intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2007-2011), và những tác động của nó đến đời sống kinh tế –xã hội

Chia sẻ: Nguyễn Hồng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

583
lượt xem
105
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lạm phát là một hiện tượng thường xuyên trong đời sống kinh tế. Nó biểu hiện cho sự tăng trưởng kinh tế. Khi một nền kinh tế mà không có lạm phát chứng tỏ nền kinh tế đó đang suy thoái. Tuy nhiên nếu lạm phát quá cao cúng sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2007-2011), và những tác động của nó đến đời sống kinh tế –xã hội

  1. TIỂU LUẬN Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2007- 2011), và những tác động của nó đến đời sống kinh tế –xã hội 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Lạm phát là một hiện tượng thường xuyên trong đời sống kinh tế. Nó biểu hiện cho sự tăng trưởng kinh tế. Khi một nền kinh tế mà không có lạm phát chứng tỏ nền kinh tế đó đang suy thoái. Tuy nhiên nếu lạm phát quá cao cúng sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Thực tế trong những năm gần đây chỉ số lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao, lạm phát phi mã. Tháng 7/2011 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 17%. Đây là chỉ số cao nhất châu Á và cao thứ 2 thế giới sau Venezuela. Nó đã gây ảnh hưởng tiêu cực đén đời sống kinh tế xã hội ở nước ta như làm giảm đầu tư, gia tăng chi phí sản xuất, rối loạn thị trường hàng hóa, giảm thu nhập thực tế của người lao động, gia tăng thất nghiệp và tỷ lệ đói nghèo trong cả nước. Chính vì những lý do đó nên em quyết đinh chọn đề tài “ tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2007-2011), và những tác động của nó đến đời sống kinh tế –xã hội” làm đề tài tiểu luận cho môn tài chính tiền tệ. Nhằm tìm hiểu kỹ hơn về tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cùng những ảnh hưởng của nó đến đời sống kinh tế xã hội. Từ đó đư ra những giải pháp cụ thể nhằm kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả. Nhưng do cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn còn nhiều hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận sự chỉ bảo của cô để bài viết của em có thể hoàn thiện hơn. Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn giảng viên Đỗ Thị Thúy Hằng, giảng viên môn tài chính tiền tệ trường đại học Lâm Nghiệp đã tạo điều kiện cho em tieps cận và tìm hiểu đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn cô! 2
  3. PHẦN A. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 1.Khái niệm lạm phát. Tiền giấy là biểu hiện của vàng , thay thế cho vàng trong chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Tiền giấy là vật không có giá trị bản thân mà chỉ có giá trị danh nghĩa. Vì vậy nó không thể tự điều hòa được giữa các chức năng, do đó tiền giấy bị mất giá trở thành một hiện tượng phổ biến và thường xuyên: đó là hiện tượng lạm phát. Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giấy bạc lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết,làm cho chúng bị mất giá dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hóa trong lưu thông không ngừng tăng lên. Lạm phát là hiện tượng kinh tế động gắn liền với sự thay đổi số lượng tiền và chỉ số giá cả và được đo bằng chỉ số giá cả. Nếu giá cả tăng lên, sau đó giữ nguyên trong một thời gian dài được coi là hiện tượng “lạm phát ỳ”. Nếu giá cả giảm xuống liên tục gọi là “giảm phát”. Tuy nhiên tần suất xuất hiện thấp, chủ yếu vẫn là hiện tượng lạm phát. Đây là hiện tượng phổ biến trong lưu thông giấy bạc 2.Nguyên nhân của lạm phát. 2.1 Lạm phát cầu kéo. Các hiện tượng kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn đến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương ứng đã dấn đến lạm phát. Đó là lạm phát do nhu cầu, hay còn gọi là lạm phát cầu – kéo. 3
  4. Nguyên nhân:Tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách ,Tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa. 2.2 Lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát chi phí đẩy là lạm phát do chi phí tăng lên dẫn đến mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát gọi là lạm phát chi phí đẩy. Nguyên nhân của lạm phát chi phí đẩy: có thể là do tăng lương vượt quá mức lao động xã hội, đầu tư cơ bản kém hiệu quả, thẩu chi qua hệ thóng ngân hàng, chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu nhận vốn,nguyên liệu đầu vào của các ssanr phẩm tăng lên,và sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội. 2.3 Lạm phát tiền tệ. Lạm phát tiền tệ là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả của việc tăng thêm tiền với một tỷ lệ cao và một nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất. Nguyên nhân của lạm phát tiền tệ có thể là do chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, do tốc độ tăng của dư nợ tín dụng. Và đặc biệt lạm phát chác chán sẽ sảy ra nếu như ngân hàng trung ương tiến hành in thêm tiền đẻ giải quyết các vấn đề dư nợ trong xã hội. Ngoài ra lạm phát còn chịu ảnh hưởng của hệ thống chính trị không ổn định dẫn đến việc điều hành kinh tế của chính phủ kém hiệu quả. Nhưng vaanns đề quan trọng hơn là dân chung không tin tưởng vào giấy bạc ngân hàng hiện hành người ta tìm đến hàng hóa quý hiếm, ngoại tệ, vàng… để dự trữ giá trị. Vì thế giấy baccj ngân hàng bị đẩy ra lưu thông nhiều hơn và nó mất giá càng nhanh. 3. Phân loại lạm phát. Tùy theo mức độ biểu hiện của lạm phát đối với sự phát triển kinh tế xã hội, lạm phát được chia thành : lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã, và siêu lạm phát. Lạm phát vừa phải là loại lạm phát mà thời điểm xảy ra giá cả hàng hóa so với truocs không cao và tốc độ tăng chậm. Tỷ lệ lạm phát đo được dưới 10% gọi là lạm phát ở muwcsmootj con số. Lạm phát vừa phải có thể là do hiện tượng kinh tế tự nhiên, nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu phát triển kinh tế vvix mô,hoặc là chhinhs phủ duy trì mức lạm phát này 4
  5. với mục dích riêng.và lạm phát vừa phải có tác động tích cực làm cho nền kinh tế năng động hơn. Lạm phát phi mã là lạm phát mà tại thời điểm xảy ra lạm phát giá cả hàng hóa tăng cao với tốc đọ nhanh so với trước. Tỷ lệ lạm phát này ở mức hai hoặc ba con số. Thông thường thì lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Siêu lạm phát : là loại lạm phát mà giá cả của tất cả các loại hàng hóa tăng gấp nhiều lần lạm phát phi mã. Loại lạm phát này có tốc độ tăng rất nhanh, liên tục và không thể kiềm chế được.Nó ảnh hưởng xấu đén sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phá vỡ hầu hết các quan hệ cân đối kinh tế quốc dân. Nếu không có những giải pháp đột phá thì không thể khắc phục được tình trạng siêu lạm phát này. 4. Các ảnh hưởng của lạm phát Tích cực: đói với lạm phat ở mức vừa phải lạm phát một con số nó sẽ làm cho nền kinh tế năng động hơn, làm kích thích xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy tiết kiệm sản xuất và tiêu dùng. Ngoài ra theo J.M Keynes thì chính phủ có thể chấp nhận mức lạm phát vừa phải để gải quyết tình trạng thất nghiệp. Tiêu cực: Nhìn chung thì lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nó làm giamr thu nhập thực tế ccuar gười lao động, tác động đến quyền lợi của ngươi đầu tư dài hạn, làm giản sức hút đầu tư. Tác động tiêu cực tới sản xuất và lưu thông hàng hóa và chế độ tiền tệ tín dụng 5. Các biện pháp kiềm chế lạm phát. Sử dụng chính sách tiền tệ chặt. Ngừng phát hành tiền vào lưu tang5, tang lãi suất tiền gửi, cắt giảm chi tiêu công,Bán ngoại tệ vàng để thu hút bớt tiền từ luu tang5, giảm thuế nhập khẩu khuyến khích tự do mậu dịch nhằm tang quỹ hàng hóa tiêu dùng, vay và xin viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có những biện phap lâu dài mang tính chiến lược nhằm kiềm chế lạm phát lâu dài: đó là việc xây dựng một kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế đất nước hợp lý. Xây dựng ngành sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.giẩm nhẹ và kiện toàn bộ máy nhà nước… 5
  6. B LIÊN HỆ Ở VIỆT NAM I.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THƠ Ì GIAN QUA Trong 36 năm qua (tính từ năm 1976), lạm phát tại Việt Nam chỉ có 1 năm giảm (2000), 12 năm tang 1 chữ số, 20 năm tang 2 chữ số, 3 năm tang 3 chữ số. 1.Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong quá khứ. Thời kỳ 1976-1985, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng rất cao. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế tăng trưởng chậm, có năm bị giảm, làm mất cân đối cung cầu (thiếu cung),tiền nhiều hơn hàng. Thời kỳ 1986-1991, lạm phát phi mã, trong đó 1986-1988 tăng tới 402,1%/năm. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng. Có một nguyên nhân quan trọng là việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều. Thời kỳ 1992-1995, lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với các thời kỳ trước. Nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng (tăng trưởng kinh tế 1991-1995 đạt 8,2%/năm, đặc biệt lương thực vượt nhu cầu trong nước, đã có xuất khẩu với khối lượng lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: đối với ngân sách thì thu lấy mà chi; đối với ngân hàng thì vay lấy mà cho vay-có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt. 6
  7. Thời kỳ 1996-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp (mặc dù năm 1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực, với tỷ giá năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6% và giá lương thực tăng 23,1%, giá thực phẩm tăng 8,6%. Nhưng nhìn chung cả thời kỳ này đã có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp; giá lương thực, thực phẩm giảm hoặc tăng thấp. Thời kỳ từ 2004 đến nay là thời kỳ lạm phát cao trở lại,cùng với sự bùng nổ của kinh tế thế giới và sự tăng giá của nhiều mặt hàng, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn. Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 tăng 6,6%. 2. Thực trạng lạm phát ở 25 Việt Nam trong giai đoạn 19,89 20 gần đây (2007-2011) 15,68 1 2,63 15 11,75 Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 10 6,8 12.63% và đặc biệt tăng cao vào 5 những tháng cuối 0 Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007-2011 năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%. Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.8%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều. Năm 2010 chỉ số CPI tiếp tục tăng lên đến 11.75% vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%.. 7
  8. Sau 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát cũng đã ở mức 9,64% so với 31-12- 2010 (sau khi đã tăng tới 19,98% vào năm 2008; 6,88% năm 2009 và 11,75% năm 2010, tức là, nếu tính dồn tích 3 năm lạm phát lên tới 43,3%). CPI đến tháng 6-2011 đã là 13,29%, tháng 8-2011 là 15.68% nên để đạt mức chỉ tiêu cả năm của Chính phủ là 15%, không còn khả thi.Nhiều ý kiến cho rằng lạm phát năm nay phải cỡ 17-18%. Cuối năm thường CPI tăng mạnh. Ta có kiên quyết thực hiện nghị quyết 11 nhưng CPI tháng 6 chỉ dịu hơn, nó chưa hề giảm mà chỉ giảm tốc độ tăng thôi. 3. So sánh tình hình lạm phát ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.: Lạm phát ở Việt Nam trong những Chỉ số lạm phát của một số nước năm gần đây luôn ở mức cao so với trên thế giới thế giới.Theo thông tin từ bộ tài chính. Nếu xét trong khu vực ngoại Nhật Châu Âu trừ năm 2009, từ năm 2007-2010 tỷ Mỹ lệ lạm phát của vệt Nam luôn cao Thái Lan hơn các nước trong khu vực. Năm Hàn Quốc 2010, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam là Trung Quốc Inđonêxia 11,75%, cao gấp 1,5 lần tỷ lệ lạm Ấn độ phát ở Ấn Độ; gấp hơn ba lần tỷ lệ Nga lạm phát ở Trung Quốc và gấp tám Mozambique lần của Thái Lan. Viet nam venezuela Tháng 4/2011 Việt Nam đươc nhận 0 10 20 30 40 định là quốc gia có tỷ lệ lạm phát đứng thứ hai thế giới chỉ sau Venezuela. Việt Nam có chỉ số lạm phát đứng thứ 2/70 nền kinh tế lớn trên thế giới. Vào tháng 5/2011 Liên hợp quốc từng nhận định Việt Nam là một trong 5 quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới. Theo ADB mức lạm phát ở Việt Nam 6 tháng đầu năm 2011 là 20.8% so với cung kỳ. Đây là mức lạm phát cao nhất trong 14 nền kinh tế Đông Nam Á mà ADB tiến hành khảo sát. Cao gấp đôi so với nước đứng thứ hai là Lào. II. NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM. 8
  9. Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác. 1.Lạm phát tiền tệ . Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP. Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn là vàng và ngoại tệ. Ngoai ra vào năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và cả những năm sau cũng là nguyên nhân gây nên lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2. Lạm phát do nhu cầu tiền tăng -Bội chi ngân sách: cũng là một trong những nguyên 9
  10. nhân gây nên tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm 2007 đến nay ở mức cao năm 2007 bội chi ngân sách ở mức 5%GDP, năm 2008 là 4,95%GDP,tăng mạnh vào năm 2009 là6,9%GDP tuy đã có xu hướng giảm xuống trong năm 2010, nhưng vẫn thuộc loại cao 6,2%. Làm tăng nhu cầu về tiền trên nền kinh tế làm mất cân đối quan hệ cung cầu về tiền tệ, làm sụt giảm giấ trị đồng tiền. - Đầu tư chưa hiệu quả: Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã “đề nghị xem xét lại đầu tư công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội”. Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009 chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án đầu tư công dường như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, cầu cống, sân bay, hải cảng… là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn ở Việt Nam hiện nay đó là các dự án đầu tư công đang dàn trải, không có định hướng quy hoạch cụ thể. Các dự án đòi hỏi đầu tư với lượng vốn lớn nhưng hiệu suất sử dụng thu về thì không nhiều. Điều này tạo ra một sự mất cân đối trong nền kinh tế, khiến thâm hụt ngân sách của nước ta hàng năm tăng cao trong khi đó bộ mặt của nền kinh tế không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt. 3) Lạm phát do chi phí tăng (lạm phát chi phí đẩy) Giá cả thế giới tăng là một trong nhũng yếu tố quan trọng gây nên lạm phát xet trên nhũng góc độ khác nhau. Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)-tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới-nên biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác. Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VNĐ tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VNĐ tăng.Đặc biệt giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước. Giá xăng trong nước lien tục tăng cao. Gần đây nhất trong năm 2011 giá xăng đã hai lần tăng giá. Mở màn là đợt tăng giá ngày 24/2/2011 giá xaawng tăng lên 19300đ/lit, tiếp sau đó chỉ 10
  11. sau vài tháng giá xăng tiếp tục tăng lên 21300đ/lit. thêm vào đó sau cúhuých từ việc tăng giá xăng thì thị trường Việt Nam còn phải chịu thêm gánh nặng từ quyết định tăng giá điện của ngành điên từ tháng 3/2011. Với việc hai nguồn nguyen liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá thì việc các loại hàng hóa trong xã hội dần dần tăng giấ là điều không tránh khỏi. 4. Nguyên nhân khác: -Yếu tố tâm lý của dân cư: Là một nguyen nhân không kém phần quan trọng gây nên lạm phát ở Việt Nam đó là yếu tố của người tiêu dùng hay đúng hơn là lòng tin vào VNĐ của chính người Việt. Sức mua của đồng Việt Nam giảm sút nhanh ccangf khiến cho người dân hướng tới vàng và dola như một phương tiện cất trữ tài sản. Tâm lý đó góp phần đẩy giá vàng và dola lên cao đồng thời ngày càng làm mất đi giá trị VNĐ. Vòng luẩn quẩn áy làm cho tình hình lạm phát ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng hơn. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2011, Việt Nam đồng đã mất giá 8.5%. Đặc biệt, ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định phá giá thêm tiền đồng, một đôla nay đổi được 20.900 VNĐ, theo tỷ giá hối đoái chính thức trong khi giá chợ đen lên tới khoảng 21.500 VNĐ. Và trong vòng một tuần qua giá vàng thì lên cao đột biến, đạt mức hơn 44 triệu một lượng trong tháng 10 năm 2011.. Do thiên tai,dịch bệnh: Biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Trong những năm gần đây Việt Nam luôn phải hứng chịu những cơn bão lớn với sức tàn phá hết sức nặng nề ảnh hưởng đến tình hình sản xuất ở nhiều vùng. Gần đây nhất cơn bão số 6 vào tháng 10/2011 dã phá hoại hơn 6000ha lúa ở đồng bằng sông cửu long làm thiếu hụt lương thực đẩy giá lúa gạo tăng cao. Đồng thời cùng vói sự phát triển nhanh chóng của dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm như dịch H5N1 ở đàn gia cầm, dịch long móng lở mồm ở đàn gia súc…cũng góp phần làm cho giá cả hàng hóa tang mạnh vào thời gian gần đây. Hiệu ứng của việc tăng lương tối thiểu: trong nhưng năm gần đây múc lương tối thiểu lien tục có sự điều chỉnh. Năm 2008 tăng mức lương tói thiểu 20% so với năm 2007. Năm 2009 tăng 5% lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng. Năm 2010 tiếp tục điều chỉnh mức lương cho lao đọng Việt Nam làm việc tại cac doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đòng thời tiếp tục tăng 12,9%lương hưu và trợ cấp xã hội…Việc điều chỉnh mức lương tói thiểu nhằm đảm bảo và nâng cao cuộc sống cho người lao động.tuy nhiên việc tăng lương cũng làm cho nhiều mặt hàng có xu hướng tăng theo,đây là vấn đề mà chính phủ cần nghiên cứu kỹ khi tăng lương để đảm bảo việc tăng lương đạt hiệu quả thực sự. 11
  12. Tác động của khủng hoang kinh tế tài chính thế giới2007-2008: Cuộc khủng hoảng đến từ nước Mỹ, tiềm ẩn từ cuối năm 2007, bùng phát vào cuối năm 2008. Nó xảy ra trong điều kiện Việt Nam vừa ra nhập WTO từ đầu năm 2007. Nó làm cho Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD năm 2008 còn 21,5 tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách quốc tế giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều hối giảm từ 7,2 tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh,...Làm gia tăng tình trạng lạm phát ở Việt Nam. Tốc độ tăng giá tiêu dùng ccao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát năm 2008 đã tăng tới 19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%) đòng thời cũng ảnh hưởng tới tình hình lạm phát các năm sau. III. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN TÌNH HÌNH KINH TẾ -XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOAN HIỆN NAY. 1. tác động đến đâù tư Từ năm 2007 đén nay lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 tăng 17.75% so với cùng kỳ năm ngoái. Lạm phát ccao và kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây nhiều tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống người dân. Lạm phát cao là một trong những biểu hiện của bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến khích và thu hút đầu tư;làm cho môi trường kinh doanh nước ta kém cạnh tranh hơn so với các nước khác. Lạm phát cao và biến đọng llieen tục đã lam gia tang chi phi sản xuất , giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nói chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà có thể phải cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện hành để đối phó với lạm phát cao. Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ bằng 52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã giảm đáng kể. Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động 12
  13. mất hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức độ ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa làm xói mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn. Mặt khác khi sảy ra lạm phát nhà nước ta thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng việc sử dụng các công cụ tiền tệ, qua các công cụ như lãi suất,hạn mức tín dụng,tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tất cả các công cụ đó đều làm giảm đầu tư. Đặc biệt là công cụ lãi suất khi lạm phát xảy ra Ngân hàng Nhà Nước sẽ quyết định tăng lãi suất kể cả lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm kiềm chế lạm phát.Trong giai đoạn hiện nay lãi suất ngân hàng liên tục tăng cao, cả lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay có nhũng lúc lãi suất tiền gửi lên đến 14,69%. Một mặt lãi suất tiền gửi tăng lên để thu hut tiền nhàn rỗi trong dân cư, nhằm giảm mức cung tiền ra thị trường để cân bằng quan hệ cung cầu tiền tệ. Tuy nhiên việc tăng lãi suất tiền gửi cũng góp phần làm giảm đầu tư do người dân muốn an toàn nên không mạo hiểm đàu tư mà đem tiền gủi ngân hàng để hưởng lãi suất cao. Đồng thời lãi suất tiền vay tăng lên làm chi phí sản suất cao lên giảm lợi nhuận của doanh nghiệp qua đó làm giảm đầu tư. 2. Tác động đến hoạt động của ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, 13
  14. rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi. Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể kềm chế lạm phát. 3. Tác động đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. Lạm phát làm cho giá cả nguyên vật liệu liên tục tăng, đẩy chi phí đầu vào cho sản xuất lên cao, khiến cho các doanh nghiệp điêu đứng. Theo khảo sát của VCCI, trong 6 tháng đầu năm 2011, tới 44% số doanh nghiệp có lợi nhuận /đơn vị sản phẩm giảm, 64% cắt giảm dự án, 36,7% phải thu hẹp sản xuất. Và theo số liệu của hội doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam, hiện có khoảng 75% doanh nghiệp khát vốn, 70% doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản cao. Do thiếu nguồn vốn vì nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ giảm đầu tư kiềm chế lạm phát, và sự tăng lên cuaủa nggguyên liệu đầu vào. Giá xăng dầu thế giới tăng kéo theo sự tăng giá của xăng dầu trong nước. Tính từ năm 2008 đến nay giá xăng dầu nhập khẩu tăng 61,8%, giá thép tăng 19,8%, cấc mặt hàng xây dựng tăng 14,34%, cung với đó giá điện trong những năm gần đây cung liên tục tăng nhanh dã tăng 80% so với năm 2008. 14
  15. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của lạm phát. Giá xăng dầu tăng làm cho chi phí phay, phụt ….cũng tăng theo. Giá giống cũng tăng từ 20- 30%. Tăng mạnh nhất là giá phân bón, so với cùng kỳ năm 2010 giá phân bón nhiều loại tăng từ 50-100%. Năm 2011 giá một bao phân DAP loại 50kg là 940000VNĐ, phân Ure là 630000VNĐ. Trong khi đó giá phân Ure năm 2010 là 400000VNĐ/bao, giá phân DAP cũng chỉ bằng một nửa gía năm 2011. Trong lĩnh vực lưu thông do cơn bão giá nên sức mua của người tiêu dùng giảmđã ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của các doanh nghiệp . Tâm lý người tiêu dùng trong cảnh lạm phát này là hạn chế chi tiêu, cắt giảm các mặt hàng không cần thiết nhất là hàng hóa xa xỉ,tăng giá nhiều lần làm tăng lượng hàng tồn kho, mất cân bằng quan hệ cung cầu trên thị trường hàng hóa. Đồng thời cũng lợi dụng trong cơn bão giá nhiều đối tượng tăng đầu cơ tích trữ gây dối loạn thị trường hang hóa. 4. Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế của người tiêu dùng, tăng tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam Trong thời kỳ lạm phát mặc dù tiền lương tối thiểu tăng lên nhưng thu nhập thực tế của người lao động không được cải thiện, thậm chí còn giảm. Trong hahi năm vùa qua lạm phát làm cho thu nhập thực tế của người lao động mất hơn 20%. Kết quả khảo sát tại hà nội cho thấy vào thang 8/2010 thu nhập của người lao động khi tăng ca trung bình từ 2-2,4 triệu/ tháng (bao gồm cả tiền lương cơ bản, tiền tăng ca và phụ cấp các loại). Vvoiws thu nhập này trừ đi 1-1,2 triệu tiến sinh hoạt hàng tháng, 350000 đến 400000 ngàn tiền thuê nhà thí người lao động còn từ 600 ngàn đến 800 ngàn tiền để dành. Vào tháng 8/2011toongr thu nhập của người lao động đã tăng lên hơn 3 triệu/tháng. Nhưng tiền nhà đã tăng lên gấp đôi và tiền sinh hoạt cũng tăng lên gấp dưỡi từ mức 1.8 đến 2,2 triệu đồng/tháng nên số tiền mà người lao động có thể để dành cũng không cao hơn năm 2010 thậm chí còn giảm đi. Trước sức ép của giá cả tăng lên thu nhập và chi tiêu. Nhiều người lao động ở địa phương phải bỏ việc làm ở khu vực chính thức sang khu vực phi chính thức với thu nhập cao hơn. Về lâu dài lạm phát có khả năng sẽ cho nhiều hộ gia đình quay trở lại tình trạng đói nghèo. Ví dụ các nghiên cứu về tác động lạm phát năm 2008,, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao đé 19,9% cho thấy tỷ lệ hộ nghèo tăng lên 2,1%. Tỷ lệ nghèo giảm chậm trong năm 2006-2008 chỉ được 1,5% so với 3,55 năm 2004-2006 và 19,5% các 15
  16. năm 2002-2004. Nếu chúng ta tiếp tục chứng kiến lạm phát kéo dài và tốc độ tăng trưởng thấp hơn thì Việt Nam sẽ có khả năng một lần nữa phải đối mặt với tỷ lệ đói nghèo và thất nghiệp như đã từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 1.Các biện pháp chính phủ thực hiện. Thứ nhất là tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng tăng trưởng,sức cạnh tranh của nền kinh tế, và đặc biệt là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Thứ hai, kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm chống chế tổng cầu của nền kinh tế mà nghị quyết 11/NQ-CP đề ra. Cần tiếp tục đẩy mạnh chính sách tài khóa cũng như chính sách tiền tệ thắt chặt vì nó đã,đang và vẫn thể hiện được vai trò quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. Thứ ba, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết là mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thông hợp lý, tránh chi phí lưu thông tăng cao. Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế…cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường,giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy tăng giá Thứ tư thường xuyên kiểm tra, kiểm soát thị trường,ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, dầu cơ găm hàng thao tún thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện các biện phapsquanr lý thị trường vàng, thị trường ngoại hoối. Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường;tiếp tục có lộ trình thích hợp đẻ xoaas bao cấp qua giá đối với các loại hàng hóa và dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch… đồng thời,cần có những giải pháp hỗ trợ hợp lý đối với những ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với người nghèo,người có thu nhập thấp, thực hiện các chính sách an ninh xã hội. 16
  17. Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường, củng cố lòng tin của dân chúng vào thị trường tiền tệ trong nước. 2.Đánh giá các biện pháp. Các biện pháp mà chính phủ đưa ra đều là những biện pháp mang tính tích cực cao. Đặc biệt là nghị quyết số 11 của chính phủ về vấn đề kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên trên thực tế các biện pháp vẫ chua đemm lại kết quả như mong muốn. Tỷ lệ lạm phát ở nước ta trong 6 năm trở lại đây vẫ ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ lạm phat thnags 4/2011 ở trung quốc là 4,9% so với cung kỳ năm ngoái, còn ở thai Lan là 3,1%. Trong khi đó ở Việt Nam là 17,5% chỉ đứng sau Venezuela (26,9%). Sở dĩ như vậy là do tuy chính sách của chính phủ khá khả thi nhưng do khâu quản lý còn yếu nên vieeck thực hiện chính sách xuống đến địa phương là chưa có tác dụng đáng kể. Ví dụ như về việc thực hiện nghi quyết số 11 có giải pháp là cắt giảm đầu tư. Tuy nhiên tai các địa phương các nghành vẫn khởi công mới hơn 5000 dự án mới vowiis số vốn được phân bổ hơn 22 nghìn tỷ đồng. Vốn đầu tư phát triển trong 4 tháng đầu năm nay vẫn tăng hơn 18% so vơi cùng kỳ năm ngoái. Các giải pháp được thực hiện cho đến nay vẫn mang nặng tính hành chính, ngắn hạn và tình thế. Nên chưa hướng đén giải quyết nguyên nhân cơ bản của lạm phát. 3.Đề suất của bản thân trong vấn đề kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Lạm phát đã, đang và sẽ là một bài toán nan giải cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Theo tôi để giải được bài toán lạm phát ngoài những biện pháp mà chính phủ nêu ra ở trên tôi cũng xin đưa ra một vài kiến nghị của bản than về các biện pháp kiềm chế lạm phát. Một là: biện pháp trước mắt Cắt giảm chi tiêu công một cách hợp lý. Nhà nước cần quản lý hiệu quả hơn các công trình đầu tư công của nhà nước, đảm bảo tính hiệu quả của các dự án đầu tư. Tránh hiện tượng các dự án treo gây lãng phí trong xã hội.Đồng thời nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn thi trường tự do, kiểm soát việc tăng giá của các mặt hàng, đặc biệt là mặt hàng thiết yếu. Tránh việc các thương nhân tự ý tăng giá. Hai là; biện pháp chiến lược. 17
  18. - Như đã phân tích ở trên một nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng lạm phát ở Việt Nam là do đầu tư quá ồ ạt, trong khi cơ sở hạ tầng của nước ta chư đáp ứng kịp và lực lượng lao động trình độ cao còn it. Chính vì vậy theo tôi một trong những chính sách lâu dài là cần đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng một cách hợp lý. Đồng thời coi trọng hơn nữa vấn đề phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn lao động trực tiếp sản xuất chất lượng cao. - Tập trung vào sức phát triển sản suất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Xây dựng các ngành sản xuất hàng hoá mũi nhọn, thường xuyên cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện ddaihj vào lĩnh vực sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng nguồn cung hàng hóa, đảm bảo cân đối quan hệ cung cầu trên thj trường hàng hóa - Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản suất và tiêu dùng tránh tình trạng lãng phí trong các cơ quan, đơn vị đặc biệt là các cơ quan, đơn vị nhà nước. Cần kiểm tra chặt chẽ, thường xxuyeen hơn hoạt động của các donh nghiệp nhà nước. Tránh tình trạng phung phí của các doanh nghiệp nhà nước. 18
  19. KẾT LUẬN Lạm phát tuy là một vấn đề thường xuyên của đời sống kinh tế. Nhưng lạm phát cao sẽ gây những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là lạm phát cao và liên tục tăng từ năm 2007 đến nay lạm phát luôn ở mức hai con số (trừ năm 2009), gây ảnh hưởng xấu tới mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội. Lạm phát làm giảm thu hút đầu tư, tăng tỷ lệ thất nghiệp, tăng bội chi ngân sách,giảm thu nhập thực tế của ngưởi lao động, làm rối loạn thị trường hàng hóa và tiền tệ… nó dang là một vấn đề nhức nhối, một bài toán khó trong quản lý kinh tế vĩ mô. Chính vì vây các nhà lãnh đạo cần nắm bắt được chính xác tình hình lạm phát để tìm ra những biện pháp cụ thể,thiết thực và phù hợp để giải quyết bài toán khó này. TAÌ LIỆU THAM KHẢO 1. Ttrang web: mof.gov.vn bộ tài chính 2. Dangcongsan.vn báo điện tử Đảng Cộng Sản 3. Vneconomy.vn 4. Tuoitre.vn báo tuổi trẻ online 5. Dantri.com 6. Kinhtevadubao.vn 7. Gso.gov.vn tổng cục thống kê 8. Chinhhphu.vn 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1