intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính biểu tượng trong nghệ thuật: Một vài cảm nhận về những sáng tác mới của các họa sĩ trẻ Việt Nam đương đại

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

103
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này nhấn mạnh đến một đặc tính quan trọng của nghệ thuật – tính biểu tượng – cùng vai trò và vị trí của nó trong sáng tạo nghệ thuật. Xa hơn, bài viết muốn đề cập đến đặc tính này dưới góc nhìn “lý thuyết nghệ thuật” dựa trên tính biểu tượng qua một số sáng tác của các họa sĩ trẻ Việt Nam đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính biểu tượng trong nghệ thuật: Một vài cảm nhận về những sáng tác mới của các họa sĩ trẻ Việt Nam đương đại

  1. TÍNH BIỂU TƯỢNG TRONG NGHỆ THUẬT: MỘT VÀI CẢM NHẬN VỀ NHỮNG SÁNG TÁC MỚI CỦA CÁC HỌA SĨ  TRẺ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI  Đinh Hồng Hải Sau giai đoạn bùng nổ các trường phái mới được du nhập cùng những tìm   tòi, thử  nghiệm từ  quá trình“mở  cửa,” mỹ  thuật Việt Nam đương đại dường   như  đang có một khoảng lặng. Bên cạnh đó, những trào lưu chép tranh, nhái   tranh cũng đã đến hồi “vãn chợ  chiều.” Tuy nhiên, trong bối cảnh đó vẫn có   nhiều họa sĩ với những sáng tạo mang tính đột phá đã gây tiếng vang không chỉ   ở  Việt Nam mà còn gây  ấn tượng mạnh mẽ   ở  nước ngoài. Đó chính là những   điểm sáng để chúng ta có thể hy vọng vào sức sáng tạo của một thế hệ họa sĩ   mới có thể  đưa nền nghệ  thuật Việt Nam thoát khỏi khoảng lặng nói trên và   thoát ra khỏi “cái ao nhà” chật chội. Bài viết này nhấn mạnh đến một đặc tính   quan trọng của nghệ thuật – tính biểu tượng – cùng vai trò và vị trí của nó trong   sáng tạo nghệ thuật. Xa hơn, bài viết muốn đề  cập đến đặc tính này dưới góc   nhìn “lý thuyết nghệ thuật” dựa trên tính biểu tượng qua một số  sáng tác của   các họa sĩ trẻ Việt Nam đương đại.  Thực trạng nền mỹ thuật Việt Nam Ngay từ  khi được thành lập năm 1925, Trường Mỹ  thuật Đông Dương   (nay là ĐH Mỹ thuật Việt Nam) đã là một trường mỹ thuật hàng đầu ở khu vực  Đông Nam Á và cũng là một trong những trung tâm đào tạo lớn, có uy tín ở khu   vực   châu   Á.   Bên   cạnh   những   tên   tuổi   người   Pháp   như   Tardieu,   Jonchere,  Inguimberty,… thì  ở  giai đoạn đầu của trường mỹ  thuật Đông Dương, những  tên tuổi chói sáng người Việt như  Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nam Sơn, Lê   Phổ, Nguyễn Phan Chánh,… đã được các các nhà nghiên cứu nghệ thuật ở Việt   Nam cũng như  phương Tây đánh giá cao và họ  được gọi là những họa sĩ bậc  thầy (Master). Thế  hệ  tiếp nối thế  hệ, nhiều họa sĩ Việt Nam tiếp tục thành  danh cả trước và trong hai cuộc chiến tranh với người Pháp và người Mỹ.  Sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau giai đoạn “mở  cửa” 1986,   nền mỹ  thuật Việt Nam đã bước sang một trang mới. Kể  từ  đây, các trào lưu   nghệ thuật mới, đặc biệt là nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại từ phương Tây   có cơ  hội phát triển mạnh mẽ  tại quốc gia mới “mở cửa” này. Trong bối cảnh  “trăm hoa đua nở,” nhiều hướng tiếp cận và hình thức thể hiện nghệ thuật mới   đã ra đời tạo nên một sắc thái mới cho nền mỹ  thuật Việt Nam, vốn chỉ được   sử  dụng như  một công cụ  tuyên truyền văn hóa văn nghệ  trước đó. Những tìm   tòi, thể  hiện của các họa sĩ, đặc biệt là những đóng góp của thế  hệ  các họa sĩ  
  2. trẻ, đã giúp cho trào lưu sáng tác mới nở rộ. Cùng với đó là những chương trình  giao lưu nghệ thuật với các nền nghệ thuật phát triển ở Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc,   Tây Ban Nha… đã giúp cho các nghệ sĩ Việt Nam có được một tầm nhìn mới về  nghệ thuật thế giới và nghệ thuật thế kỷ XXI. Bên cạnh những xu hướng phát triển tích cực đó thì một bộ  phận công  chúng (đặc biệt là những trọc phú mới nổi) có tiền nhưng lại không có khiếu  thẩm mỹ  đã ít nhiều gây tác động tiêu cực đến đời sống nghệ  thuật Việt Nam   đương đại. Đã có giai đoạn nền mỹ  thuật Việt Nam “điêu đứng” vì tranh nhái,  tranh chép, tranh giả,… phục vụ các trọc phú. Những sản phẩm phi nghệ thuật  này không chỉ  làm nhiễu loạn nền nghệ  thuật “non trẻ” của Việt Nam mà còn  góp phần đẩy những người chơi tranh ra ngày càng xa không gian nghệ  thuật  đích thực. Hơn thế, chúng còn có nguy cơ  “tiêu diệt” những tài năng trẻ  chạy  đua theo “trào lưu” vẽ  tranh nhái, tranh chép bán cho nhà giàu trọc phú. Do cơ  chế  quản lý nghệ  thuật của Việt Nam còn non yếu và những chế  tài xử  phạt  còn quá nhẹ nên hàng giả, hàng nhái nói chung cũng như tranh giả, tranh nhái nói  riêng đã và đang gây nhiều tác động xấu đến sự  phát triển của mỹ  thuật Việt  Nam đương đại.   Những điểm sáng Trong những gam màu đen tối của hàng giả, hàng nhái, hàng “độc hại”  (trong đó có các sản phẩm nghệ  thuật) đang thống lĩnh thị  trường Việt Nam,  việc “sống bằng nghề” để sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ, đặc biệt là  các nghệ sĩ trẻ, là một thách thức không nhỏ. Trong bối cảnh đó, người nghệ sĩ   buộc phải “thắt lưng buộc bụng” để  phục vụ  nghệ  thuật đích thực hoặc chạy  theo những thị  hiếu tầm thường để  kiếm tiền. Sự  “sa ngã”  ở  đây sẽ  rất khó  nhận thấy. Thậm chí, chính bản thân người nghệ  sĩ có thể  “tặc lưỡi” – kiếm  một chút để lấy sức phục vụ nghệ thuật đích thực! Nhưng rồi sự trượt dài theo  những thị hiếu tầm thường sẽ khiến anh ta “đánh mất mình” lúc nào không biết.   Tới một lúc, họ chợt nhận ra “bút pháp” của mình biến đi đâu mất(?), chỉ còn lại   các “thủ thuật mạo nghệ thuật” để kiếm tiền. Có thể nói, đối với người nghệ sĩ  chân chính, họ  chỉ  có một con đường duy nhất để  hành nghề, đó là sáng tạo  nghệ  thuật. Và sự  sáng tạo  ở  đây chính là những tìm tòi và phát hiện mới.  Người nghệ  sĩ đích thực chỉ  có thể  thực sự  “sống được” với nghề  khi họ  còn   tìm tòi, còn sáng tạo. Sự sáng tạo đưa họ lên đỉnh vinh quang nhưng nghệ thuật  của họ  sẽ  “chết” nếu họ  không còn sáng tạo. Nói cách khác, nghề họa sĩ luôn  luôn gắn với nghiệp sáng tạo. So với các thế  hệ  cha anh, những nghệ  sĩ trẻ  Việt Nam đương đại đã   được tự do hơn rất nhiều trong quá trình tìm tòi và sáng tạo của họ. Sự tìm tòi  
  3. của các nghệ sĩ trẻ hiện nay đến từ sự tự do trong tư tưởng, hoàn toàn không bị  bó buộc như các thế hệ trước (buộc phải sáng tác các theo các chủ đề  phục vụ  chiến tranh, tuyên truyền,…). Và những nghệ sĩ trẻ đã ít nhiều tạo dấu ấn trong  giai đoạn hiện nay như  Nguyễn Ngọc Dân, Vũ Kim Thư, Oanh Phi Phi, Trần   Thu Hằng, Trần Yên Thế, Tuấn Mami,… đã tìm được cái họ cần phải tìm, đó là  tính biểu tượng  trong ngôn ngữ  nghệ  thuật. Thông qua tính biểu tượng trong  nghệ  thuật, họ đã tìm ra hơi thở của thời đại và dấu ấn của lịch sử  trong thực   tại xã hội. Những yếu tố đó cấu thành sức sáng tạo của nghệ  thuật. Dưới đây  xin nêu một số ví dụ.1  Trong  Vắt qua phố  của Nguyễn Ngọc Dân chúng ta thấy rõ những thứ  luôn đập vào mắt ta hàng ngày, nhưng ta vô cảm, đó là là những chùm dây thông   tin. Nhưng rồi Vắt qua phố khiến ta sực tỉnh. Đó chính là một thực tại xã hội, đó  chính là dấu ấn của một giai đoạn lịch sử. Ngôn ngữ biểu tượng trong Vắt qua   phố  đã ghi lại một giai đoạn phát triển cực nhanh của hạ tầng thông tin nhưng   lại lạc hậu về  mặt tư  duy chiến lược. Vì vậy, sản phẩm này giống như  một  chiếc xe hơi hiện đại nhưng lại được kéo bằng đôi ngựa (song mã). Xa hơn một   chút là những chiếc loa phường, vốn được sử  dụng trong chiến tranh từ  40­50   năm trước. Khi đó nó là sự  hiện diện của công nghệ  thông tin đại chúng duy   nhất. Nửa thế kỷ sau nó vẫn tồn tại như những nốt ruồi to tướng giữa bộ mặt   đô thị, bên cạnh những gì đang “vắt qua phố.” Ngôn ngữ này cũng được Nguyễn  Mạnh Hùng khai thác trong Nhà cơi nới với cái “cơ thể” rệu rã của một đô thị cũ  nát với hàng nghìn “chuồng cọp/ba­lô” khoác lên “tấm thân” bệ rạc đó. Ấy vậy   mà cái cơ thể rệu rã đó lại vươn cao xuyên qua những đám mây mù! Cái sự  bay   lên hay vươn cao luôn được nhắc tới mà chẳng cần quan tâm đến thực lực và  thực trạng đó ắt có ngày sụp đổ! Đó chính là những thông điệp của thời đại, đó  chính là những vấn đề xã hội đang hiện hữu ngay trước mắt chúng ta, mà người   nghệ sĩ đã “ghi lại” bằng ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại. Những ngôn ngữ  nghệ thuật mang tính thời đại như vậy, chúng ta cũng đã từng được chứng kiến  qua Phố Phái,... Đó chính là những dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.  Trong Rangoli của Vũ Kim Thư chúng ta lại đọc được một loại ngôn ngữ  khác. Ở đây, chúng ta không nhìn thấy lịch sử và cũng không có thực tại đập vào   mắt như  trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Dân nhưng lại đầy tính chiêm  nghiệm và triết lý trong văn hóa Ấn Độ. Đặc biệt, tư duy nghệ thuật của người   nghệ sĩ ở đây không còn bó hẹp trong bố cục của những bức tranh truyền thống   1  Do khuôn khổ của bản tham luận này chỉ sử dụng trong buổi thuyết trình 01giờ nên tôi chỉ nêu hết sức vắn tắt   về  một số tác giả và tác phẩm. Xin tham khảo thêm website của các tác giả  này để  xem thêm những tác phẩm  khác. Trên thực tế, còn rất nhiều nghệ sĩ có những tìm tòi đột phá theo hướng này, xin được đề  cập đến trong   những dịp khác.
  4. mà đó là một sự kết hợp giữa ngôn ngữ nghệ thuật sắp đặt, tổ chức không gian,   phối màu và ánh sáng,… Cái được biểu đạt  ở  đây là một  ấn tượng nghệ  thuật   đậm nét. Rõ ràng, ngôn ngữ nghệ thuật không có biên giới và sức sáng tạo của   người nghệ sĩ cũng không có giới hạn. Một số tác phẩm khác như  Silence Voice  của Trần Thu Hằng,  Red Light  của Trần Yên Thế, hay  The Cover No.7  của  Tuấn Mami,… lại cho chúng ta thấy những thông điệp về  ngôn luận, về  tư  tưởng,... Ở một góc nhìn khác, Oanh Phi Phi lại đưa chúng ta đến một thực tại   khác của cuộc sống với những bức tường bong tróc hết vữa (hay một bức tường   không có vữa!) có tên gọi Great Wall. Những thông điệp mang tính đối lập trong  các tác phẩm nói trên đã gây tác động mạnh mẽ đến người xem, tuy nhiên, việc   “đọc” chúng không hề  dễ  dàng. Để  thực sự  “đọc” được những tác phẩm như  vậy, chúng ta cần phải có công cụ. Và công cụ   ở  đây chính là việc hiểu rõ  những đặc tính biểu tượng của nghệ  thuật mà người nghệ  sĩ đã sử  dụng trong  tác phẩm của họ. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu hệ  thống lý thuyết  biểu tượng, hay nói cách khác, chúng ta cần phải tìm ra tính biểu tượng trong  mỗi tác phẩm nghệ thuật.  Tính biểu tượng trong nghệ thuật  Mỗi tác phẩm nghệ thuật khi ra đời đều hướng đến một nội dung cụ thể:   Tắt đèn (truyện ngắn) của Ngô Tất Tố mô tả số phận cùng cực của người nông   dân dưới ách cai trị của thực dân Pháp. Chí Phèo (truyện ngắn) của Nam Cao lại  dựng lên một hình mẫu tiêu biểu của một kẻ  cùng đường chuyên rạch mặt ăn   vạ  là sản phẩm của xã hội đương đại,… Hồn Trương Ba – da hàng thịt (kịch)  của Lưu Quang Vũ lại dựng lên chân dung của cái “triều đình” thối nát trong khi  những bản tình ca của Trịnh Công Sơn lại đưa người ta đến “cõi vô thường”,   dường như  là để  trốn tránh những cái cùng cực và bi lụy của xã hội. Có thể  nhận thấy, các tác phẩm văn học, nhạc, kịch hay phim  ảnh đưa nội dung đến  người xem một cách trực tiếp qua nghệ  thuật ngôn từ  hay âm thanh trong khi   ngôn ngữ nghệ thuật của điêu khắc, hội họa, sắp đặt trong mỹ thuật lại không  như vậy. Vậy để thực sự “đọc” được các tác phẩm hội họa, điêu khắc hay sắp   đặt, chúng ta cần phải có một “bộ  chữ cái.” Bộ  chữ  cái này chính là ba hướng  tiếp cận đối với tác phẩm nghệ  thuật: Phê bình nghệ  thuật, lịch sử  nghệ thuật   và khía cạnh xã hội của nghệ  thuật mà chúng ta có thể  coi đó như  là ba chiều  ngang, dọc và sâu của nghiên cứu nghệ  thuật.2 Trong ba chiều kích này, chiều  kích xã hội của nghệ thuật là phúc tạp nhất và khó tiếp cận nhất.  2  Xem thêm bài Từ Kỹ thuật & Ma thuật đến Nghệ thuật & Tác lực qua góc nhìn của Alfred Gell, trong Tạp chí  Tia sáng số 13/2012 để nắm bắt thêm khái niệm này.
  5. Tạm bỏ  qua chiều ngang và chiều dọc mà nhiều nhà phê bình và lịch sử  nghệ  thuật đã nhắc tới, để  tiếp cận chiều kích thứ  ba từ  “đứa con tinh thần”   của nghệ  sĩ, nhà nghiên cứu cần hiểu cái xã hội mà người nghệ  sĩ đang sống,   hiểu cái đối tượng mà anh ta/cô ta đề  cập,… và trên hết, hiểu chiều sâu tư  tưởng của tác giả. Từ những gì đang tồn tại trong môi trường tự nhiên và xã hội   của con người, người nghệ sĩ sẽ  phải chọn một/vài thứ  để  đưa vào tác phẩm.   Đó có thể là những phong cảnh đẹp hay những di tích lịch sử, là con người hay   đồ vật, là cái to lớn như tòa nhà hay nhỏ bé như chiếc đèn tín hiệu giao thông,…  Hoặc những thứ  đập vào mắt ta như  dây điện, loa phường, đường  ống nước,   nhà cơi nới, chuồng cọp  ở chung cư,… Đó là những chất liệu mang tính xã hội  mà người nghệ  sĩ sử  dụng trong tác phẩm của mình. Chúng có thể  được sử  dụng như  những biểu tượng trong nghệ  thuật để  mô tả  cái xã hội, đối tượng   nghệ thuật hay chiều sâu tư tưởng đã đề cập ở trên.  Rõ ràng, ngôn ngữ  nghệ  thuật mà người nghệ  sĩ sử  dụng  ở  đây là tính   biểu tượng và việc đọc ngôn ngữ đó phải cần đến biểu tượng luận. Raymond  Firth đã chỉ  ra hai điểm quan trọng trong toàn bộ  vấn đề  này: “Một phần lớn   nhất trong sáng tạo biểu tượng luận của những hình thức nghệ thuật được thể  hiện ở những hình dáng mang tính ngầm ẩn, không rõ ràng; quá trình khám phá,  nhận diện và đặt tên cho những mô hình biểu tượng được thực hiện bởi những  người quan sát và diễn giải, không được thừa nhận và thường không được biết  đến bởi các nghệ sĩ đã thực hiện. Thứ hai, khi những mô hình biểu tượng được  nhận ra trong các tác phẩm của họ, nó là một phần của tiêu chuẩn hiện đại để  yêu cầu cho nó có một sự tự trị rõ ràng hơn, một giá trị lớn hơn trong môi trường   thẩm mỹ. Sự  công bố  mang tính biểu tượng có chiều hướng được nhìn nhận   thích hợp hơn với sự công bố  thực tế bởi vì, nó được cho là, có thể truyền đạt   khái quát hơn và có những ý nghĩa sâu sắc hơn.”3 Lời tạm kết Có thể  nói, mỗi tác phẩm nghệ  được hình thành trên một cấu trúc chung  nhất đó là cái biểu đạt (CBĐ) và cái được biểu đạt (CĐBĐ). Đây cũng chính là  một trong những mô hình đơn giản nhất, tiêu biểu nhất và cũng hiệu quả  nhất   mà các nhà nghiên cứu đã sử dụng hàng thế kỷ qua trong nhiều bộ môn khoa học  xã hội như văn học, nghệ thuật học, nhân học, xã hội học,… đặc biệt là ký hiệu  học. Nếu coi mỗi đối tượng mô tả  trong tác phẩm nghệ  thuật là một CBĐ thì   mục tiêu sáng tạo mà nó hướng tới chính là CĐBĐ, có thể  đưa vào công thức   sau (dựa trên mô hình ký hiệu học): 3  Xem thêm toàn bài: Các biểu tượng trong nghệ thuật trong nghiên cứu mỹ thuật số 2/2012 của Raymond Firth  do Đinh Hồng Hải dịch tr.90­94.
  6. Cái biểu đạt TÁC PHẨM Cái được biểu đạt Trong đó, tác phẩm nghệ  thuật được hình thành từ  nền tảng xã hội trên cơ  sở  của thực tại xã hội. Bằng ngôn ngữ  biểu tượng, người nghệ  sĩ sử  dụng những  chất liệu xã hội đó để hình thành nên các tác phẩm nghệ thuật theo tiến trình: THỰC TẠI XàHỘI → TÍNH BIỂU TƯỢNG → TÁC PHẨM Vai trò của tính biểu tượng trong mỗi tác phẩm nghệ  thuật được đặt  ở  vị  trí  trung gian trong tương quan giữa tác phẩm với các yếu tố lịch sử, yếu tố xã hội   và yếu tố nghệ thuật:   Trên đây là những phân tích bước đầu về tính biểu tượng trong nghệ thuật, một   hướng tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu nghệ  thuật nói chung và trong mỹ  thuật nói riêng. Mặc dù hướng tiếp cận này chưa được sử  dụng nhiều  ở  Việt  Nam nhưng chúng ta vẫn có thể hy vọng rằng hướng tiếp cận này (với việc tìm  hiểu và phân tích chiều kích xã hội của nghệ thuật) sẽ được các nhà nghiên cứu  quan tâm nhiều hơn trong tương lai. Hà Nội ngày 8/12/2012 Đ.H.H Một số hình ảnh minh họa:
  7. Vắt qua phố, Nguyễn Văn Dân Nhà cơi nới, Nguyễn Mạnh Hùng
  8. Rangoli, Vũ Kim Thư Great wall, Oanh Phi Phi
  9. ‘Silent Voices’, Trần Thu Hằng Red light, Trần Hậu Yên Thế
  10. Tuan Mami ­ "The Cover No,7"
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2