intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Việt Nam gia nhập ASEAN- nhìn từ góc độ lợi ích an ninh của Việt Nam

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

106
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô, cùng là sự suy yếu của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, nước vẫn kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội, biến động đó ít nhiều gây ra thách thức nguy cơ đe dọa về an ninh. Bởi lẽ, bên cạnh sức mạnh nội lực, từ giai đoạn trước sự bảo trợ an ninh từ Liên Xô có vai trò không thể phủ nhận đối với an ninh của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Việt Nam gia nhập ASEAN- nhìn từ góc độ lợi ích an ninh của Việt Nam

  1. Tiểu luận VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỢI ÍCH AN NINH CỦA VIỆT NAM 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô, cùng là sự suy yếu của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, nước vẫn kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội, biến động đó ít nhiều gây ra thách thức nguy cơ đe dọa về an ninh. Bởi lẽ, bên cạnh sức mạnh nội lực, từ giai đoạn trước sự bảo trợ an ninh từ Liên Xô có vai trò không thể phủ nhận đối với an ninh của Việt Nam. Thích ứng với tình thế mới, Việt Nam đã có những đổi mới trong nhận thức về an ninh, xuất phát từ đổi mới tư duy nhằm tìm kiếm phương thức thích hợp xây dựng sức mạnh an ninh quốc gia. Tháng 07/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, đây là sự kiện quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với không chỉ bản thân Việt Nam mà còn với cả toàn khu vực Đông Nam Á. Đó là sự gạt bỏ những ranh giới về ý thức hệ, những khúc mắc do lịch sử để lại để hướng tới sự hợp tác toàn diện. Nhìn từ góc độ hợp tác an ninh, câu hỏi được đặt ra là: Gia nhập ASEAN có phải là quá trình Việt Nam chuyển đổi cơ sở an ninh từ sự bảo từ sự bảo trợ của Liên Xô sang liên minh an ninh ở cấp khu vực? Nếu có thì quá trình chuyển đổi đó ra sao, đâu là nhân tố tác động chính? Và lợi ích an ninh Việt Nam có thể đạt được từ mối liên kết với ASEAN? Giải trình những vấn đề trên là không dễ dàng, ở mức trình độ của một học viên bộ môn Chính sách đối ngoại, người viết không dám đặt tiêu diễn giải cách toàn diệnvà đúng đắn bản chất vấn đề. Mong muốn của người viết dừng lại ở việc có thể bước đầu tiếp xúc với một sự kiện về đối ngoại, bày tỏ nhận định chủ quan trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan. Qua đó, mong nhận được sự nhận định của thầy cô ở mức độ mục tiêu giới hạn mà bài viết hướng tới. I. NHỮNG DIỄN BIẾN MỚI TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH CÓ THỂ TÁC ĐỘNG ĐẾN AN NINH CỦA VIỆT NAM. 1. Tình hình thế giới và khu vực. 2
  3. Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Như vậy, trên bàn cờ thế giới, cục diện hai cực đã chấm dứt và chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thế thoái trào. Mặt khác, cần thấy rằng từ cục diện mới, trên thế giới đã diễn ra một quá trình sắp xếp lại lực lượng theo xu hướng khu vực hoá dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia. Khu vực Đông Nam Á tiếp tục là nơi thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Sự lớn mạnh của Trung Quốc gắn với tham vọng mở rộng ảnh hưởng nhất là ở khu vực Đông Á khiến các nước lớn khác e ngại. Sự tranh giành ảnh hưởng ở Đông Nam Á vừa tạo cơ hội cho an ninh khu vực này vừa chứa đựng những biến động an ninh bất thường. Tư duy về an ninh đã có những biến đổi. Sức mạnh quân sự không còn là cơ sở duy nhất để đảm bảo an ninh, các khái niệm “an ninh kinh tế”, “an ninh văn hóa”…ngày càng được đề cập nhiều hơn. Mặt khác, các nước khi nhấn mạnh về nguy cơ bất ổn về an ninh không chỉ đơn thuần là các mối đe dọa truyền thống mà nay kèm theo các nguy cơ bất ổn phi truyền thống biểu hiện dưới nhiều chiêu thức tinh vi, phức tạp như vấn đề diễn biến hòa bình. 2. Tình hình trong nước. Sau một thời gian đổi mới toàn diện (từ 1986), tình trạng khủng hoảng của Việt Nam đã phần nào được giải quyết, an ninh nhìn chung được đảm bảo. Lãnh đạo Việt Nam ngày càng thiên về nhận định chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy ra. Mặt khác, lãnh đạo Việt Nam cũng ngày càng chú trọng việc xem xét phạm trù “an ninh” gắn với tính toàn diện - “an ninh toàn diện”. Tuy nhiên, một số nguy cơ về an ninh vẫn đang tiềm ẩn. Việt Nam là nước Đông Nam Á trực tiếp vấp phải việc các nước khẳng định quyền lực và yêu sách, đặc biệt tại vùng biển Đông và trên biên giới đất liền. Sự cần thiết thiết tập trung phát triển kinh tế là đúng đắn, bởi kinh tế phát triển mạnh sẽ là cơ sở quan trọng tạo lập sức mạnh quốc gia qua đó bảo đảm an ninh. Tuy nhiên cái giá phải trả cho tăng trưởng và mở cửa là sự thay đổi và dễ tổn thương khi thực tế là Việt Nam chưa đủ mạnh. 3. Nhận định cơ hội và thách thức cho an ninh Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. 3
  4. Như đã chỉ ra ở trên, cùng với việc kết thúc chiến tranh lạnh, giảm căng thẳng, hòa dịu giữa các cường quốc trên thế giới và ở Đông Nam Á, việc ký kết Hiệp định hòa bình Paris về vấn đề Campuchia tháng 10/1991 đã đặt cho cả Việt Nam và các nước ASEAN những cơ hội và thách thức mới về an ninh. Về cơ hội, lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh xung đột đối đầu, tất cả các quốc gia và nhân dân trong khu vực Đông Nam Á đã có những cơ hội để phát triển: cơ hội thoát ra khỏi các cuộc xung đột nảy sinh từ cá cuộc đấu tranh mang tính địa chiến lược và những bất đồng về hệ tư tưởng; cơ hội để bắt đầu thiết lập một nền hòa bình bền vững và lâu dài cũng như vun đắp cho tình hữu nghị và thịnh vượng chung của khu vực; cơ hội để khởi xướng tăng cường và phát triển hợp tác (cả về lĩnh vực an ninh) vì tiến bộ chung chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới. Về thách thức, sự tan rã của Liên Xô kéo theo sự sụp đổ trong các cân lực lượng trong quan hệ quốc tế đưa đến sự thay đổi trong cán cân lực lượng trên thế giới và ở khu vực Đông Nam Á. Cả Hoa Kỳ và Nga đều bắt đầu giảm sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực. Việc giảm sự có mặt về quân sự của cả Hoa Kỳ và Nga đã tạo một khoảng trống quyền lực ở khu vực. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò về cả chính trị, kinh tế, quân sự của một vài cường quốc châu Á đã làm tăng mối lo ngại truyền thống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam Á khác về một nguy cơ can thiệp của các nước lớn đối với khu vực. Đối với Việt Nam, nước vẫn kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự rút lui của Liên Xô gây bất lợi trực tiếp về an ninh, mà cần nhấn mạnh là mất đi sự bảo trợ an ninh của Liên Xô vốn là “niềm tin” là “hòn đá tảng” cho Việt Nam trong giai đoạn trước. Còn việc Mỹ rút lui đã làm mất đi chỗ dựa truyền thống về an ninh của các nước ASEAN1. Vấn đề Campuchia chưa phải đã thực sự kết thúc cùng với đó là việc nảy sinh những nguy cơ xung đột tiềm tàng ở biển Đông. Đó là những thách thức rất lớn đối với cả Việt Nam và ASEAN buộc họ phải cần thiết tính toán, nhằm tìm ra một cơ chế đảm bảo an ninh, gìn giũ hòa bình mong manh vừa mới giành được cho khu vực. 1 Vũ Huân Chương, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 1975-2002, Hà Nội, 2002, tr. 124. 4
  5. II. TÌM KIẾM ĐIỂM TỰA MỚI CHO ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA 1. Nhận định mối đe dọa trực tiếp nhất đến an ninh của Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, chiến tranh lạnh chấm dứt đã cải thiện triển vọng an ninh ku vực và tăng trưởng, nhưng không phải không có những phức tạp mà Việt Nam thấy sẽ khó xử. Nhiều học giả cho rằng, giai đoạn này “mối đe dọa an ninh từ Trung Quốc” dù không rõ ràng song thực sự là nhân tố tiềm ẩn và thực tế nhất. Ngoài mục tiêu lôi kéo, gây ảnh hưởng chính trị ở khu vực, việc bành trướng mở rộng lãnh thổ là mục tiêu lâu dài, căn bản của Trung Quốc đối với Đông Nam Á. Năm 1974, Trung Quốc đưa quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Kể từ đó, Trung Quốc đẩy mạnh việc thăm dò, lấn chiếm thêm nhiều đảo, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để khẳng định bá quyền của mình ở biển Đông, tháng 6/1987 hải quân Trung Quốc tổ chức cuộc tập trận lớn quanh khu vực quần đảo Trường Sa. Tháng 2/1992 Bắc Kinh đã làm nhiều nước Đông Nam Á lo ngại bằng việc thông qua đạo luật về các vùng lãnh hải, bao gồm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và cả nhóm đảo Senkaku hiện đang do Nhật cai quản. Tháng 5/1992 Trung Quốc ký hiệp định với công ty năng lượng Crestone (Mỹ) về việc thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam Đầu năm 1995, Trung Quốc chiếm đảo Mischief (Vành khăn) và xây dựng ở đây các cơ sở nghiên cứu khoa học. Chiến thuật “gặm dần” của Trung Quốc ở Biển Đông là những thách thức vô cùng lớn đối với các nước ASEAN hiện nay2. Như vậy, với sự lớn mạnh và những tham vọng, Trung Quốc đã hội tụ đủ điều kiện để trở thành mối đe dọa đối với an ninh khu vực và bản thân Việt Nam. 2. Các kịch bản có thể cho xây dựng nền tảng sức mạnh an ninh của Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, an ninh của Việt Nam phải đối mặt với thách thức mới: cần thiết phải chuyển đổi cơ sở của an ninh quốc gia từ sự đảm bảo của 2 www.hcmussh.edu.vn/USSH/ImportFile/Magazine/Journal051006022705.doc 5
  6. Liên Xô sang đối tượng khác thay thế hoặc là một phương thức mới. Các kịch bản có thể để giải quyết thách thức đó là: Thứ nhất, đặt an ninh của mình dựa vào sức mạnh bản thân. Cơ sở của kịch bản này phần nhiều xuất phát từ lịch sử bảo vệ nền độc lập của Việt Nam. Việt Nam thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc và càng tự hào chiến thắng hai đế quốc Pháp, Mỹ trong cuộc đấu tranh chính nghĩa. Tuy nhiên, chỉ dựa vào sức mạnh bản thân là một điều thiếu thực tế. Chẳng hạn, khi nhận đinh rằng Trung Quốc là một mối đe dọa an ninh và so sánh sức mạnh quân sự của Việt Nam với Trung Quốc: Vào giữa năm 1987 theo việc “điều chỉnh chiến lược”, số quân của Việt Nam đã được cắt giảm khoảng 600.000 người từ cao điểm là khoảng 1,2 triệu người cộng với lực lượng dự bị và dân quân tự vệ bao gồm 200.000 sĩ quan, “cán bộ chuyên môn” và công nhân trong các xí nghiệp quốc phòng, lực lượng bộ binh chính quy được ổn định ở mức khoảng nửa triệu người. Năm 1991, Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế đã giảm ước tính về số lượng máy bay MIG-21 của Việt Nam từ 206 chiếc xuống còn 125, máy bay tấn công mặt đất từ 176 chiếc xuống còn 60 và xe tăng tấn công chủ lực từ 1.600 xuống còn 1.300 3 . Trong khi Trung Quốc bắt đầu phát triển hải quân tầm xa và một lực lượng không quân hoạt động trên biển hướng về Đài Loan và Đông Nam Á, thì Việt Nam chỉ có 7 chiếc khu trục nhỏ cũ kỹ và 55 chiếc tàu tuần tiễu ven bờ trong lực lượng hải quân gồm 12.000 người.4 Thứ hai, đảm bảo an ninh dựa vào sức mạnh của một siêu cường. Cơ sở của kịch bản này cũng xuất phát từ quá khứ: chúng ta không thể phủ nhận lợi ích to lớn từ sự ủng hộ của Liên Xô hay Trung Quốc trong những giai đoạn nhất định của công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của Việt Nam (chống đé quốc Pháp, Mỹ). Một số học giả cho rằng Việt Nam hiện đang một mình đương đầu với Trung Quốc và cho rằng Việt Nam và Mỹ dường như có lợi ích an ninh chung trong việc phát triển quan hệ gần gũi với nhau hơn để đối phó với một Trung 3 Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế, “Cán cân quân sự”, London, Brassey, 1990-1991 trích lại trong “An ninh của Việt Nam trong nước và khu vực, mối quan hệ kinh tế-chính trị” của tác giả William S. Turley. 4 Đã dẫn, 1992. 6
  7. Quốc đang ngày một mạnh lên5 (bản thân Mỹ cũng muốn kiềm chế sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ra khu vực Đông Nam Á). Tuy nhiên, kịch bản này cũng kém tính thực tế bởi lẽ bất cứ cường quốc nào có lợi ích toàn cầu chắc chắn cũng sẽ cho rằng Việt Nam ít quan trọng hơn một cường quốc khác (chẳng hạn Trung Quốc) trong chiến lược của mình6. Thứ ba, bảo đảm an ninh trên cơ sở liên minh quân sự với các nước trong khu vực. Cơ sở của kịch bản này là các nước trong cùng khu vực thường có chung lợi ích đảm bảo an ninh để cùng chống lại sự đe dọa từ bên ngoài. Nếu mối đe dọa an ninh đối với Việt Nam đến từ Trung Quốc hiện hữu thì đối với các nước Đông Nam Á khác mối nguy này cũng không có tính ngoại lệ. Sự phối hợp thống nhất ASEAN (vốn phân thành hai khối đối lập) sẽ tạo ra sức mạnh đáng kế đối trọng hay ít nhất mang tính phòng ngự trước sự đe dọa từ phía Bắc. Người viết cho rằng, kịch bản thứ ba có phần hợp lý hơn so với hai kịch bản đầu, cũng có nghĩa câu trả lời cho thách thức an ninh của Việt Nam đã nêu trên là “cần thiết chuyển cơ sở an ninh quốc gia từ sức mạnh quân sự và sự bảo đảm của Liên Xô sang ngoại giao và hòa giải với các nước láng giềng” tức là cần thiết thúc đẩy bước đi “trở thành thành viên của ASEAN”. 3. Gia nhập ASEAN - Quá trình chuyển đổi “cơ sở an ninh quốc gia”. Từ cuối những năm 60 đến những năm 80, Việt Nam theo luận thuyết “ba dòng thác cách mạng”, coi sức mạnh đang lên của chủ nghĩa xã hội do Liên Xô lãnh đạo và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản là các xu thế chủ yếu định hình so sánh lực lượng toàn cầu. Việt Nam tin tưởng sự ủng hộ của Liên Xô là lâu dài, coi các nước láng giềng là phụ thuộc vào Mỹ, là tổ chức trá hình do Mỹ lập nên để đối chọi với Việt Nam. Nhận thức ấy đã phân khu vực thành hai khối đối lập. Sự thay đổi của Liên Xô, những biến động ở Campuchia, kinh tế hóa tập trung trì trề dẫn đến khủng hoảng kinh tế và một loạt các vấn đề khác, trong khi ASEAN phát triển mạnh đã khiến chúng ta 5 Richard Betts, “Vietnam’s Strategic Predicament”, Survival, Vol.37, No. 3 (Autumn, 1995) trích lại trong “Xây dựng một mô hình lý thuyết cho quan hệ Việt Nam-ASEAN giai đoạn hậu chiến tranh lạnh” của tác giả Nguyễn Vũ Tùng. 6 “An ninh của Việt Nam trong nước và khu vực, mối quan hệ kinh tế-chính trị” của tác giả William S. Turley trong “An ninh Đông Nam Á trong thiên niên kỷ mới”, tr.269. 7
  8. điều chỉnh lại các quan điểm trước đây. Đại hội Đảng VI (1986) đã đánh dấu quá trình đổi mới toàn diện của Việt Nam về kinh tế, chính trị và đối ngoại. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua NQ13 về “chính sách đối ngoại” đã xác định “Cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay …” 7; đưa ra lý luận về “an ninh toàn diện” dựa vào sức mạnh kinh tế, khả năng quân sự thích đáng để phòng thủ và “mở rộng hợp tác quốc tế”. Việc Liên Xô ngừng viện trợ quân sự và bắt đầu từ tháng 1/1991 chuyển sang thanh toán ngoại tệ mạnh trong buôn bán Xô-Việt, rồi gần như ngay sau đó Liên Xô sụp đổ đã làm cho Việt Nam mất đi chỗ dựa8. Quan hệ Trung-Xô được cải thiện, vấn đề Campuchia dần đi vào giải quyết thực chất với vai trò khá quan trọng của ASEAN. Tình thế mới khiến Việt Nam để có thể đảm bảo an ninh cần thiết có sự đổi mới trong tư duy mà cần nhấn mạnh là tư duy về “tập hợp lực lượng”. Theo đó, nguyên tắc “thêm bạn bớt thù” được áp dụng. Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ bao trùm của đối ngoại đó là “giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đảng đã tuyên bố tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển”9 . Đồng thời, đề ra định hướng đối ngoại “phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác”. Như vậy trước diễn biến của tình hình mới Đảng đã có nhận thức mới về vấn đề hoà bình, an ninh ở khu vực, thấy rõ mối liên hệ ràng buộc giữa an ninh quốc gia với an ninh khu vực và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Năm 1993, đẩy mạnh đường lối đối ngoại chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực Chính phủ Việt Nam công bố “Chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối với khu vực” trong đó thể hiện quan điểm nhất quán “tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước 7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13/BCT, ngày 20/5/1988 trích lại trong “Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam” của tác giả Vũ Huân Chương trong “Chính sách đối ngoại Việt Nam 1975-2006”, Hà Nội, tr.183 8 “An ninh của Việt Nam trong nước và khu vực, mối quan hệ kinh tế-chính trị” của tác giả William S. Turley trong “An ninh Đông Nam Á trong thiên niên kỷ mới”, tr.267. 9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr147. 8
  9. láng giềng cũng như với hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách là một tổ chức khu vực” đồng thời bày tỏ mong muốn “sẵn sàng gia nhập ASEAN vào một thời điểm phù hợp”. Như vậy đến thời điểm này, Việt Nam đã tiến một bước chuẩn bị cho việc trở thành thành viên của tổ chức ASEAN, để có thể đóng góp một cách tốt nhất cho sự ổn định vì hòa bình, an ninh trong khu vực và an ninh của bản thân Việt Nam. Phòng thủ an ninh, rõ ràng khi còn là nước yếu Việt Nam không thể chỉ dựa vào sức mạnh của bản thân mà cần thiết tìm kiếm sự hỗ trợ tích cực từ bên ngoài. Hiệp ước Hữu nghị và thân thiện với Liên Xô (từng được coi là sự bảo trợ vững chắc về an ninh) dù có hiệu lực đến 2003 song với sự sụp đổ của Liên Xô, cơ sở bảo trợ an ninh ấy cũng dường như hết tác dụng. Liên Xô không còn là chỗ dựa anh ninh, tìm đối tượng thay thế (một cường quốc khác) như đã phân tích ở trên là không thực tế, cơ hội tốt nhất cho Việt Nam để mở rộng quan hệ phòng thủ có thể là các mối quan hệ tay đôi với các nước ASEAN khác. Việt Nam và ASEAN đã tìm thấy những điểm đồng về an ninh. Chiến lược bành trướng ở biển Đông của Trung Quốc đã vấp phải sự phản ứng gay gắt của các nước trong khu vực. Chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông cùng với việc tăng cường vũ trang đã gây ra mối đe doạ tiềm tàng đối với nền an ninh của các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nó đã trở thành nhân tố tác động bên ngoài quan trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa Việt nam với ASEAN. Hợp tác an ninh với ASEAN, Việt Nam cũng có cơ hội tham gia vào các diễn đàn đảm bảo an ninh khu vực, qua đó tạo nền tảng bảo đảm an ninh quốc gia. Tại hội nghị các vị bộ trưởng ASEAN lần thứ 26 tại Singapore ngày 23 đến 25 tháng 7 năm 1993, các nước đã thống nhất thiết lập ARF. Trong một khu vực vốn ít có lịch sử hợp tác an ninh, Diễn đàn khu vực ASEAN là một diễn đàn quan trọng nhất về hợp tác an ninh ở châu Á. Diễn đàn này đã bổ sung vào các cơ chế liên minh song phương và đối thoại khác nhau hiện có ở châu Á, củng cố thêm viễn cảnh hợp tác an ninh ở khu vực này. Diễn đàn ARF được xây dựng từ ý tưởng rút ra từ chính kinh nghiệm của ASEAN rằng một tiến trình đối thoại có thể tạo ra những biến chuyển tích cực trong quan hệ chính trị giữa các nước. Nó tạo ra một cơ chế hoạt động giúp các thành viên có thể thảo luận về các vấn đề an 9
  10. ninh hiện có trong khu vực và tăng cường các biện pháp hợp tác nhằm thúc đẩy hoà bình và an ninh trong khu vực10. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia vào ASEAN cũng là tham gia vào khu vực có sự tranh giành của các cường quốc, nên an ninh cũng có thể được đảm bảo do cơ chế cân bằng giữa các nước lớn. Sự ảnh hưởng của các cường quốc bảo trợ cho ASEAN như Nhật Bản, Mỹ (mặc dù đã giảm nhiều sau chiến tranh lạnh), và cả Trung Quốc tạo một thế cân bằng tức là một nước lớn không dễ đơn phương tác động đe dọa đến an ninh khu vực Đông Nam Á. Để gia tăng sức mạnh, Việt Nam cần mở rộng ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế. Tham gia vào ASEAN đem lại một khả năng tác động vào chính sách của các nước trong khu vực. III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ Nếu xem xét lợi ích an ninh như là nguyên nhân để Việt Nam gia nhập ASEAN thì có thể thông qua cách nhìn của chủ nghĩa hiện thực để giải thích, rằng: Trong tình trạng vô chính phủ trong một thế giới tự cứu, các quốc gia phải tìm cách gia tăng sức mạnh tương đối về quân sự và kinh tế của mình hoặc bằng cách liên minh với các chủ thể khác mạnh hơn để bảo đảm an ninh cho mình. Các tổ chức quốc tế không thể tác động vào hành động của các quốc gia. Các tổ chức liên minh này được tạo ra trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các nước lớn để bảo vệ và tăng cường lợi ích của chính những nước lớn đó. Cụ thể mục đích bảo đảm an ninh bằng sức mạnh tập thể, Việt Nam tham gia vào ASEAN nhằm đảm bảo an ninh chống lại ảnh hưởng có tính chất đe đọa độc lập của Trung Quốc, nước mà trước đó Việt Nam đã mở cửa tái lập quan hệ. Việt Nam và Trung Quốc tuy cùng một chế độ xã hội nhưng một sự đề phòng là rất cần thiết bởi nước này không phải là một nước bình thường mà là một cường quốc đang nổi lên. Theo người viết, với việc trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam có thể đạt được những lợi ích nhất định về an ninh. An ninh của Việt Nam có được điểm tựa mới, không hoàn toàn mang tính quyết định song sẽ cùng với sức mạnh 10 http://vi.wikipedia.org/wiki/Di%E1%BB%85n_%C4%91%C3%A0n_Khu_v%E1%BB%B1c_ASEAN 10
  11. an ninh nội lực của Việt Nam và các phương thức xây dựng sức mạnh an ninh khác góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cho Việt Nam. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN đã gây kinh ngạc cho không ít người bởi nhận định sự đối lập về ý thức hệ và những biến tích đối đầu giữa Việt Nam và ASEAN là không thể hòa giải. Theo người viết, lý giải cho điều này, từ phía Việt Nam có thể xem xét đến: Sự đổi mới về tư duy là nhân tố quan trọng, nhất là trong nhận thức về “đồng minh”, “tập hợp lực lượng”, yếu tố ý thức hệ giảm, thay vào đó là dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia; Tư duy về an ninh của Việt Nam đã hoàn thiện hơn, khái niệm “an ninh toàn diện” được đề cập; Những động thái cải thiện trong quan hệ với ASEAN là hệ quả trả lời xu thế mới của thời đại cũng như những yêu cầu nội tại của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khách quan rằng lợi ích an ninh của Việt Nam từ sự hợp tác với ASEAN có những giới hạn nhất định: Thứ nhất, các nước ASEAN thực chất vẫn có sự phân chia về ý thức hệ, sự đa dạng về điều kiện, hoàn cảnh mỗi nước cũng như trình độ phát triển không đồng đều. Đó sẽ tiếp tuc là nhân tố cản trở các bên đạt lợi ích từ quá trình hợp tác bao gồm cả lợi ích an ninh. Thứ hai, việc khu vực này còn phải đối mặt với những tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp lãnh hải, các vấn đề chia rẽ sắc tộc, tôn giáo vẫn tạo nhiều nguy cơ tiềm ẩn, có thể phá vỡ các mối quan hệ bên trong ASEAN và sự ổn định của toàn vùng. Thứ ba, Việt Nam có những lý do lịch sử để xem xét mối quan hệ của một số thành viên ASEAN với các cường quốc ngoài khu vực. Chẳng hạn, những lo ngại về việc một số nước có thể để cho Mỹ sử dụng lãnh thổ làm căn cứ hải quân. Thứ tư, Việt Nam cũng thấy rằng hợp tác về an ninh của ASEAN thiếu hiệu quả do một số nước thành viên coi trọng mối quan hệ của họ với Bắc Kinh và Washington hơn. KẾT LUẬN 11
  12. ASEAN là cửa ngõ đầu tiên và then chốt cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. Đó là bước chuyển từ tư duy đổi mới sang hành động thực tế ở cấp độ khu vực. Gia nhập tích cực, chủ động, Việt Nam đã xóa đi những nghi kỵ trong các nước khu vực và thế giới do những vấn đề lịch sử để lại. Trong Cộng đồng ASEAN, xây dựng cộng đồng an ninh - chính trị là khó khăn lớn nhất. Giữa Việt Nam và ASEAN còn tồn tại những dị biệt về thế chế chính trị, về trình độ phát triển kinh tế –xã hội, do đó mối quan hệ Việt Nam và các nước ASEAN còn phải trải qua những thách thức mới nảy sinh từ nội bộ của khối và từ cả những sức ép từ bên ngoài. Khó khăn còn ở chỗ cả các nước ASEAN và Việt Nam có truyền thống nhận bảo hộ an ninh từ bên ngoài. Do đó, sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN, xóa đi những nghi kỵ để cùng hợp tác toàn diện trong đó có trụ cột an ninh như là điểm nhấn mới đánh dấu việc hình thành phương thức xây dựng sức mạnh an ninh mới từ sự liên kết cấp khu vực. Trong quá trình hoà nhập với sự phát triển cũa khu vực và thế giới, gia nhập ASEAN sẽ giúp chúng ta làm quen với thể chế hợp tác khu vực và quốc tế. Ngày nay, trong các sự hợp tác đó, nhân tố kinh tế thường được nhấn mạnh. Song theo người viết, lợi ích an ninh vẫn cần được xem xét và đôi khi trở thành thước mực để đưa ra quyết định ngay cả khi tham gia các liên kết đậm chất kinh tế như Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á –Thái Bình Dương (APEC) hay Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). 12
  13. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam 1975-2006, Hà Nội, 2007. 2. Vũ Dương Ninh, Việt Nam-ASEAN Quan hệ đa phương và song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 3. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Việt Nam trong ASEAN nhìn lại và hướng tới, Nxb Khoa họa xã hội, Hà Nội, 2002. 4. Vũ Huân Chương, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 1975-2002, Hà Nội, 2002. 5. Đinh Xuân Lý, Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. 6. http://vi.wikipedia.org/ 7. Một số báo và tạp chí khác. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2