ở một lãnh thổ quốc gia dưới một nhà kinh tế, hộ gia đình, thường được kết thúc một kỳ trong thời hạn một năm. Ví dụ: Khi bạn mua một vé xem phim, giá cả bao gồm dịch vụ đều được GDP kiểm soát. Được thực thi vào năm 1937 để đối phó các cuộc Đại suy thoái và đến sau hơn 7 năm, vào năm 1944 mới được áp dụng công thức tính phổ biến như là một thước đo chuẩn cho một nền kinh tế. Đến nay, hình thức tính này vẫn được cải thiện, để đưa ra những nhân tố mới, biện pháp liên tục để theo kịp sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Tầm ảnh hưởng GDP với những nhà hoạch định nói riêng, trong chính phủ nói chung vì nó không chỉ là thước đo sản lượng kinh tế mà chỉ số trong GDP có thể khái quát sự tăng trưởng về mặt kinh tế, tốc độ mạnh hay yếu về mặt phát triển của một lãnh thổ. Ngoài ra còn là một dữ liệu, dấu hiệu để quan sát tình hình kinh tế, thực trạng trên thị trường mà các nhà doanh nhân dựa vào nó như là một gợi ý hướng dẫn để rồi tiến hành các chiến lược kinh doanh hợp lý hoặc đưa ra quyết định chắc chắn hơn để đầu tư vào một thị trường tốt. Nếu không thể thích nghi với những biến cố, nắm bắt được nguyên nhân thay đổi tình hình chính trị thì e rằng có thể gây ra một thị trường bị suy giảm lần nữa, làm nhiều nhà đầu tư phá sản. Ví dụ: GDP trong một năm 2021 vừa qua ở Việt Nam, thống kê cho thấy chỉ tăng GDP từ 1-2%. Nói cách khác là giảm mạnh vì bị chi phối bởi đại dịch bệnh COVID-19, gây ra nhiều thiệt hại không hề ngờ đến về thị trường thương mại cũng như giao dịch nước ngoài đối với các nhà đầu tư. Cụ thể là ngành sản xuất nhập khẩu và khâu vận chuyển giảm mạnh từ 5,6% góp phần giảm 0.5% về phương diện tốc độ tăng trưởng. Tương tự như vậy sẽ giảm mạnh chỉ số GDP nếu như không đưa ra chiến lược, định kiến hợp lý với thực trạng hiện nay. Tuy nhiên trong thực tế hình thức này vẫn không thể trốn tránh khỏi rủi ro phức tạp nó không thể xử lý được. Để minh hoạ GDP sẽ biểu hiện đầy đủ về tổng sản phẩm được sản xuất hợp pháp ra trên thị trường nhưng vẫn sẽ có một số hàng hoá sẽ bỏ xót do có thể là sản phẩm, dịch vụ bất hợp pháp được giao dịch trong chợ đen, thế giới ngầm. Mặt khác nó cũng không thể tính được lượng sản phẩm do gia đình tự sản xuất để đáp ứng nhu cầu của riêng họ nên nó cũng là lý do chưa được đưa ra thị trường cũng như không thể đo được sức khoẻ của một đất nước, cư dân và nhiều vấn đề khác do bản chất nó chỉ nhấn mạnh về quá trình sản xuất ra gía trị chứ không cân nhắc về thực trạng tăng trưởng. Nhìn chung vấn đề này vẫn luôn khiến các nhà kinh tế đau đầu vì phải nghiên cứu để kiểm soát sự biến thiên của GDP nhằm vận hành chiến lược với năng suất cao. Bên cạnh đó, đã có những chỉ số ra đời để thay thế nhưng ngược lại không thành công vì chỉ số ấy không thể hoạch định một cách chính xác tốt hơn để thế cho chỉ số GDP nên chỉ có thể bổ sung vào phần thiếu sót. Ngoài GDP, không thể không nhắc đến GNP, chỉ số dùng để bổ sung theo dõi được tình hình tổng sản lượng bên ngoài biên giới, bất kể nơi đâu. Tóm lại, dù là một phương thức tính không hoàn chỉnh nhưng việc đo lường GDP để đánh giá tiềm năng môi trường cũng như là mức độ rủi ro cho doanh nghiệp vẫn sẽ là một trong những nguyên tố cũng như nắm được chìa khoá quan trọng giúp mọi tổ chức vận hành tốt hơn dù hiện tại hay ở tương lai. 9
- e) Yếu tố lạm phát: Lạm phát được coi là sự gia tăng về mặt giá trị mức giá chung về hàng hoá hoặc về dịch vụ nào đó, hiểu theo cách khác là sự rớt giá của đồng tiền qua thời gian nhất định. Tuy vậy, yếu tố lạm phát không thể thấy được bằng đôi mắt thường, không thể chạm được nhưng nó sẽ âm thầm ăn mòn ngân sách của bạn và được ví như là thuế ngầm tính dưới dạng CPI. Ví dụ: Vào năm 2020, bên công ty A bán một giỏ hàng với giá 50 Đôla, năm sau 2021 với giỏ hàng ấy nó lại lên thêm 3 Đôla cộng tổng là 53 Đôla. Khi đó CPI sẽ cho thấy lúc này tăng lên 3% hay còn nói chỉ số lạm phát là 3%. Thực tế có rất nhiều yếu tố từ môi trường gây ra nhưng chung quy lại chỉ có ba nguyên tắc chính: f) Do cầu kéo: Với tên gọi khác ‘demand pull inflation’, theo lý thuyết nó có thể nói cụ thể hơn là nhu cầu cho bên khâu hàng hoá nhiều hơn bên nguồn cung. Ví dụ: Khí hậu, thời tiết luôn là chủ đề nóng hổi ở Việt Nam, do nơi đây luôn nắng nóng thế nên nhu cầu về thiết bị làm mát như máy lạnh sẽ tăng, tận dụng được cơ hội để đẩy giá mạnh. Vì hiện nay sẽ có những nhà tiêu dùng họ sẽ cạnh tranh, chiến đấu với nhau để có được một chiếc máy lạnh mình mong muốn hoặc với mức giá hời. g) Do chi phí đẩy: Hiện tượng này cho thấy những nguyên liệu, đồ cung cấp cho nguồn sản xuất dịch vụ tăng lên mức giá khác dẫn đến các nhà cung ứng họ phải chia sẻ bớt nguồn áp lực tăng giá này đến người tiêu dùng bằng cách tăng giá trị sản phẩm mua hàng. Nói chung xuất phát từ nhiều mặt ví dụ tiền lương nhân công đòi tăng hay chính phủ đã đề ra một lối đi mới về thị trường kinh tế, cũng có thể nói do thảm hoạ từ khí hậu, thiên nhiên khiến nguồn nguyên vật liệu trở nên hiếm hoi khó tìm. Ví dụ: Để làm một món ăn thật ngon cần phải có nguyên liệu. Nếu bên phía cung ứng gia cầm tăng phí giá như về trứng, thịt thì điều đó cũng sẽ khiến gia tăng giá cao trên dĩa ăn nhằm để bù đắp khoản vốn với nhà kinh doanh đã bỏ ra. h) Do cơ cấu: Khi một nhà doanh nhân tăng mạnh về thị trường kinh doanh, thì họ sẽ tăng thêm tiền công cho sức lao động. Ngoài ra cũng có những môi trường kinh tế không tiến triển, dù vậy doanh nghiệp vẫn phải tăng tiền công theo xu thế. Vì có hoàn cảnh kinh doanh không được tốt nên để công bằng như vậy họ buộc phải đẩy mạnh giá thành hàng hoá để cân bằng tiền vốn, lãi, lời, làm cho nguy cơ lạm phát tăng cao. Có thể lạm phát đã gây ra một nguồn sóng lớn với nhiều mặt khác như lạm phát thuyết tiền tệ… Dù nó ảnh hưởng nghiêm trọng về mặt tiêu cực nhưng không có nghĩa lạm phát hoàn toàn xấu vì có thể lạm phát tăng ở mức thấp sẽ là một bước đệm để tận dụng làm tăng trưởng cho nền kinh tế lẫn nhà doanh nghiệp, là điểm có thể thu hút người mua hàng trong hôm nay vì đồng tiền giá trị còn lớn. Khiến môi trường kinh tế vĩ mô trở nên cân đối, thuế sẽ luôn được giữ với mức giá an toàn. Nhưng suy cho cùng lạm phát quá cao cũng bất ổn, ví dụ: Người lớn tuổi họ không còn đủ sức để tạo ra nguồn thu nhập riêng cho mình, nếu việc lạm phát làm tăng giá cả thị trường thì sẽ khiến họ mất đi một chi phí dành dụm qua thời gian. Có thể minh hoạ thêm việc tác hại này, người tiêu dùng sẽ không muốn dùng tiền trong nước do mất niềm tin và chuyển sang đồng ngoại tệ, giá trị tiền nước khác, điều đó cũng làm mất đi giá trị tiền tệ trong nước. Ví dụ: Cộng hoà Zimbabwe là thành phố đã bị tác động đến tình huống về việc không kiểm soát được lạm phát nguyên nhân là do nhà nước chính phủ cứ liên tục in tiền với mệnh giá cao nhất như 100- 10
- 500 triệu đô la Zimbabwe, gây ra lạm phát đạt đến đỉnh điểm 50%. 1 USD có thể tương đương đổi 25 triệu với đồng tiền nội tệ Zimbabwe vào năm 2008. Nhờ đó khiến cho thực trạng nơi đây bị khủng hoảng vì gía trị hàng hoá cho nhu cầu thiết yếu tăng lên gấp bội như một chiếc bánh mì có trị giá lên tới 12 triệu đồng nội tệ ở đây. Cơn ác mộng này mà nói đã phải khiến chính phủ đổi tiền nội tệ thành tiền đô la Mỹ vì tiền nội tệ không còn có giá trị nữa. i) Tỷ giá hối đoái và lãi suất cho vay: Tỷ giá hối đoái với nhiều cách hiểu khác nhau nhưng nhận xét chung là dạng giá trị đồng tiền của nước này thể hiện qua đồng tiền của nước khác. Phát sinh ra từ khi muốn dồi dào về mặt kinh tế thì phải mở cửa ngoại, do đó tỷ lệ hối đoái sẽ xuất hiện do nhu cầu trao đổi tiền tệ giữa hai nước tăng. Ví dụ: Tỷ giá bên Hàn Quốc và Việt Nam là 18.96 đồng. Tức là 1 won=18.96đồng hay 18.96 đồng có thể mua được 1 won. Ngoài ra nó còn đảm nhiệm là hình thức cực kì quan trọng đối với kinh tế phát triển Việt Nam và bao quốc gia khác vì nó ảnh hưởng từ gián tiếp đến trực tiếp đến với nhập khẩu, xuất nhập khẩu hay nói bao quát hơn là nền kinh tế cạnh tranh cao nếu tỷ giá cao của một lãnh thổ, quốc gia nào đó. Để có thể đầu tư, bạn nên biết khi nào đồng tiền nó trở nên mạnh hay yếu hơn. Ví dụ: USD mạnh hơn thì sẽ đổi được nhiều trị giá VNĐ giúp thúc đẩy sức nhập khẩu của Mỹ do hàng hoá Việt Nam kinh phí rẻ. Tình huống này nếu ngược lại USD yếu hơn chỉ đổi được ít giá trị VNĐ, giúp thúc đẩy xuất khẩu sẽ khiến hàng hoá trong nước mang giá ít kinh phí hơn là hàng hoá nước ngoài vì có thể do sản phẩm thị trường Việt Nam trở nên tốn hao phí hơn. Mặt tiếp theo là lãi xuất cho vay, nó tương tự như định nghĩa về tiền lãi là số tiền bạn phải trả cho một tổ chức hay cá nhân mà bạn đã vay nợ. Thì ở đây lãi suất cho vay cứ như là tỉ lệ theo đó người nợ phải trả cho người cho vay. Ví dụ: Nếu bạn cần 10 triệu mà không có đủ ngân sách để xây dựng một hộ kinh doanh thì bạn có thể tạo hợp đồng với ngân hàng. Lúc đó ngân hàng đồng ý và thêm vào đó sẽ đưa ra lãi suất là 10% 1 năm. Tương đương lãi suất mỗi năm là trả thêm 1 triệu đến khi hết nợ và con số 10% chính là lãi xuất cho vay vì đã sử dụng dịch vụ của họ. Lãi suất này còn tác động đến mọi khía cạnh đến thị trường. Bởi vì các nhà nghiên cứu về kinh tế cho rằng lãi suất thấp sẽ tạo một điểm gây thu hút, đánh đòn tâm lý cho những nhà hoạch định muốn mở rộng môi trường với qui mô lớn, tăng thêm cơ hội cho người lao động tránh bị nguy cơ kém phát triển dẫn đến không có việc làm, luôn ở dưới đáy xã hội và có thêm nhu cầu chi tiêu nhiều hơn. Tất cả điều này sẽ làm góp phần tăng kinh tế một cách vượt trội tại một quốc gia. Nhưng ngược lại, nếu như lãi xuất cao khiến cho thu hẹp sản xuất, giảm nhân sự, khiến nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ví dụ: Khi nền kinh tế Mỹ bị giảm xuống khoảng năm 2006-2009 thì năm 2008 cục Liên Bang Mỹ đã giảm từ 5% thành 0%. Mặt khác để quá trình phát triển được đi đúng lộ trình cố định thì buộc Chính phủ phải chỉnh sửa chính sách về lãi suất. Ví dụ: Khi thực trạng kinh tế thúc đẩy mạnh, làm cho ngân sách người dân góp phần nâng cao, thêm nhu cầu chi tiêu. Lúc này nhu cầu ngày càng cao nên nhà cung cấp sẽ lợi dụng tình thế đó mà nâng giá lên, từ đó ảnh hưởng gia tăng lạm phát. Do nguyên nhân từ đó mà ra nên giảm đi nhu cầu mua sắm của họ. Cả hai yếu tố này dường như đều chi phối từ hoạt động đầu tư, giá thành hàng hoá, giá trị của công ty kinh doanh. Suy cho cùng tỷ giá hối đoái này sẽ chiếm nhiều vị trí, vai trò 11
- quan trọng, yếu tố chi phối đến kinh tế hơn vì nó có thể liên luỵ đến đánh giá được mặt hàng trong nước, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng. Cụ thể tỷ lệ hối đoái còn có sự kết nối với lạm phát, tỷ giá hối đoái giảm thì lạm phát không tăng sẽ thu hẹp phạm vi sản xuất. Nguyên nhân đó dẫn đến tốc độ kinh tế chậm tuột không phanh Ví dụ: Khi lạm phát nó thay đổi thì dẫn đến các mức giá, tỷ lệ đối thoái trao đổi trên thị trường thương mại sẽ chênh lệch nhau ảnh hưởng đến nguồn cung ứng. Tiền lương và thu nhập: Hai yếu tố này có thể góp phần làm tăng mạnh về sức cạnh tranh . Nhưng tiền lương và thu nhập là hai yếu tố hoàn toàn khác nhau. Dù khác nhau về khái niệm, hình thức nhưng cả hai lại bổ sung, gắn kết với nhau. Về tiền có thể ngầm hiểu chúng ta không thể dùng giá trị tiền để mua thành công mà phải dùng tiền để đầu tư cho sự thành công. Tương tự vậy tiền lương còn là một khía cạnh mà các nhà hoạch định luôn phải tìm mọi cách để giải quyết rủi ro của vấn đề gian nan này. Vì nó không chỉ phải tốn một khoản rất lớn không chỉ về khâu sản xuất mà nó cần phải có sự hoà hợp, có mối quan hệ liên kết chung giữa lao động và vốn. Vì thế sẽ rất khó để cân bằng nếu giá trị thị trường phát triển dẫn đến tình trạng không đủ ngân sách để tiếp tục đáp ứng sức mua, phải giảm đi chi phí khác không kể đến sức lao động. Bao quát hơn vấn đề tiền lương như là khoản chi phí để chi trả mua sức lao động của mình, là một yếu tố để thoả thuận giữa người sử dụng sức lao động và chi trả cho người lao động và nó chỉ cố định về mặt giá trị trong giới hạn cấp bậc của mình. Ví dụ: Bạn đảm nhiệm một chức vụ nhân viên văn phòng trong công ty và lương phải trả cho bạn là 7 triệu chỉ tính trong phạm vi môi trường bạn làm được việc gì, những việc khác sẽ không chi trả thêm và cố định mức giá trong một khoảng cố định Về thu nhập còn là khoản chi phí bạn có thể kiếm cho nhiều cơ sở từ một cá nhân nào đó. Nó bao gồm về tiền lương từ công việc hay tiền bạn đã đem đầu tư cho một cổ phiếu nào đó. Bên cạnh đó thu nhập cũng phải chịu thuế ví dụ: Bạn chơi xổ số và thắng được 1 tỷ, nhưng để lấy được thu nhập từ tấm vé số bạn còn phải chi trả thuế thu nhập cá nhân tuỳ vào số tiền bạn thắng cao hay thấp thì sẽ quyết định tiền thuế tương ứng. Ngoài ra nói cụ thể hơn bạn kiếm tiền từ những mặt hàng quần áo kinh doanh tự do, đó được gọi là thu nhập không phải là tiền lương vì nó có thể cao hay thấp thất thường. Do vậy, nên xảy ra rất nhiều điều cạnh tranh gay gắt. Để tài trợ, thu hút tài năng mà những nhà doanh nghiệp muốn có thì họ sẽ dùng những thu nhập khác nhau như học bổng nước ngoài, cơ hội được du học miễn phí… Đó là lý do nhà nước Việt Nam luôn giải quyết về chính sách lương và đưa ra thu nhập hợp lý nhằm quá trình hoạt động phát triển diễn ra bình đẳng, không phân biệt tầng lớp. 12
- j) Các yếu tố xã hội – văn hoá Sự đa dạng văn hoá được thể hiện rất rõ qua từng thời kì phát triển của nhân loại, từ khi sơ khai đến thế giới bây giờ con người có rất nhiều nên văn hoá từ cổ đại đến hiện đại như là nền văn minh Lưỡng Hà,Ai Cập, Ấn Độ, Hoàng Hà,La Mã, Ba Tư, Maya. Và các nền văn minh này cho ta thấy rõ về sức ảnh hưởng của chúng đến hàng hóa bằng chứng cho ta thấy những hàng hoá khác nhau cũng như công cụ lao động khác nhau. Và các nền văn minh này thể hiện rõ nét qua các yếu tố như dân số, văn hoá, nghề nghiệp, tâm lý dân tộc, phong cách và lối sống, hôn nhân gia đình, tôn giáo. Các yếu tố môi trường văn hoá, xã hội này có ảnh hưởng đến sự tác động và sự phát triển doanh nghiệp rất lớn. Dường như khi có sự thay đổi về các yếu tố này sẽ tạo nên sự thay đổi lớn về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. k) DÂN SỐ: Dân số là một trong những điểu quan trọng nhất đối với doanh nghiệp. Vì đó là thị trường đó là nguồn nhân lực chính của doanh nghiệp. Như chúng ta đều biết trong 3 yếu tố của hàng hoá thì sức lao động là yéu tố quan trọng nhất. Không những vậy dân số còn là thị trường của doanh nghiệp Là một điểm ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển của nhà đầu tư. Không riêng gì dân số trên thế giới, mà kể cả Việt Nam cũng vậy. Tỉ lệ sinh tử diễn ra khá chênh lệnh giữa các nước. Việt Nam đang là nước có dân đông thứ 13, chiếm 1,25% trên thế giới. Đang là nước có dân số trẻ nên thuận lợi cho việc trao đổi mua bán. Hiện nay thì rất ít các doanh nghiệp để tâm đến người già, các ngành tiêu dùng hầu như đều tập trung hướng tới giới trẻ. Muốn trao đổi mua bán với người già thì phải đáp ứng: các spa chăm sóc, khu giải trí giúp họ mua vui, bớt căng thẳng khi đến tuổi, trung tâm y tế cao cấp, hay các viện dưỡng lão.. Ta cũng có thể thấy Việt Nam đang có số dân ngày càng tăng nhanh nhất hiện tại, vượt mặt qua cả Nhật Bản (tỉ lệ người cao tuổi tăng 10.5%), đã tăng vượt ngục so với dự 13
- kiến ban đầu. Họ đã khai thác chính điểm yếu của mình để phát triển. Bằng sự cải thiện các dịch vụ ổn định nhất, tìm tòi và thiết lập ra những thiết bị thông minh, đòi hỏi hỗ trợ chăm sóc an ninh hay những phương pháp tiến sát lại gần trong y tế về hỗ trợ sức khoẻ (bảo vệ bằng thời đại công nghệ 4.0), lương hưu.. Lợi dụng việc đó, họ đã lập nên các công ty trao đổi về “Bảo hiểm nhân thọ” để khách hàng bảo vệ tính mạng hay đem lại quyền lợi cho bản thân. Dù đã chuyển sang cơ cấu dân số già nhưng với thời điểm hiện tại thì ta cũng có thể thấy người già đang ngày càng giàu có, có nhiều khoảng thời gian dưỡng già để sử dụng tiền bac cách thoải mái hơn, chịu chi hơn. Và hơn thế nữa, là họ chịu bỏ tiền ra cho các khoản chi tiêu như về mặt đất đai, nhà ở (bất động sản) hay các phương tiện đi lại xa xỉ. Mặc dù trong thị trường hiện nay, phần lớn các ngành đã và đang nhắm tới giới trẻ nhiều hơn, ít tập trung vô người già. Nhưng thực sự việc kinh doanh chăm sóc người già lại có hướng đi tới đích tốt hơn. Vì đó xem như là một cơ hội cho các các lãnh vực y tế hay các viện dưỡng lão phát triển. Một số các nước đang trên đà xúc tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc họ vẫn có chiến lược để duy trì lao động với kỹ năng cao. VD: Nhật có chiến lược hỗ trợ hưu trí trong việc tìm kiếm tận dụng các dân số già để được cải thiện trong lao động. Về vấn đề tuổi thì cũng là vấn đề cấp thiết để ảnh hưởng cho việc mua sắm và sử dụng ở bất kì trong độ tuổi nào. Trong thời đại phát triển này, hầu như những cô gái đang trạc tuổi mới lớn như em chẳng hạn thì thích diện những trang phục sexy, có kiểu dáng nhí nhảnh, năng động, hay những bộ cánh tạo nên sự quyến rũ. Ngược với lối sống đó, thì các bậc trung niên lại chọn cho mình những bộ trang phục tạo nên sự quý phái, lịch sự và có phần sang trọng. Vì vậy, nhu cầu của khách hàng đều tuỳ thuộc vào lứa tuổi và có sự khác biệt rõ ràng. Theo nghiên cứu thì tâm lý về mua sắm giữa đàn ông và các chị em cũng có sự phân chia rõ ràng. Phụ nữ thường đề cao và nâng tầm cao trọng hơn trong việc hoàn thiện, phần lớn là mua theo cảm nhận, lọc hết những đánh giá tốt hay xấu về sản phẩm, đặc biệt là sẽ dựa vào tên thương hiệu để xem xét độ uy tín rồi mới đưa ra quyết định. Còn về phía nam thì họ ưu tiên về chất liệu, mẫu mã và mức độ thoải mái của trang phục nhiều hơn. 14
- Nước ta vào những năm gần đây thì người dân di cư rất nhiều. Họ chủ yếu di chuyển từ nông thôn ra thành thị từ các vùng quê nghèo ra các thành phố lớn. Họ gây bùng nổ về vấn đề nhà ở, đường xá và các dịch vụ cộng đồng (bệnh viện, đường xá, trường học…). Và đáng chú ý hơn là trong tình hình dịch bệnh họ di cư ngược lại (thành thị về nông thôn) khiến các nhà đầu tư về bất động sản, nhà trọ, chung cư phải đau đầu vì tình trạng bán tháo mặt bằng, trả trọ,nhà, mặt bằng vì không còn chi phí để sinh sống nơi thành thị đắt đỏ, thậm chí họ còn không có việc làm. Nên các nhà đầu tư nên chú ý chuyện có nên thay đổi chiến lược hay không, có nên đầu tư vào các dự án nhà ở ngay bây giờ hay không và có nên đầu tư vào bất động sản ở những vùng ven hay không. Đặc điểm, tính cách và thể trạng theo từng vùng miền cũng rất quan trọng. Như những người dân vùng cao họ rất khoẻ và sống thọ vì họ lao động mỗi ngày họ không bị ảnh hưởng vì ô nhiễm môi trường nhiều họ ăn những thực phẩm sạch đa số là do họ tự chăn nuôi và trồng trọt nên họ có thể làm những công việc như trồng chè, nương rẫy nhưng dân trí họ lại thấp. Ngược lại những người dân ở thành thị dân trí của họ rất cao nhưng sức khoẻ lại không được đảm bảo do thực phẩm và môi trường. Họ có thể làm những công việc trên máy tính, công việc tính toán chuyên sâu dễ hội nhập với quốc tế hơn vì họ được học tập rất bài bản. l) VĂN HOÁ Văn hoá là các quan niệm, truyền thống mà con người đã thành lập nên và là các chuẩn mực hành vi (nhân cách, đạo đức, thái độ..). Văn hoá có thể coi là những nét riêng về tinh thần, các hoạt 15
- động sáng tạo, sự hiểu biết về trí óc và cả mạch cảm xúc con người để quyết định làm nên tính cách của con người trong một xã hội nào đó, cụ thể hơn là từng người. Ảnh hưởng nhiều tới lối sống tiêu dùng, cách cư xử như thế nào trong xã hội và tôn trọng sở thích riêng từng vùng miền. Hỗ trợ các doanh nghiệp làm nên nền văn hoá sâu ở trong con người mình và cũng tác động tới các thái độ cư xử mà các doanh nghiệp hay trao đổi ở bên ngoài. Văn hoá còn được nghĩ nôm na là một trong những tư tưởng được các doanh nghiệp đặc biệt để tâm chú trọng nhất hay có thể là tham vọng mà các nhà quản trị đang nhắm tới, hi vọng sẽ đạt được. Các giá trị văn hoá có sự tự do riêng hay những thói quen trong việc ăn uống của mỗi người. Đó cũng có thể coi là văn hoá riêng của cá nhân. Việc trao đổi qua lại giữa các nền văn hoá các nước với nhau tác động đến nền kinh tế của doanh nghiệp. Phải tập sửa đổi, thích nghi cho phù hợp với thị trường. Dẫn chứng cụ thể như: ở Sài Gòn có rất nhiều người từ các vùng miền như Bắc, Trung vào sinh sống và làm ăn. Khi mở quán thì chúng ta cần xác định khách hàng mình là người vùng nào để phân chia ra khâu chế biến món ăn cho thích hợp với vùng, miền đó. Vì khẩu vị người miền Bắc khác hoàn toàn miền Trung. Để đem lại được những lợi nhuận và giữ chân tên tuổi để đứng vững thì cần phải có định hướng và chiến thuật riêng bằng cách tìm hiểu các văn hoá truyền thống. Thay đổi quan niệm về sự cân bằng giữa mối quan hệ vợ chồng. Hiện nay phụ nữ đang tham gia vào kinh doanh nhiều hơn so với trước, họ có thể tự kiếm tiền độc lập tài chính mà không dựa trên bất kì ai, những biến đổi về sản phẩm. Như làm ra những món ăn nhanh, ăn liền, các món đã được chế biến sẵn hay là thức ăn đóng hộp để phục vụ cho các nhân viên trong công sở, cơ hội kiếm tiền được mở rộng hơn. Những thói quen mua sắm và tiêu dùng của mọi ngưởi phụ thuộc rất lớn bởi văn hoá và sự hiểu biết của họ, những người có trình độ văn hóa cao và hiện đại thì họ ưa chuộng những món đồ công nghệ mang tính tiện lợi và hiệu suất cao, những người thích những món đồ dễ sử dụng, quen thuộc với họ thì họ sẽ chọn những món đồ sử dụng động cơ đơn giản mang tính cơ học hơn. Văn hoá rất đa dạng nhưng lại dễ tìm hiểu. Vì vậy doanh nghiệp nên tập trung tìm hiểu thật kỹ về yếu tố này tuy nó có thay đổi một ít nhưng có rất nhiều văn hoá vẫn trường tồn đến tận bây giờ mà không bị biến chất. Để doanh nghiệp có thẻ định hướng được thị trường, sản phẩm mà cung cấp cho phù hợp với văn hoá nơi đây. Các nhà đầu tư có thể phát triển và nâng cao những nền văn hoá lạc hậu bằng những sản phẩm và dịch vụ của mình. 16
- m) NGHỀ NGHIỆP: Nghề nghiệp ở nước ta phân hoá rất đa dạng chủ yếu là theo từng vùng miền và độ phát triển ở nơi đó. Như ở khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long ngành trồng lúa chiếm tỉ trong khá cao. Còn ở khu vực Tây Bắc việc trồng chè và họ rất nổi tiếng với những làng nghề thủ công truyền thống như đúc lưỡi cày ở Bản Phố, chạm khắc bạc tại Cốc Môi, dệt lanh thổ cẩm Lung Tám,…Còn những nơi phát triển hơn như Thành phố Hồ Chí Minh lại tâjp trung khá nhiều ngành nghề hơn không chỉ là lao động đơn thuần mà còn phát triển nhiều ngành nghề với nhiều loại hình như là dịch vụ, công nghệ,…Cụ thể hơn như gia đình em về việc kinh doanh buôn bán thì thường sử dụng nhiều giấy vở, bút, các dụng cụ khác để bưng bê. Một nông dân làm vườn, làm rẫy thì sẽ luôn cần những dụng cụ chuyên dụng cho quá trình làm việc như là máy cắt, máy tỉa, phân bón, bình tưới nước.v.v. Hay là một kỹ sư xây dựng thi công các công trình thì không thể thiếu những đồ bảo hộ như găng tay, mũ, dây an toàn, quần áo, giàn giáo.. Những loại hình dịch vụ giải trí, vui chơi chẳng hạn như ở mọi người làm những công việc đơn giản, có nhiều thời gian rảnh thì sẽ có nhiều loại hình giải trí như rạp chiếu phim, karaoke,… Còn những người thường làm những công việc đòi hỏi khá nhiều thời gian thì chúng ta nên tập trung vào mô hình thư giãn như Spa, phòng xông hơi, Những người làm công việc cao cấp, có nhiều kinh tế thì thị trường đồ hiệu, siêu xe nên nhắm tới họ như chổ ở, nơi làm việc của họ để đặt những store hay showroom ở đó…Mỗi nghề nghiệp khác nhau thì sẽ sử dụng những vật dụng, dụng cụ khác nhau (hàng hoá) và thời gian rảnh của họ cũng khác nhau. Dựa trên những vấn đề này ta có thể rút ngắn được thời gian để xác định thị trường cho sản phẩm mà mình muốn cung cấp. n) TÂM LÝ DÂN TỘC: Quan điểm tiêu dùng của mỗi dân tộc khác nhau nên cần chọn lọc các chiến lược kinh doanh cụ thể để đề ta các kế hoạch kinh doanh và các chiến lược đáp ứng với tâm lý của từng dân tộc. Như dân tộc Việt Nam ta là dân tộc luôn dồi dào tình yêu quê hương đất nước, niềm tự tôn dân tộc kiên cường bất khuất, luôn tự hào vì những giá trị cốt lõi của ông cha để lại. Chúng ta nên đánh vào điểm đó như sản phẩm “Cao Sao Vàng” từ logo cũng ta đã thấy hình ảnh lá cờ Việt Nam lấp ló với một ngôi sao vàng chính giữa và một vòng tròn đỏ bên ngoài rất thu hút người Việt mỗi khi nhìn thấy. Chúng ta có thể áp dụng những đặc điểm này vào các chiến lược marketing rất hiệu quả chẳng hạn như giới thiệu những nét đẹp làng quê Việt Nam với bạn bè quốc tế, khẳng định chủ quyền Việt Nam với mọi người. Và lưu ý thật kỹ đừng phạm vào những sai lầm khi đụng đến sự tự tôn của bất kỳ dân tộc trên quốc gia nào như nhãn hàng “BurgerKing” đã sai lầm khi quảng cáo 17
- ăn burger bằng đũa nó đã nỗi lên 1 làn sóng phẫn nộ và tẩy chay ở thị trường Châu Á vì hành vi đó là hành vi phân biệt chủng tộc. Một nhãn hàng lớn khác như “H&M” đã sử dụng bản đồ có “đường lưỡi bò” cũng nhận được rất nhiều sự chỉ trích của những quốc gia có lãnh thổ trong bản đồ này. Nên cân nhắc thật kỹ khi đưa ra sản phẩm hay quảng cáo nào đó ở những nơi có nền văn hoá đa dạng và đặc biệt o) PHONG CÁCH VÀ LỐI SỐNG: Phong cách và lối sống của những người có điều kiện và những người không có điều kiện được phân chia và có sự khác biệt rõ ràng. Không những vậy phong cách và lối sống còn dựa trên nhiều yếu tố khác như đặc điểm dân tộc,địa lý và khí hậu. Dựa vào nguồn thu nhập để có thể xác định phân khúc và phân chia được các đối tượng cho từng sản phẩm cụ thể phù hợp. Chắc mọi người cũng biết rõ về những thương hiệu xe sang như Audi, BMW, hay Mercedes thường đề cập và hướng tới những khách hàng chủ yếu có nguồn thu nhập cao, hay những giới thượng lưu, doanh nhân giàu có.Phong cách cũng vậy tuỳ những quốc gia mà họ mặc những trang phục khác nhau những người phương Tây thì họ mặc những trang phục hiện đại, những người Ấn Độ thì họ lại thích những trang phục dân tộc của họ. Giới trẻ Việt Nam hiện nay họ ưu chuộng những mặc hàng rẻ, đơn giản, và đa dạng mẫu mã nên rất nhiều Local Brand mở ra để phục vụ cho thị trường này. Những người trung niên thì thích những bộ âu phục cổ điển được cách tân tinh tế nên nhiều nhà may vẫn tồn tại đến bây giờ. Những vùng có núi và những địa hình hiểm trở thì thường xây nhà sàn để tránh thú dữ hoặc những ngôi nhà kiên cố để tránh những thiên tai xảy ra, nên các nhà thầu cần tránh những màu nhà “màu mè”, hiện đại nhưng lại không vững chắc. Khí hậu cũng vậy ở mỗi nơi khác nhau thì có khí hậu khác nhau, những nơi có khí hậu lạnh quanh năm như Bắc Cực thì nên kinh doanh những mẫu áo ấm có thể giữ nhiệt còn khí hậu nóng bức nên cung cấp những mẫu áo mỏng nhưng vẫn đảm bảo chất lượng để ngăn cản những tia UV ở nơi đó. Đây là yếu tố có thể giúp các doanh nghiệp khoanh vùng để tập hợp các khách hàng. p) HÔN NHÂN GIA ĐÌNH: 18
- Đây có lẽ là máu chốt của tất cả tác động trên, là vị trí và có vai trò chiếm ưu thế với mỗi người chúng ta. Tạo ra ý chí, tinh thần và sức mạnh đối với mỗi người, không riêng gì các nhà quản trị. Khi hôn nhân hay trong gia đình đang gặp vấn đề trục trặc thì chắc chắn bạn không bao giờ ngừng suy nghĩ và không thể nào tập trung, và chú ý vô công việc được. Dường như không có năng lượng để làm việc, có thể thấy đây là điều làm tác động đến hiệu quả làm việc. Các doanh nghiệp đã đánh đồng chiến thuật kinh doanh vào hôn nhân. Vì vậy hôn nhân có ảnh hưởng rất lớn vào các nhu cầu trong xã hội.Và để giải quyết những phiền toái do những vấn đề trục trặc về hôn nhân chúng ta nên làm ra nhiều mô hình dich vụ giúp cải thiện tình trạng hôn nhân cũng như tâm trạng, nỗi lo lắng của họ. Các nhu cầu cần có như nhà ở, giường, bàn ghế, tủ đồ, tivi, hay các dụng cụ cần thiết trong nhà.. Ở những nơi dân cư đông và mức độ hôn nhân nhiều thì nên tập trung vào các mặt hàng tả, sữa, những khu nhà trọ, chung cư, bất động sản nên tập trung vào những nơi này. Không những vậy nhà đầu tư cũng nên xây dựng những khu vui chơi cho trẻ có thể tự chơi còn phụ huynh có thể giải quyết tất cả nhu cầu của mình mà vẫn an tâm về con của họ, hoặc những mô hình có thể giúp những phụ huynh có thể vui chơi với con của mình sau một tuần bận rộn và cũng thêm phần gắn bó gia đình hơn. Hoặc những phòng khám tâm lý để cho những người vừa lặp gia đình có thể chia sẽ những áp lực về việc con cái hay những chi tiêu sinh hoạt khi vừa xây dựng tổ ấm của mình, hoặc những người phải chịu áp lực về tình cảm hôn nhân có thể thoải mái chia sẽ lấy lại tinh thần và giải quyết một cách đúng đắn nhất và tránh ảnh hưởng đến công việc cũng như doanh nghiệp mà họ đang làm việc. q) TÔN GIÁO: Trên thế giới có rất nhiều loại đạo nhưng chỉ có 3 đạo chính và phát triển mạnh mẽ là Thiên Chúa Giáo, đạo Phật và đạo Hồi. Dường như tôn giáo 19
- có ảnh hưởng lớn về đạo đức và cách sống từng người, mỗi đạo đều có mỗi quan niệm và con đường dẫn dắt vào đời khác nhau. Hướng tới những điều tốt đẹp và dắt mỗi người trở thành lợi ích hay là chút đóng góp nhỏ trong xã hội. Và điều này cũng thuận lợi cho việc buôn bán cũng như cung cấp, đầu tư của các nhà quản trị. Như bên đạo Phật, vào các dịp lễ lớn như là vào những ngày rằm (15) của những tháng 4, tháng 7 và tháng 10 âm lịch hằng năm cần ăn chay, và cần một số lượng lớn lương thực để nấu, có vài doanh nghiệp lớn có thể đáp ứng nhu cầu này như là “Đà Lạt GAP”, “Orfarm”, “Organica”,… . Hay là trong tháng 12 này, đang cận kề với Giáng Sinh ở bên Thiên Chúa Giáo, các nhà thờ hay nhà dẫn đều chuẩn bị dây đèn màu, xốp, giấy bạc, dây kim tuyến, hay các vật liệu khác, đạo Hồi thì họ phải kiêng rất nhiều món ăn nên những nơi tập trung những người Hồi giáo nên cân nhắc việc bán những món ăn làm từ nguyên liệu cấm của họ như thịt lợn, còn những nơi tập trung đông người Phật giáo như khu vực quận 5, TPHCM thì sẽ tập trung nhiều cửa hàng cung cấp những vật cúng kiến như lư đồng những món ăn thường có trong những nghi lễ như chè xôi, vịt quay, heo quay, v.v Nếu ai nhạy bén, lanh lợi thì đều tìm ra những cơ hội để kinh doanh từ những yếu tố đơn thuần nhất. Bên cạnh cái thuận lợi thì cũng sẽ có những mối đe doạ riêng. Ví dụ trong trong ngành công nghiệp thực phẩm (kinh doanh thức ăn nhanh). Các doanh nghiệp lớn như KFC, Lotteria đều được xây dựng dựa trên tôn giáo hay phong tục của từng vùng, miền. Vì mỗi tôn giáo đều có món ăn kiêng kị khác nhau nên phải biết đáp ứng phù hợp ở từng vùng và từng đối tượng khách hàng. r) Các yếu tố thuộc về hệ thống chính trị, về sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước: 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận quản trị kinh doanh quốc tế: Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đến kinh tế của từng quốc gia cũng như hoạt động kinh doanh của các công ty
24 p | 910 | 122
-
Bài tiểu luận: Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố nhập khẩu, xuất khẩu, đầu tư ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Việt Nam
32 p | 436 | 76
-
Phương pháp nghiên cứu khoa học: Sự tác động của năng lực lãnh đạo đến sự gắn kết của nhân viên
24 p | 258 | 74
-
Đề tài: Sự tác động của giá đất, giá nhà ở tới thị trường bất động sản tại quận Cầu Giấy TP Hà Nội
48 p | 273 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp tỉnh Bến Tre
148 p | 290 | 51
-
Tiểu luận Triết học số 28 - Nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người
35 p | 121 | 19
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tác động của cấu trúc vốn đến giá trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh
205 p | 108 | 17
-
TIỂU LUẬN: sự tác động của môi trường Luật pháp chính trị có ảnh hưởng đến hoạt động Marketing xuất nhập khẩu
7 p | 200 | 13
-
Chuyên đề Nội tiết tố động vật thủy sản: Cơ chế tiết hormon kích dục tố trong cá da trơn (clarias sp.) thông qua sự tác động của tia laser đến huyệt sinh sản
7 p | 170 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam
148 p | 101 | 12
-
Thuyết trình: Giải thích về các hiện tượng thương mại và sự tác động của nó đến hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế dựa trên các lý thuyết về thương mại quốc tế
30 p | 141 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Sự tác động của ERP đến kế toán quản trị tại các doanh nghiệp tại Việt Nam
102 p | 49 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đế thu hút đầu tư của địa phương tại Việt Nam
151 p | 27 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tác động của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên
13 p | 99 | 5
-
Đề tài : « Sự tác động của văn hóa trong LA VIETNAMIENE tới hoạt động kinh doanh của nhà hàng »
15 p | 61 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá tác động của giáo dục đến thu nhập của người lao động Việt Nam năm 2010
141 p | 80 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tác động của FDI đến phát triển kinh tế tỉnh Quảng Nam
31 p | 9 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn