intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 4 - Quy luật quan hệ sản xuất

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

876
lượt xem
74
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, quy luật quan hệ sản xuất, quy luật quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 4 - Quy luật quan hệ sản xuất

  1. A. LỜI NÓI ĐẦU Quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ  phát  triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc  xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự  mâu thuẫn hay phù hợp giữa  quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất đều có  ảnh hưởng rất lớn tới   nền kinh tế. Sự  tổng hoà mối quan hệ  giữa lực lượng sản xuất và quan  hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo  theo một quan hệ sản xuất phát triển.  Nói cách khác quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với tính chất và  trình độ  của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để  phát triển  một nền kinh tế.  Do vậy, nghiên cứu  về  quy luật này sẽ  giúp cho mỗi sinh  viên   chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có thêm những hiểu biết ban   đầu và sâu sắc hơn về sự  phát triển của nước ta cũng như  trên thế  giới;   hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần   nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
  2. B. NỘI DUNG I. ĐẶT VẤN ĐỀ Với tính cách là phạm trù của chủ  nghĩa duy vật lịch sử  phương   thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất   vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới   sự  vận động của lịch sử  loài người, cũng như   sự  vận động của mỗi xã  hội cụ thể, sự thay đổi về  phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự  thay  đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã  hội được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ  nó người ta có thể phân biệt được sự  khác nhau của những thời đại kinh  tế  khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự  thống nhất giữa lực   lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.   Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình  độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế  nhưng hơn thế  nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ  đời sống xã hội của lịch  sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự  tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của phương thức sản xuất  và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống xã hội. Với những lý do trên, quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với tính  chất và trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to  
  3. lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản,  nhận biết được một quan hệ  sản xuất có phù hợp với tính chất và trình  độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ thuộc  vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân. Với những chính  sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng  và Nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế  nhiều thành phần đã phát  triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển   thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh   tế  nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu   vực và trên thế giới.  II­ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ A/ KHÁI NIỆM VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT:  1/ Lực lượng sản xuất:  Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất  và kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực  lượng  sản xuất biểu hiện mối quan hệ  giữa con người  với tự  nhiên.  Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người chinh phục  tự  nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình sức mạnh đó được chủ  nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình  độ  lực lượng sản xuất  biểu hiện trình độ  chinh phục tự  nhiên của con   người. Lực lượng sản xuất  nói lên năng lực thực tế của con người trong  
  4. quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự  phát triển của   con người. Lực lượng sản xuất  bao gồm người lao động và kỹ năng lao động  và tư  liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ  lao động tác động  vào đối tượng lao động để  tạo ra của cải vật chất thì tư  liệu lao động  được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu   lao động tức là tất cả  các yếu tố  vật chất mà con người sử  dụng để  tác  động vào đối tượng lao động thì công cụ  lao động là yếu tố  quan trọng  nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ  tin  học hoá được tự  động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong  mọi thời đại công cụ  sản xuất luôn là yếu tố  đông nhất của lực lượng   sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó  đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ  phát triển công cụ  lao động là thước đo trình độ  chinh phục tự  nhiên của  con người. Có thể  coi yếu tố  quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất   chính là con người. Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới  mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản   xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là   ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố  cấu thành lực lượng   sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.  Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản  xuất nó hoàn toàn có thể  coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện   đại. 2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất: 
  5. Để  tiến hành quá trình sản xuất, nhất định con người phải có mối   quan hệ  với nhau. Tổng thể  những mối quan hệ  này gọi là quan hệ  sản   xuất. Nói cách khác quan hệ  sản xuất là quan hệ  giữa người với người   trong sản xuất.  Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay không cũng  buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động  sản xuất cũng như  kết quả  lao động những quan hệ  sản xuất này mang   tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được  hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ  ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề  có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.  Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc  vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính  vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ  sản xuất là hình thức xã hội của   lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.  Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:  ­ Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với   tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định  bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở  hữu. trong hệ thống các quan hệ  sản xuất thì quan hệ  sở  hữu về  tư  liệu   sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã hội khác. ­ Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ  giưã người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải.   Trong hệ thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý  sản xuất là các quan hệ có khả  năng quyết định một cách quy mô tốc độ 
  6. hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ  quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu  ảnh hưởng tiêu   cực đến kinh tế xã hội.  ­ Quan hệ  phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ  chặt chẽ  với nhau cùng mục tiêu chung là sử  dụng hợp lý và có hiệu qủa tư  liệu   sản xuất để  làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái  sản xuất mở  rộng nâng cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các   quan hệ  về  mặt tổ  chức quản lý, trong hệ  thống quan hệ  sản xuất, các  quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý  nghĩa hết sức to lớn đối với sự  vận động của toàn bộ  nền kinh tế. Quan   hệ  phân phối có thể  thúc đẩy tốc độ  và nhịp điệu của sản xuất nhưng  ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã   hội Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính  chất sở  hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác  trong mỗi hình thái kinh tế  xã hội nhất định quan hệ  sản xuất thống trị  bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ  sản xuất khác, ít nhiều cải   biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà phục vụ đắc lực cho  sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.  B/ QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT  VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT:  1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:  a/ Tính chất:
  7. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất   và lao động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình  độ  phổ  thông, lực lượng sản xuất chủ  yếu mang tính chất cá nhân. Khi   trình độ  sản xuất đạt tới trình độ  cơ  khí hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi  phải được vận động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn  hoá. Tính chất tự  cấp tự  túc cô lập của nền sản xuất nhỏ  lúc đó phải  được thay thế bởi tính chất xã hội hoá. b/ Trình độ của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là yếu tố  có tác dụng quyết định đối với sự  phát triển của phương thức sản xuất: Trình độ  của lực lượng sản xuất   trong từng giai đoạn của lịch sử  loài người thể  hiện trình độ  chinh phục  tự  nhiên của loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ  của lực  lượng sản xuất nói lên khả  năng của con người thông qua việc sử  dụng  công cụ  lao động thực hiện quá trình cải biến tự  nhiên nhằm đảm bảo  cho sự  sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ  lực lượng sản xuất thể  hiện ở:  Trình độ  công cụ  lao động, trình độ  quản lý xã hội trình độ  ứng   dụng khoa học kỹ  thuật vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ  năng của con   người và trình độ phân công lao động.  Trên thực tế  tính chất và trình độ  của lực lượng sản xuất không  tách biệt nhau             2/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình   độ phát triển của lực lượng sản xuất: Quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương  thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất biểu hiên mối quan hệ  mang tính chất biện chứng. Chính sự 
  8. thống nhất và tác động giữa quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất đã  hình thành nên quy luật về  sự  phù hợp giữa quan hệ  sản xuất với tính  chất và trìng độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.  Ngược lại quan hệ  sản xuất thường có tính  ổn định trong một thời gian   dài.  Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:  ­ Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không   ngừng tích luỹ và tăng lên.  ­ Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng   sản xuất trực tiếp.  ­ Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể  sản xuất được.  Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới   hạn nhất định sẽ  đặt ra nhu cầu xoá bỏ  quan hệ  sản xuất cũ và hiện có.  Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới   cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự  ra   đời của một phương thức sản xuất mới. Những quan hệ sản xuất cũ và  hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác,  phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm  hãm sự  phát triển đó. Đó cũng chính là nội dung quy luật về  sự phù hợp  của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản  xuất. Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể  phát triển   khi có một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản  
  9. xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản   xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng   còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn  được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai   lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ  sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá   hoại đối với lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực   lượng sản xuất đối với quan hệ  sản xuất song nó cũng chỉ  rõ rằng quan  hệ sản xuất  bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng   sản xuất. Quan hệ  sản xuất tác động trở  lại lực lượng sản xuất , nó là  yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù   hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ  ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt   động, cũng như  đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy   tính tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố  quan trọng và quyết định   trong lực lượng sản xuất.  Sở  dĩ quan hệ  sản xuất có thể  tác động mạnh mẽ  trở  lại đối với  lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ  thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội  quy định phân phối và phần của  cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những   điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế  sự  phát triển của công cụ  sản  xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.  
  10. C/ SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA CÔNG TY BÊ TÔNG VÀ XÂY  DỰNG VĨNH TUY VÀO SẢN XUẤT: Trước yêu cầu đổi mới để  phát triển , đồng thời nhằm cải thiện  điều kiện sống và làm việc cho CNLĐ, năm 2002, Cty đã đầu tư trên 11 tỉ  đồng để trang bị các dây chuyền sản xuất hiện đại có công suất cao như  dây chuyền bê tông thương phẩm, máy trộn bê tông 120m3/giờ, 10 xe trộn  bê tông thương phẩm 6,5m3/xe, dây chuyền sản xuất ống cống li tâm. Cty  đầu tư  cho Xí nghiệp Cơ  khí Vận tải hệ  thống máy cắt dập tôn làm  khuôn và hộp đầu cọc. Hiện tại CTy đã tự sản xuất hộp đầu cọc các loại.   Dự kiến năm 2003, CTy sẽ đầu tư thêm một máy trộn bê tông 120m3/giờ  và dây chuyền sản xuất cọc ống bê tông ứng xuất trước.  Trong bộn bề  lo toan cùng chuyên môn nâng cao chất lượng sản  phẩm để  khẳng định vị  thế, tạo công ăn việc làm cho NLĐ, BCH Công  đoàn vẫn làm tốt chức năng bảo vệ  quyền lợi hợp pháp chính đáng của  NLĐ. Công đoàn phối hợp với chuyên môn thực hiện mọi chế  độ  chính  sách đối với NLĐ như  ký TƯLĐTT, đóng BHXH, BHYT, đảm bảo tiền   lương , tiền thưởng kịp thời, công bằng.  Hàng năm CNLĐ được trang bị  BHLĐ, được khám sức khoẻ  định kỳ, có y tế  theo dõi sức khỏe thường   xuyên, được giao lưu văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan , nghỉ  mát... Ngoài ra Công đoàn còn tổ  chức nhiều đợt tuyên truyền giáo dục  phòng chống ma tuý và các TNXH trong CNVC­LĐ; vận động CNVC­LĐ  xây   dựng   nếp   sống   văn   hoá   công   nghiệp,   xây   dựng   gia   đình   văn   hoá  mới…. Hiện Cty đang hoàn thiện nhà ăn tập thể  ( tháng 1­2003 đưa vào   sử  dụng) phục vụ  bữa ăn giữa ca cho trên 300 CNLĐ; nâng cấp toàn bộ  nhà điều hành cũng như  nhà nghỉ  trưa cho công nhân. Chính vì vậy NLĐ 
  11. yên tâm công tác và gắn bó với công ty. Công đoàn CTy được LĐLĐ thành  phố  Hà Nội tặng bằng khen đã có thành tích tốt trong công tác vận động   tổ chức phong trào thi đua, năm 2002 là Công đoàn vững mạnh xuất sắc.(1)
  12. III/ KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP  1/ KẾT LUẬN:  Quy luật của quan hệ  sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên  không phải bất cứ lúc nào cũng có sự  phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt  tốt quy luật chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật  quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy luật  phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển   đi lên của lịch sử  loài người từ  chế  độ  công xã nguyên thuỷ  qua chế  độ  chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã  hội cộng sản tương lai là do sự  tác động của hệ  thống các quy luật xã  hội, trong đó quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển  của lực lượng sản xuất là quy luật cơ  bản nhất. Lực lượng sản xuất là  nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường có  tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi   cho phù hợp. Nếu quan hệ  sản xuất không có những sự  thay đổi cho phù  hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ  sản xuất  cần phải căn cứ  vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về  mặt tính chất và trình độ  của chúng (đây là cơ  sở  lý luận trực tiếp của  việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá  trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay). 2/ GIẢI PHÁP:
  13. Cải tạo xã hội chủ  nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của  quá trình tiến từ  sản xuất nhỏ  lên sản xuất lớn xã hội chủ  nghĩa là quan   hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy  nhau cùng phát triển. Phải coi trọng những hình thức kinh tế  trung gian,   quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi  phải đẩy mạnh xây dựng cơ  sở  vật chất kỹ  thuật, tạo ra lực lượng sản   xuất mới trên cơ  sở  đó tiếp tục đưa quan hệ  sản xuất lên hình thức, quy   mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển.  DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ­ Giáo trình triết học Mác­LêNin (Nhà xuất bản Chính trị  quốc   gia). ­ Tạp trí triết học (2002). ­   (1) Báo Lao Động Thủ đô.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2